KHÔNG
PHẢI V̀ VĂN HÓA MÀ V̀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN NÊN
ĐĂ ĐỐI XỬ NGƯỜI CÙNG CHỦNG TỘC NHƯ
KẺ THÙ!
Mang tháng 04/1865 đặt cạnh tháng
04/1975, mọi người, kể cả những
người khác biệt chính kiến, đều có thể
dễ dàng nhận ra những khác biệt lớn lao v́
chiến bại tháng 04/1975 là chiến bại của
một quân đội bị “Đồng Minh” đâm sau
lưng
So sánh ngày April 8/1865 của Hoa Kỳ và ngày April 30/1975
của Việt Nam
Lúc bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm 1865,
Đại tướng Robert Lee, thống lănh quân
đội miền Nam, cùng Ban Tham Mưu ngừng chân
đặt bản doanh bộ chỉ huy trong một cánh
rừng gần toà thị xă Appomattox, thuộc tiểu bang
Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước đó đạo quân
miền Nam đă đi không ngừng nghỉ tiến về
phía Tây hướng về dăy núi Blue Ridge, nơi
tướng Lee từng tuyên bố ông có thể cầm
cự chiến đấu ít nhất là 20 năm. Nhưng
đêm nay khi tướng Lee và Bộ Tham Mưu mệt mỏi
của ông dừng quân tại Appomattox th́ đạo quân
miền Nam đang bị quân đội miền Bắc bao vây,
lương thực cạn, hy vọng tiếp tế không
có, hy vọng tăng viện cũng không. Xa xa tiếng
đại bác xé màn đêm dội về... Tất cả hy
vọng của tướng Lee lúc này chỉ c̣n đặt
vào một vị tướng trẻ gan dạ, John Gordon.
Vị tướng này sáng sớm hôm sau sẽ tiến quân
chọc thủng pḥng tuyến bao vây của quân đội
miền Bắc.
Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của
tướng Grant, thống lănh quân đội miền
Bắc, bước vào pḥng riêng của tướng Grant
để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan
hầu cận vội mang đến tướng Grant
một tách cà phê nóng hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ
đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm
bớt mối căng thẳng lo âu của tướng
Grant. Sau cùng tướng Grant kéo ghế ngồi, và khởi sự
thảo bức thư trả lời thư mới nhận
được từ tướng Robert Lee. “Tôi rất muốn
hoà”, tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc
chiến mà không phải tổn thất thêm một nhân
mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến do
Đại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng
hôm nay không có một lợi ích nào cụ thể và tôi không có
thẩm quyền quyết định hoà hay chiến.”
Nhưng bức thư của tướng Grant chưa
kịp đến tay tướng Lee, tiếng súng đă
lại bắt đầu nổ.
5 giờ sáng, sương mù c̣n bao phủ rặng
đồi bên kia Appomattox. Loạt đạn đầu tiên
xé màn sương, đánh thức sáng chủ nhật
9/Apr/1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội
miền nam. Từng đợt tấn công của tướng
Gordon đă đánh bật tuyến pḥng thủ đầu
của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng
đại bác, đánh bạt hai bên mở rộng
đường tiến quân, và ào ạt tiến lên
đồi. Nhưng từ phiá bên kia đồi, quân
miền Nam đă đụng phải một bức
tường dày đặc, kéo dài hơn 2 dặm, cuả hai
đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc.
Và ép từ phiá sau là hai đơn vị bộ binh khác
của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam
bị ép vào giữa, tiến không được, lui
cũng không xong, và “chém vè” cũng không được.
Chỉ trong ṿng 3 tiếng đồng hồ sau,
tướng Lee được tin khấp báo của
tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đă chiến
đấu hết ḿnh. Tŕnh Đại Tướng tôi không
làm ǵ hơn được nữa!”. Lập tức tướng
Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để
quyết định hoà hay chiến. Tướng Lee nói
với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng
c̣n làm ǵ hơn là đến tŕnh diện và đầu hàng
trước tướng Grant”.
Nơi được chọn để nghị hoà là
một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appomattox, một
thị xă hẻo lánh nằm vào phiá Nam tiểu bang Virginia. Có
độ chừng 20 căn phố, lèo tèo vài cửa hàng
nhỏ, một lữ quán và toà thị xă. Khi mặt
trời leo lên cao là lúc tướng Lee đă đến
điểm hẹn, ông bước theo sự hướng
dẫn của vị sĩ quan tuỳ viên và một sĩ
quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của
Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh
phục đại lễ, hông đeo trường kiếm,
ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ.
Giờ đây ông đă có mặt ngay trong ḷng đất
đối phương.
Tướng Ulysses S. Grant, tư
lệnh Bắc quân và tướng Robert Lee, tư lệnh
Nam quân
Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn
gỗ và tướng Grant bước vào. Khác hẳn
với tướng Lee, tướng Grant không đeo
kiếm, không mặc quân phục, quần và đôi ủng lấm
đầy bùn.
