Chuyện Tháng Tư ĐenTác giả Lâm Văn Bé |
1.
Lịch
sử nhiều khi bị thay đổi. Không
phải v́ sự kiện lịch sử thay đổi,
nhưng sựkiện lịch sử khi được
tường thuật, nhậnđịnh, lại
bị thay đổi bởi chính kiến, thành
kiến, tư lợi.
Khi xưa,
sử quan viết sử đểphục vụ
cho một triều đại cầm quyền, hôm
nay người viết sử hay nghiên cứu
sử lại bị quyền lợi cá nhân hay phe
nhóm chi phối. Đem tâm t́nh viết lịch
sử và đọc lịch sử là chuyện muôn
đời.
Sự gian
trá, ngụy tạo tài liệu lịch sử
lại càng trầm trọng hơn với thông tin
điện tử. Thông tin trên
internet hôm
nay là sản phẩmđôi khi của tưởng
tượng, nếu không là sự lập lại
thành thật những dữ kiện đă bị
nhào nặn, vô t́nh hay cố ư qua các trung gian.
Dĩ nhiên,
chúng ta không thể đa nghi về mọi sự
việc, nhưng đôi khi, việc sử dụng
óc phân tích, sự thông minh để phân biệt
hư thực là điều cần thiết.
Nhân ngày
30 tháng tư, chúng tôi muốn ghi lại
những biến cố quan trọng của Tháng
tư đentừ một số tài
liệu và hồi kư viết bởi các tác
giả người Mỹ, Pháp, và nhất là người
VN, để xem chỉ một tháng thôi,
sựkiện lịch sử đă được
tường thuật và nhậnđịnh khác
biệt thế nào bởi ngay những chứng
nhân hay tác nhân của các biến cố.
- 4 tháng
tư:Trần Thiện Khiêm từ chức
(Todd, p.237), [nhưng theo Hoàng Đống, tr. 356 th́
Khiêm từchức ngày 2] và đề nghị
một danh sách người kế nhiệm là
Trần Văn Đổ, Nguyễn Ngọc Huy,
Trần Văn Lắm. Sau khi cân nhắc, ngày 5, TT
Thiệu mời Nguyễn Bá Cẩn đứng ra
lập nội các chiến tranh (Viên, tr.218) nhưng
phải chờ đến ngày 14 tháng 4, tân
thủ tướng mới tŕnh diện được
nội các với Tổng Thống Thiệu.
- Theo
Nguyễn Tiến Hưng trong Khi Đồng
Minh tháo chạy« Trong suốt
buổi lễ,ông Thiệu tỏ ra căng
thẳng, vẻ mặt xanh xao, duờng nhưnhững
biến cố vừa quađă tiêu hao hết
nghị lực của ông bởi Cộng
Sản(CS)đă tiến gần đến Phan Rang,
nơi sinh trưởng của ông » (Hưng,
tr. 310).
- Theo Snepp,
giới chính trịdửng dưng v́ đó
chỉ là b́nh phong v́ mọi việc do TT Thiệu
quyết định, c̣n Polgar, trưởng pḥng
CIA tại Saigon th́ hài ḷng v́ một tổng trưởng
quan trọng của nội các là nhân viên của
CIA (Snepp, tr. 232).
- Theo
Trần Văn Đôn, mặc dù ông chấp
nhận chức vụ Phó Thủ Tướng, nhưng
ông đă nhận định ông Thủ Tướng
của ông«không phải là người của t́nh
thế, không phải là người dốc tâm
dốc sức để giải quyết cơn
bệnh đă đến hồi ngặt nghèo
của VNCH »(Đôn, tr. 447)
Bùi
Diễm, đại sứ VN tại Mỹ tỏ
ra xem thường ông Cẩn cho là « một người
mà tất cả Saigon biết rằng chẳng có
quyền hành ǵ» (Diễm, tr. 560)
-
8 tháng tư:Trung Úy
KQ/VNCH “trở cờ” Nguyễn Thành Trung lái
F-5 oanh tạc dinh Độc Lập rồiđáp
xuống phi trường Nha Trang (Đà Nẳng,
theo Darcourt, Phước Long, theo Lư Quí Chung) đă
do CS kiểm soát. Báo chí Saigon lúc ấy
đăng tin Trung là người bị khủng
hoảng tâm thần nhưng CS xác nhận Trung làđảng
viên CSđă được gài vào Không quân
Saigon, được tu nghiệp ở Hoa Kỳ
từ năm 1969 đến 1972.
Sau này, năm
1996, Trung là phi công trưởng lái chiếc Boeing
767 đưa chủtịch Lê Đức Anh qua New
York dự lễ kỷ niệm 50 năm thành
lập Liên Hiệp Quốc.
Cuộc oanh
tạc gây ra nhiều hoang mang trong dân chúng và quân
độ như Kỳ đảo chánh hay TT
Thiệu tạo đảo chánh giả để
bắt các phe đối lập.
Cùng lúc
ấy, tại Hà nội, Phạm Văn Đồng
tiếp kiến Đại sứ Pháp Philippe Richer
đề cập đến viễn tượng
hợp tác với Pháp trong việc khai thác các
mỏ dầu ở miền Nam, thay thế các chuyên
viên Hoa Kỳ. Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing
chỉ thị cho đại sứ Jean – Marie Mérillon
tại Saigon tích cực thăm ḍ và bày tỏ
lập trường của Pháp bên cạnh các nhà
lănh đạo VNCH và đại sứ MỹGraham
Martin.
-
9 tháng tư:CS bắt
đầu chiến dịch đại tấn công
với 16 sư đoàn được tổ
chức thành 4 quân đoàn, và một lực lượng
yểm trợ hùng hậu gồm 1 sư đoàn
pháo binh, 2 lữ đoàn chiến xa. Quân đoàn 4
gồm 3 sư đoàn do Trần Văn Trà chỉ
huy gồm SĐ341 (sư đoàn nầy tân
lập, nhiều quân sĩ mới gia nhập, có
nhiều lính dưới 18 tuổi), SĐ 4, SĐ
7, tấn công Xuân Lộc và pháo kích vào BộTư
Lịnh Quân Khu 3 và phi trường Biên Ḥa. (Snepp,
tr. 268)
Nguyễn
Hữu An trong Chiến trường mới,
th́ chi tiết hơn: quân CS có 17 sư đoàn
chia ra 5 quân đoàn tấn công Saigon. Quânđoàn
1 do tướng Nguyễn Ḥa chỉ huy có 30 000
quân phụ trách vùng Đông Bắc (Lái Thiêu,
Bến Cát), quân đoàn 2 do Nguyễn Hữu An
chỉ huy có 40 000 quân tấn công vùngĐông
Nam, (Long Thành, căn cứ Nước Trong, thành
Tuy Hạ), quân đoàn 3 có 46.000 quân do Vũ Lăng
làm tư lệnh tấn công vùng Tây Bắc (Trảng
Bàng, Hốc Môn), quân đoàn 4 do Hoàng Cầm
chỉ huy với 30 000 quân đánh hướng
đông và đông nam (Xuân Lộc, Biên Ḥa, Long B́nh),
quân đoàn 232 do Lê Đức Anh chỉ huy 42
000 quân đánh hướng Tây Nam dọc theo
quốc lộ số 4. (An, tr. 245-47)
Trung đoàn
48 thuộc Sư đoàn 18 BB của tướng Lê
Minh Đảo đă anh dũng chống trả,
mặc dù CS pháo kích đến 10 ngànđại
pháo trong một ngày (theo Snepp th́ 1000, có lẽ
hợp lư hơn), nhưng đă đẩy luiđược
quân CS, và đây là lần đầu tiên sau 3 tháng
chiến thắng trên nhiều mặt trận,
chiếmđược 14 tỉnh, quân CS bị
chận bước tiến. Tướng Trần Văn
Trà, trong hồi kư Kết thúc cuộc chiến
30 năm, đă nh́n nhận là ba sư đoàn
của Hoàng Cầm bị thiệt hại rất
nhiều, Tướng Trà phải tăng viện
quân trừ bị của sư đoàn 6 và 7.
-
Ngày 10, tướng Cao
Văn Viên tăng viện Xuân Lộc: không quân
dội bom 750 cân ở cao độ rất
thấp, khiến quân CS bị thiệt hại
nặng (2000 bịthương và thiệt mạng
(Todd tr. 283) nên phải tiếp viện trước
khi tái tấn công Xuân Lộc nhằm cắt đứt
với Biên Ḥa. Theo Nguyễn Khắc Ngữ, con
số này là 1000(Ngữ, tr. 326)
Nhưng
chiến thắng Xuân Lộc không tạo
được ấn tượng nào trong chính
giới Hoa kỳ. Tuy nhiên, Tổng Thống Gerald
Ford, trong một bài diễn văn đọc trên
đài truyền h́nh toàn quốc cũng vào ngày
10 tháng4 yêu cầu Quốc Hội viện trợ
quân sự cho VNCH 722 triệu mỹ kim theo đề
nghị của tướng Frederick Weyand, tư
lệnh lực lượng Mỹ ở VN, và 250
triệu viện trợ dân sự cung cấp phương
tiện cứu trợ người tị nạn,
nhưng đă bịThượng Viện, lúc
bấy giờ thuộc đảng Dân Chủkhông
trả lời. Sau đó, ngày 16 tháng 4, TT Ford, trong
bài diễn văn đợc trước Hội
các nhà biên tập báo chí Hoa Kỳ (American Society
of Newspaper Editors) lên án Quốc Hội Hoa
kỳ đă bội ước không tôn trọng
nghĩa vụ giúp đỡ VNCH trong khi Liên Sô và
Trung Cộng gia tăng viện trợ cho Bắc
Việt.Để trả lời TT Ford, ngày hôm
sau, Thượng Viện biểu quyết không
chấp nhận bất cứ một viện
trợ quân sự bổ túc nào cho VNCH.