Theo yêu cầu của tướng Lee, tướng Grant
đích thân thảo bản văn kiện chính thức
đầu hàng của quân đội liên hiệp miền
Nam và sau tự tay trao cho tướng Lee xem lại. Chậm
răi, từ tốn, tướng Lee rút cặp kiếng
đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo
kính lên và chăm chú đọc.
“….Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải
được liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho
một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những
vũ khí này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các
sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của
họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ
sẽ được phép trở về nguyên quán, và sẽ
không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm
quyền chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu
hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ
cư ngụ.”
Lần đầu tiên trong buổi hội kiến,
gương mặt của tướng Lee tươi hẳn.
Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới
quyền của ông sẽ không bị giam giữ như tù
binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị
đem ra bêu riếu diễn hành hạ nhục trên các
đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không
bị mang ra toà truy tố về tội phản loạn.
Tướng Lee nói, “Thưa Đại Tướng,
những điều kiện đầu hàng thế này
sẽ có ảnh hưởng rất tốt với quân
đội của tôi.” Và tướng Lee nói tiếp,
“Nhưng thưa ngài, trong quân đội miền Nam cuả
tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo
ngựa của họ vào quân đội.”
Tướng Grant nói ông sẽ không thay đổi ǵ trong
văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra khẩu
lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được
phép mang ngưạ và lừa về quê quán để sử
dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại.
Trận đánh quyết định tại Five Forks
(Tháng Tư 1865)
Tướng Lee c̣n thêm một lời yêu cầu nữa. Ông
tŕnh bày cho tướng Grant biết ông c̣n giam giữ hơn
một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng
không có lương thực cung cấp cho họ và ngay chính
quân đội của ông cũng không c̣n lương thực.
Không ngập ngừng, tướng Grant đề nghị
sẽ ra lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho
hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp
miền Nam.
Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ
chưa?”
“Thưa, quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.”
Tướng Lee trả lời.
Tướng Lee đứng dậy, lần lượt
bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của
tướng Grant, bắt tay tướng Grant, nghiêng ḿnh chào
tất cả mọi người có mặt và bước
ra khỏi pḥng họp.
Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đă
đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà,
nơi đôi bên nghị hoà. Khi ngựa tướng Lee
rảo bước đi qua, cặp mắt của hai
vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ
đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh
tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà
lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc
đều đưa tay chào kính vị tướng bại
trận quân đội liên hiệp miền Nam.
Tin đồn đầu hàng của tướng Lee tràn lan
mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ
miền Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung
mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất cứ vật ǵ
có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau.
Súng ống các loại, kể cả đại bác bắt
đầu nổ. Thế nhưng tướng Grant nhanh
chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu
lộ nỗi vui mừng của binh sĩ miền Bắc.
“Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”,
tướng Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày
hôm nay. Quân đội miền Nam đă đầu hàng. Chúng
ta không được phép reo mừng trên chiến bại
của họ”. Điều quan trọng với
tướng Grant là phải làm sao để thắng
trận, đồng thời cũng phải ǵn giữ cho
bằng được sự toàn vẹn t́nh cảm
giữa những người cùng trong cộng đồng
dân tộc Hoa Kỳ.
4:30 chiều ngày 9 tháng 4, 1865, Bộ Trưởng Bộ
Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Đốn nhận được
một điện văn ngắn ngủi của
tướng Grant, “Tướng Lee đă buông súng đầu
hàng quân đội miền Nam theo những điều
kiện do tôi ấn định.”
Cách đó không bao xa, tướng Lee cỡi ngưạ
trở về bản doanh của ḿnh. Dọc hai bên đường,
binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lănh mà
họ tôn sùng. Nhiều người bật khóc, phủ
phục bên đường. Tướng Lee cũng không
cầm được nước mắt. Về
đến đại bản doanh, trước mặt
sĩ quan và binh sĩ đứng chờ, tướng Lee hướng
về họ và nói: ”Tôi đă cố gắng làm tất
cả những ǵ có thể làm được. Và nay ḷng tôi
nặng chĩu và không thể nói ǵ hơn”.
Bước đi vài bước, ông dừng lại và thêm:
“Các anh em hăy trở về quê quán. Và nếu các ngươi
sống được như những công dân tốt
như các anh em đă từng chiến đầu như các
chiến sĩ th́ các ngươi sẽ thành công rồi. Và
tôi sẽ luôn luôn hănh diện v́ các anh em.” Và tướng Lee
biến ḿnh vào trong lều vải của ḿnh.
Điều kiện đầu hàng được hai
tướng Lee và Grant kư kết tại Appomattox ngày 9 tháng 4,
1865 th́ 3 ngày sau, ngày 12 tháng 4 mới là ngày quân liên hiệp
miền Nam chính thức buông súng đầu hàng.
Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phiá Đông rừng Appomattox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là tướng Chamberlain, nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương trên chiến trường.
Chỉ
huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là
tướng Gordon, một trong những cận tướng
can trường của Đại tướng Lee, 4
lần bị thương tại mặt trận, một
lần bị trúng đạn xuyên qua mặt.
Tướng
Chamberlain đă ghi lại trong hồi kư cuả ḿnh:
”Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến
bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống
như một gịng người đội vương
miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và
hiệu kỳ. Đây là những người mà gian lao,
đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử
thần không bẻ cong được quyết tâm của
họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt
đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương
xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến
thắng, họ là những h́nh ảnh sống phản
ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể
có giữa những đồng đội trên chiến
trường”.
Không
hề dự định trước, cũng như không
hề được chuẩn y trước, tướng
Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng
chào!” cho quân đội miền Bắc. Một tiếng kèn
lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân
miền Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập
khuôn vang lên.
Phiá đối diện, tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mă khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một dáng đ́ệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.
Và phiá hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng. Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm th́. Mà chỉ c̣n là một hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại.
Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống. Kế đến họ tŕu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đă khô, sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất…
Tại sao người Mỹ lại có được tháng 04/1865 tuyệt vời như thế kia? Tuyệt vời bởi lẽ cả người thắng lẩn kẻ bại đều thiết tha và chân thành tôn kính lẩn nhau. Tuyệt đối không có cảnh “nhảy múa trên đau khổ của kẻ bại”. Người đích thực là kẻ chiến thắng trong 04/1865 chính là dân tộc Hoa Kỳ.
Mang tháng 04/1865 đặt cạnh tháng 04/1975, mọi
người, kể cả những người khác
biệt chính kiến, đều có thể dễ dàng
nhận ra những khác biệt lớn lao v́ chiến
bại tháng 04/1975 là chiến bại của một quân
đội bị “Đồng Minh” đâm sau lưng.
- Sau 04/1865, quân Bắc Mỹ không hề trả thù quân Nam
Mỹ. Tất cả h́nh thức ăn mừng chiến
thắng đều bị ngăn cấm. Chẳng
những không bị ngược đăi, quân Nam Mỹ c̣n
được Bắc quân trao tặng hơn hai mươi
lăm ngàn 25000 phần ăn như một lời chúc
thượng lộ b́nh an trên con đường trở
về quê hương gốc. Sau 04/1975, CSVN ra lệnh mang ra
chợ xử bắn những quân cán chính nào của VNCH mà
Hà Nội gán cho danh hiệu “ác ôn”. Mặt khác, tất
cả thương bệnh binh của VNCH lập tức
bị đuổi ra khỏi toàn bộ hệ thống quân
y viện của Miền Nam Việt Nam. Đó là lư do
giải thích tại sao những ngày đầu tháng 05/1975 vô
số thương binh VNCH, kể cả những
thương binh vết thương c̣n mới nguyên, lê
lết khắp phố chợ làng quê…
- Không một người lính nào trong quân đội Nam
Mỹ bị bắt giam như những tù binh. Ngược
lại, tại Việt Nam 04/1975, CSVN bắt giam nhiều
trăm ngàn quân nhân từ tướng đến binh (an ninh
t́nh báo) của VNCH. Hành động bắt giam này
được thực hiện bằng lời kêu gọi
mang theo mười ngày lương thực nhằm tạo
cho “nạn nhân” hiểu lầm là họ chỉ đi
“học tập cải tạo” mười ngày. Trong
thực tế 10 ngày có nghĩa là một hai thập niên tù
khổ sai.
Khi mùa dứt chiến chinh trên quê hương tôi (Tháng Tư
1975)
Tháng 04/1865 quân Bắc Mỹ chỉ tịch thu vũ khí
cộng đồng, họ cho phép quan, quân miền Nam
giữ lấy ngựa và vũ khí cá nhân như những tài
sản riêng. Tháng 04/1975 nhà cửa, xe cộ của sĩ
quan cao cấp của VNCH bị tịch thu, vợ con của
quân nhân các cấp bị mất việc làm, bị
đuổi đi kinh tế mới. Đặc biệt, không
chỉ riêng gia đ́nh quân cán chính VNCH mà ngay cả
người dân bị goi là “dân vùng ngụy” cũng bị
CSVN đánh đ̣n rất cẩn thận: đánh tư
sản mại bản, đánh công thương kỹ
nghệ gia, đánh tiểu thương, đánh văn
nghệ sĩ, đánh tu sĩ các tôn giáo. Nói chung, tháng 04/1975
là ngày ghi dấu toàn bộ xă hội miền Nam Việt Nam
biến thành địa ngục trần gian.
Cùng là CON NGƯỜI, tai sao người Mỹ đối
xử với người Mỹ khác hẳn CSVN đối
xử với người Việt Nam? Phải chăng
văn hoá Mỹ khác với văn hoá Cộng Sản?