Phải chăng,
chính sách chống chiến tranh VN của đảng
Dân Chủ là lư do khiến đa số người
VN ở Mỹ có ác cảm với đảng Dân
Chủ và ủng hộ đảng Cộng
Hỏa với mọi giá !
Thực
ra, tất cả chỉ là sựlừa
dối hào nhoáng, danh từ mà Neil Sheehan
đă đặt tên cho quyển sách của ông,
bởi lẽ tuy bề mặt Ford làm ra vẻ như
muốn giúp VN, nhưng bên trong, Ngũ Giác Đài
tuyên bố đă tuyệt vọng và Tổng Trưởng
Quốc Pḥng James Schlesinger đă tuyên bố là
viện trợ chỉ v́ uy tín của Hoa Kỳ:
«Chúng ta không thể nào là quốc gia bỏ rơi
đồng minh, phản bội lời hứa
của chúng ta» (Todd p. 271).
-
Ngày 12, cuộc
triệt thoái của Mỹ trên đất Cao Miên
là một báo hiệu cho miền Nam, càng gia tăng
thêm cơn sốt chính trị và nỗi hoang mang
lo sợtrong dân chúng.
Lúc 7giờ
45 sáng, ba đoàn trực thăng khổng lồ
cất cánh từ hàng không mẫu hạm Okinawa
trong vịnh Thái Lan đáp xuống Nam Vang để
di tản giới chức Mỹ và Cao Miên của chánh
phủLong Boret.
«Thật là
ngạc nhiên và nhục nhă cho người Mỹ,
tất cả nội các và đa sốnhân
vật cao cấp trong chánh quyền Cao Miên từ
chối lời mời của Mỹ để di
tản nhưthủtướng Long Boret, Lon Non (em
của Lon Nol), mặc dù những người
nầy có tên trong danh sách bị án tử h́nh
của Khmer Đỏ ».(Todd p.274)
Tinh
thần kiên cường nầy đă biểu
hiện rơ trong bức thư của Hoàng thân Sirik
Matak viết tay bằng tiếng Pháp gởi chođại
sứ Mỹ John Dean.
Thưa
ông Đại Sứ ,
Tôi thành
thật cám ơn lời mời của Ông định
đưa tôi đến bến bờ tự do nhưng
tôi không thểnào bỏ đi một cách hèn nhát
như vậy.
Đối
với Ông và quốc gia vĩ đại của
Ông, tôi không bao giờ tưỡng tượng
được, dù chỉ một phút, các Ông
đành ḷng bỏ rơi một dân tộcđă
chọn lựa chiếnđấu cho tựdo. Các
ông ra đi, tôi xin cầu chúc cho Ông và quốc
gia của các ông sẽt́m được hạnh
phúc duới bầu trời này.
Nhưng
các ông nên ghi nhận điều nầy là tôi
sẽ chếtở đây, trên đất nước
thân yêu của tôi, và chúng tôi chỉ ân hận
đă phạm một sai lầm lớn là đă
đặt niềm tin vào các ông và nước
Mỹ của các ông.
Sirik Matak
Vài ngày
sau, Kissinger đọc bức thư của Matak cho
các thượng nghị sĩnghe trong bầu im
lặng tuyệt đối và nỗi bàng hoàng. Và
để kết luận, Kissenger vớt vác: Là
người Mỹ,chúng ta phải làm thếnào
để đừng có những bức thư nhưthế
này nữa.(Todd, p.280)
*
Cuộc di tản của Mỹ ở xứchùa Tháp
vẫn không lay
chuyển được niềm tin của TT
Thiệu về sự sống c̣n của chế
độ VNCH. Sau đây là cuộc đối
thoại giữa Hoàngđức Nhă và TT Thiệuđược
Todd ghi lại (Todd tr. 276)
- HĐN:
Chuyện như vậy sẽ xảyđến
ở Saigon
- TT
Thiệu: Chú tin như vậy ?
- HĐN:Đúng
vậy, nếu CS tập trung lực lượng
tấn công chúng ta.
-
TTThiệu: Tôi không tin như vậy và chẳng
tin bao giờnhư vậy.Ở đây có
nhiều yếu tố khác.
*
Dương Văn Minh,
người tự nhận là cứu tinh của
đất nước, b́nh thản nhận
được tin Nam Vang thất thủ lúcđang
uống trà với các bạn tại Đường
Sơn Quán, tiệmăn của tướng Mai
Hữu Xuân ở Thủ Đức.
Trả
lời câu nói của bạn ông là Tôn Thất
Thiện là rồi đây Cộng Sản sẽ
vô Saigon, Minh phản đối: Anh không
phải là quân nhân, anh chẳng biết ǵ
cả.Phải 6 tháng nữa ḱa. (Todd p. 293).
-Ngày
14 , Trần VănĐôn gặp Đại
sứ Martin thông báo là ông vửa tiếp xúc
với một đại diện Mặt Trận
Giải Phóng và đề cập đến 3
điểm:
- Đôn có
thể thay thế Thiệu,
- CS không
cản trở người Mỹdi tản người
Việt,
- và Hoa
kỳ có thể giữ lại một một ṭa
đại sứ nhỏ ở Saigon với điều
kiện những viên chức Mỹ phải ra
đi.
Trong khi
Snepp không tin những tin tức loại này cũng
như luận điệu tương tự
của đại sứ Pháp
Mérillon
chỉ v́ tham vọng cá nhân cũng như ư đồ
của nước Pháp, Martin lại có vẻ tin tưởng.
(Snepp tr. 272).
Điều
nầy cũng được Đôn xác nhận
trong hồi kư của ông: «Cũng trong ngày 20
tháng tư,lúc 4 giờ
chiều,
tôi đến gặpđại sứ Martin
tại sứ quán, Martin đă nói với tôi:Thật
sự lúcđó [trả lời câu hỏi của
TT Thiệu] tôi muốn ông [Trần VănĐôn]
làm thủ tướng toàn quyền hơn là ông
Minh, nhưng Hà nội chỉ muốn nói
chuyện với ông Minh mà thôi»
(Đôn, tr. 457)
Không tin
chiến thắng sắp đến của CS, mà
cũng không hi vọng Quốc Hội Mỹ
chấp nhận viện trợ bổ túc.
Ngày 15 tháng
4, TT Thiệu cử Nguyễn Tiến Hưng sang
Washington vận động với TT Ford xin vay3
tỷ trong 3 năm, được bảo đảm
bằng lợi tức dầu hỏa sắp khai
thác ở ngoài khơi, 16 tấn vàng dự
trử, tiềm năng xuất cảng gạo (Hưng,
tr. 312).
Nhưng
đă quá muộn. Ngày 18 tháng 4,
Ủy Ban Quốc Pḥng Thượng Viện bỏ
phiếu chống việc tăng quân viện cho
VNCH và Ủy Ban ngoại giao Thượng Viện
cho phép TT Ford sử dụng quân đội để
di tản người Mỹ ra khỏi VN. Quốc
Hội đă giúp cho Ford rửa mặt, đặc
biệt cho Kissenger khi ông nầy tuyên bố:
«Cuộc
thảo luận về VN nay đă chấm
dứt. Hành Pháp Hoa Kỳ đă chấp nhận
bản án của Quốc Hội, không hiềm thù,
không biện minh và cũng không kháng cáo.» (
Hưng, tr.318)
-
Ngày 17, Nhận
lịnh của thượng cấp, Jean-Marie
Merillon gặp Dương Văn Minh, hứa
hẹn nước Pháp sẽ ủng hộMinh.
Cảm động, Minh bắt tay Mérillon ứa
lệ,hứa sẽlàm được ǵ có
thể. Minh tin tưởng lá bài trong túi: người
em là Dương Văn Nhựtđang ở bên kia.
Sự can
thiệp của Pháp vào giờ thứ 25 thật
sổ sàng, làm áp lực với Tổng Thống
Thiệu từ chức để thay thế
bằng Dương Văn Minh .
Trong khi
đó, Saigon xôn xao v́ những tin tức ḥa b́nh và
chiến tranh trái ngược:
- Bắc
Việt không bao giờ tấn công Saigon. Sẽ có
một chánh phủ 3 thành phần
- Đặc
công đang xâm nhâp vào Saigon chuẩn bị
cuộc tấn công chiếm đóng
- Sẽ có
đảo chánh ở Saigon, ở Hà nội. (Todd
p.295).
-
Ngày 18, Merillon gặp
Martin thảo luận về việc làm áp
lực với TT Thiệu từ chức. Martin
đồng ư.
Tinh
thần TT Thiệu xuống thấp, tin tức
nhiều người thân cận hay đối
lập muốn ông từ chức hay đảo chánh,
(Cao văn Viên, Nguyễn Cao Kỳ và tướng
lănh thân cận) mồ mă ông bà bị đập
phá ở Phan Rang (điềm chẳng lành v́ ông
rất tin dị đoan và theo Nguyễn khắc
Ngữ, tr. 341, đó là lư do quan trọng khiến
ông Thiệu từchức), ông tự cô lập
trong bunker trong dinh Độc Lập, không buồn
trả lời cả điện thoại của ṭa
đại sứ Mỹ.
Về
việc đảo chánh, ông Viênđă cực
lực đính chánh trong biên khảo Những
ngày cuối cùng của VNCH: «Tác
giả là một quân nhân thuần túy, không làm chính
trịvà cũng không có những tham vọng chính
trị. Tác giả đă chứng kiến
những tai hại của hai vụ đảo chánh
trước, nên dù cho có ai rủ đảo chánh,
tác giả cũng không làm. Ở đây, tác
giả cũng muốn khẳngđịnh
những tin tức về tác giả do Frank Snepp
viết trong Decent Interval (trang 287, 288, 394, 397) về
cá nhân tác giả là những ư nghĩ xuyên
tạc,đoán ṃ» (Viên, tr.217,18)
Việc
Nguyễn Cao Kỳ bỏ ư định âm mưu
đảo chánh là do hai yếu tố. Trước
hết là sự từ chối của các tướng
thân cận với ông như Tư lênh Không Quân
Trần Văn Minh, TưLệnh Sư Đoàn Dù Lê
Quang Lưỡng, Tư Lệnh Thủy Quân
Lục Chiến Bùi Thế Lân và một số
chỉ huy trưởng ở Biệt Khu Thủ
đô và Vùng 3 Chiến Thuật. Olivier Todd
thuật lại (tr.300):
- Trần Văn
Minh: Ông cứlàm đi, bắt tôi làm con tin. Tôi
không làm v́ Ṭa đại sứ Mỹ hứađưa
gia đ́nh tôi sang Mỹ nếu tôi không làm ǵ.
- Bùi
Thế Lân: Tôi không đem binh giúp ông, nhưng
chúng tôi không chống .
- Cao Văn
Viên: Ông làmđi, nói cho tôi biết ngày
giờ, tôi sẽmở cổng Bộ Tổng Tham
Mưu.
Nhưng
yếu tố quyết định là sự can
thiệp kịp thời của Martin và tướng
Charles Timmes. Cuộc đối thoại giữa
Kỳ và Martin suốt 2 giờ đă được
Timmes thu âm, nhưng tiếc thay, các sử gia đă
không có dịp nghe được tài liệu
sống v́ cái máy thu âm đă rủi ro bị xóa
trong cái cartable của Timmes (Snepp, tr. 295-96)
Trong lúc
quân đội gần như tan rả, ôngĐôn,
với tính cách TT Quốc Pḥng « quản thúc 5 tướng
lănh đă bỏ miền Trung là Lâm Quang Thi,
Phạm Quốc Thuần, Phạm Văn Phú, Lâm
Quang Thơ và tướng không quân NguyễnĐức
Khánh. Tướng Ngô Quang Trưởng thấy
vậy nên cũng xin được quản thúc
luôn !» (Đôn, tr.455)
-
Ngày 20, lúc 10 giờ sáng,
đại sứ Martin gặp TT Thiệu và
cuộc hội kiến kéo dài 1giờ rưởi.
Theo Frank Snepp, nhân viên phân tích của CIA, trong
quyển hồi kưDecent Interval (bản
dịch tiếng Pháp là Sauve qui peut) tiết
lộ rằng ông đă nhận được
chỉ thị của Polgar, Giám đốc CIA
Saigon, là soạn thảo một bản nhậnđịnh
càng đen tối càng tốt để theo đó
Martin thuyết phục TT Thiệu từ chức.
Bản nhận định có đoạn như
sau:
«Với
sựtan rả của cuộc pḥng thủmặt
trận Xuân Lộc và sựtập trung binh đoàn
Cộng Sản trong vùng3 chiến thuật, cán cân
lực lượng chung quanh Saigon nayđă nghiêng
hẳn vềCS. Mặc dù chính phủ có thể tăng
viện cho những mục tiêu có thểbị
tấn công như Biên Ḥa-Long B́nh ở phía đông
Saigon, các tỉnh Long An-Hậu Nghĩaở phía Tây
hay tỉnh B́nh Dương ờ phía Bắc, chánh
phủkhông đủ sức cầm cự
được lâu. Saigon sẽ bịcô lập
trong vài tuần lễ».
Frank Snepp c̣n
nói thêm là ông muốn viết chỉ một
tuần lễ nhưng Polgar không đồng ư, và
cũng theo Snepp, bản nhậnđịnh này
vẫn c̣n nằm trên bàn làm việc ởDinhĐộc
Lập sau khi TT Thiệu ra đi, do
đó khi
chiếm Dinh Độc Lập, CS đă lấy
bản nhận định nầy để
đăng nguyên văn trong quyển Đại
Thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng.
(Snepp, tr. 299)
Khi TT
Thiệu hỏi Martin là nếu ông từ chức
th́ có thay đổi ǵ việc viện trợ,
Đaị sứ Martin trả lời nếu
việc nầy xảy ra cách đây vài tháng th́ có
thể có thêmđược vài phiếu ở
Quốc hội, c̣n bây giờ th́ chắc không
thay đổi ǵ. Martin c̣n đâm nhát dao cuối
cùng khi nói thêm “ giảdụ nhưquốc
hội Mỹ có chấp thuận việc viện
trợ bổtúc cho VNCH đi nữa th́ sự
viện trợ đó cũng không thể đến
kịp thời để làm thay đổi t́nh
thếquân sự tại miền Nam” TT
Thiệu nói trước khi buổi hợp kết
thúc là ông sẽlấy quyết định
dựa theo quyền lợi tối cao của
quốc gia (Todd p. 311).
Buổi
chiều cùng ngày 20, đến phiên Đại
sứ Pháp Merillon đến gặp TT Thiệu.
Merillon gần như độc thoại, TT
Thiệu ngồi nghe, đôi mắt lạc lơng.
Merillon mô tả t́nh trạng bi đát của
chiến trường, ba phần tưlănh thỗ
bị mất vào tay CS, do đó kêu gọi trách
nhiệm lịch sử, danh dự cá nhân, t́nh
bạn giữa bà Thiệu và bà Mérillonđể
TT Thiệu lấy một quyết định v́
quyền lợi của quốc gia. Kết thúc
buổi gặp gở, TT Thiệu lửng lơ:Tới
đâu hay tới đó -Advienne que pourra(Todd
p. 312)
Todd và
Snepp không đồng thuận nhau vềgiờ
gặp gỡ: theo Snepp th́ Merillon gặp TT
Thiệu buồi sáng trước Martin, trái
lại Todd cho rằng Merillon gặp TT Thiệu
buổi chiều sau Martin. Tuy là một chi
tiết nhỏ,nhưng sự kiện tường
thuật khác nhau cùa hai nhà báo Pháp Mỹ có
đầy thâm ư.
-Sáng
ngày 21, TT Thiệu
mời Phó TT Trần Văn Hương và
cựu ThủTướng Trần Thiện Khiêm
để báo tin ông quyết định từ
chức và yêu cầu Phó TT Hương, chiếu
theo hiến pháp thay thếông(Snepp
tr.305), nhưng
ông Nguyễn Bá Cẩn trong Đất nước
tôi th́ trong phiên hợp này chính ông có mặt
chớ không phải ông Khiêm.
Theo
Nguyễn Khắc Ngữ, sở dĩông Thiệu
chọn ông Hương thay thế v́ «ông muốn
sau khi từ chức rồi, ông sẽ mang số tài
sản khổng lồ đă thu góp được
trong thời gian tại chức ra ngoại quốc
một cách êm thấm. Nếu ông nhường
chức cho phe chủ chiến Nguyễn Cao Kỳ
hay phe chủ ḥa Dương Văn Minh th́ việc
ra đi có thểgặp khó khăn…»(Ngữ,
tr.341).
Theo Frank
Snepp trong Decent Interval th́
buổi nói chuyện của ông Thiệu với
ông Hương đă bịCIA ở ṭa đại
sứ nghe lén toàn bộ do đó ngay buổi
chiều, trước khi TT Thiệu tuyên bố
với quốc dân trên đài truyền h́nh,
phụtá của trùm CIA Polgar là Tướng
hồi hưu Charles Timmes đă đến
gặp Dương Văn Minhđể dọ
hỏi nếu người Mỹ loại ông Hương
ra khỏi ghế Tổng Thống th́ ông Minh có
chịu nhận chức vụ nầy hay không
để điều đ́nh với CS. Cũng
theo Snepp, ông Minh đồng ư ngay, quả
quyết có khả năng thương thuyết
với phe bên kia và gởi ngay một đại
diện sang Paris để thương thuyết.
Timmestrao cho ông Minh 1000 mỹ kim để mua vé máy
bay cho sứ giả này, nhưng Snepp cho rằng
ông Minh chẳng có gởi ai đi mà cũng
chẳng hoàn lại số tiền,và đại
sứ Martin không được báo cáo về
buổi gặp gỡnày (Snepp, p.305)
-Tối
ngày 21, lúc 19 giờ
rưởi, TT Thiệu nói chuyện với
quốc dân qua đài truyền h́nh, trước
các đại diện hành pháp, lập pháp, tư
pháp. Ông kết tội người Mỹ đă
phản bội VN, ông gằn mạnh từng
tiếng và lập lại:« các ông bỏ
mặc cho binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa
pháo của Cộng Sản,đó là hành động
vô nhân đạo của mộtđồng minh vô
nhân đạo …»và kết luận « tôi
sẵn sàng nhận lănh sựphán xét và buộc
tội củađồng bào… Tôi từchức
nhưng không đào ngũ.Theo hiến pháp, người
thay thế tôi là Phó TT Trần Văn Hương»
Sau 10 năm
cầm quyền, TT Thiệu tuyên bố từ
chức trước quốc dân quađài truyền
h́nh tối ngày 21-4-1975 vàkết tội người
Mỹ đă phản bội VN.
Nguyễn Bá
Cẩn nhận định là việc từ
chức của TT Thiệu để Mỹ
tiếp tục viện trợ cho VNCH, mở
đường cho Hoa kỳ vàđồng minh thương
thuyết một giải pháp chính trị mà
sự hiện diện của ông là một
trở ngại (Cẩn, tr. 421), Trần Văn
Đôn thêm một lư do thứ hai là ông Thiệu
sợ quân đội đảo chánh mà ông
Thiệu nghi là do ông [Đôn] chủ xướng.
(Đôn, tr.458). Nguyễn Tiến Hưng, trong « KhiĐồng
minh tháo chạy» (tr.389) th́ cho ông Thiệu từ
chức v́ các tướng lănh không c̣nủng
hộ. Nguyễn khắc Ngữ th́ có nhận
định tiêu cực hơn «trong bài diễn
văn từ chức nầy, ông đă hiện
nguyên h́nh một tay sai của Hoa Kỳ,bị
chủ đuổi lên tiếng chửi lại
bằng những lời b́nh dân nhất không
thểthấy được trong ngôn ngữ
của một vị lănhđạo quốc gia»
(Ngữ, tr. 343)
.
Hoàng
ngọc Thành cũng có nhận định tương
tự về ông Thiệu «là người thừa
hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ
trong chiến tranh VN»(Thành tr. 559) là « người
hèn nhát, tại sao không chịu công bố trong năm
1974 và đầu năm 1975 các bức thư
hứa hẹn trả đủa Bắc Việt
của Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng
Sản Hà Nội vi phạm hiệp định Ba
lê, tại sao không công bố sớm để
quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ biết
những điều cam kết nầy để
đánh vào điểm danh dự và lương tâm
người Mỹ. Làm mhư thế có lợi cho
dân tộc VN, nhưng Nguyễn Văn Thiệu
sợ bất lợi cho ông nên không làm » (Thành,
tr.566).
Todd th́ cho
là ông Thiệu từchức là do lời khuyên
của Thủ tướng Singapore Lư Quang Diệu
qua trung gian của Hoàng Đức Nhă. Liền sau
khi nghe Lư Quang Diệuđưa tin là người
Mỹ sẽ lật đổ và khuyên ông
Thiệu nên ra đi, Hoàng Đức Nhă đă
vội vàng điện thoại cho ông Thiệu
từ Singapore:«đừng chờ người
ta lật đổ anh hay tống cố anhđi. Hăy
đi trước đi, càng sớm càng tốt»(Todd,
tr. 277)
Trong khi ông
Thiệu đọc diễn văn từchức,
các đơn vị cuối cùng của sư
đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo rút
ra khỏi Xuân Lộc, và vài giờ sau, bộ
chỉ huy QuânĐoàn 3 của tướng
Nguyễn Văn Toàn phải di tản vềSaigon.
Biên Ḥa và Vũng Tàu bị đe dọa
nặng.
Chỉ 2
giờ sau lễ bàn giao giữa ông Thiệu và
ông Hương, đài phát thanh Giải phóng và
Hànội đồng loạt tuyên bố: «Đó
cũng chỉ là một chế độ bù nh́n,
chánh phủThiệu không có Thiệu » (Todd,
p.316).
-
Ngày 22: Tân Tổng
Thống Hương lần lượt tiếp xúc
ba nhân vật chính trị gốc miền Nam là
Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Huyền và
Trần Văn Đôn để mời nhận
chức thủ tướng toàn quyền thay cho
nội các Nguyễn Bá Cẩn được TT
Thiệu bổ nhiệm 12 ngày trước, nhưng
cả ba đều từ chối (Darcourt, p. 131).
Theo Trần
Văn Đôn th́ sau đó, ngày 24 ông Hương
mời ông Nguyễn ngọc Huy, nhưng chuyện
bất thành v́ ông Minh đ̣i ông Hương
phải giao quyền Tổng Thống và ông
Thiệu, tuy đă từ chức, vẫn cho ư
kiến với ông Hương«đừng chỉ
định ông Huy làm thủ tướng» (Đôn,
tr.467)
2.
Trong
khi đó, 2 biến cố quân sự quan
trọng xảy ra sát nách Saigon.
* Lê
Duẩn đánh điện cho LêĐức
Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt
bản doanhở Lộc Ninh yêu
cầu gia
tăng các cuộc tấn công càng mạnh càng mau
trên khắp các mặt trận. Mọi chậm
trể có thể đưa đến những
hậu quả quân sự và chính trị trầm
trọng. Theo Olivier Todd th́ Lê Duẩn sợ
rằng nếu chiến trường kéo dài th́ áp
lực chính trị quốc tếcó thể can
thiệp để chia cắt đất đai như
hồi 1954 trước hội nghị Genève. Tuân
hành chỉthị này, Văn Tiến Dũng ra
lịnh cho tất cảcác lực lượng
từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam giác
Sắt ở miền Đông, và các lực lượng
ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau
chuẩn bị tổng tấn công vào Saigon và các
tỉnh. Để phân công, bộ phận chính
trị do Lêđức Thọ và Phạm Hùng đóng
ở Lộc Ninh, c̣n tướng Trần văn Trà
và Văn tiến Dũng lập bộtham mưu
mặt trận ở Bến Cát, sát nách Saigon.
* Để
chận bước tiến của CS, Bộ
Tổng Tham Mưu xin Tân TT Trần Văn Hương
cho phép thả 3
trái bom
CBU-55 (giao cho VN ngày 16 tháng 4) tại các địa
điểm mà các đơn vị cuối cùng
của SĐ 18 BB đă rút ra khỏi Xuân Lộc
đêm hôm trước. Đó là loại bom có
sức công phá dữ dội nhất trong các
loại vũkhí của Mỹ, khi c̣n cách mặt
đất chừng 10m th́ nổ tung ra hàng trăm
trái bom nhỏ hút hết tất cả dưỡng
khí, giết tất cả sinh vật trong một vùng
có đường kính 250 thước (Todd) theo
Darcourt th́ đến1km, ngay cảngười dưới
hầm sâu. Người chết không có vết thương
(v́ bom không có miểng) mà chết trong tư
thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm,
đứng…).Ngoài ra, phi cơ Hoa Kỳ cũng
thả 6 trái bom«daisy cutters” (Viên, tr.202) là
loại bom BLU-82 dùng để khai quang các bải
đáp trực thăng (nặng 15000 cân Anh tức
độ 7 tấn rưỡi) và hỏa tiển
Wild Weasel (con chồn hoang) trong vùng chung quanh Xuân
Lộc. Ṭa Bạch Ốc và CIA tuyên bố không
hề được Không Lực Hoa Kỳ thông báo
sự can thiệp vũ bảo trong những ngày
cuối cùng nầy của chiến tranh VN.
Những tài liệu giải mật sẽ giải
thích hư thực về chánh sách đôi khi khó
hiểu của Hoa Kỳ.
CS lập
tức trả đủa ngay sau vài giờ bị
bom CBU. Sân bay Biên Hoà bị pháo kích không sử
dụng được nữa, phi cơ F5A
phải«di tản» về Tân Sơn Nhứt,
một số khác phải về sân bay Cần Thơ.
-
Ngày 23: Thủ tướng
Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. TT Hương
yêu cầu ông Cẩn xử lư thường
vụ chođến khi có chính phủ mới.
-
Ngày 24: Dương văn
Minh hợp báo:Tổng Thống Trần Văn Hươngđă
mời tôi nhận chức Thủ Tướng. Tôi
từ chối v́ ở cương vị nầy,
tôi không thể thương thuyết với phía
bên kia bởi điều kiện của phe Cách
mạng là Tổng Thống Hương phải ra
đi…
Ông
Minh muốnđốt giai đoạn và đại
sứ Phápđă hướng dẫn ông ta chơi
một ván bài nguy hiểm dựa trên niềm tin
rằng ông chưa bao giờ bị phe bên kia
chỉ trích và Cộng Sản sẽ thương
thuyết với ông trên căn bản Hiệp
định Paris 1973”
(Darcourt, p.142).
Trong ngày
nầy, đại sứ Pháp Mérillon vào dinh Độc
Lập hai lần khuyên ông Hương từ
chức để trao quyền cho Dương Văn
Minh. Ngoài ra, tướng Trần Văn Đôn,
Tổng Trưởng Quốc Pḥng trong nội các
Nguyễn Bá Cẩn cũng tự xưng và tự
nguyện đóng vai tṛ trong cuộc thương
thuyết với phe bên kia bên cạnh tướng
Dương Văn Minh.
Trong khi Mérillon
tỏ vẻ lạc quan về giải pháp chánh
phủ liên hiệp 3 bên: Cộng Sản, Mặt
Trận và phe Lực lượng thứ ba do Dương
văn Minh đại diện, th́ các đảng
phái, một số tướng lănh họp ở
khách sạn Palace không chấp nhận ông Minh v́
cho rằng ông Minh không có sự sáng suốt chính
trịtrong 10 năm qua và là người thụ
động, khôngđủ sức đương
đầu với Cộng Sản. Luật sư
Trần Văn Tuyên công khai chống đối Mérillon
v́ thái độ xấc láo và can thiệp quá
đáng vào nội bộ VN: « ông Mérillon đă
dám ngạo mạn nói với tôi rằng TT Hương
đă già yều bịnh hoạn phảiđem vào
bịnh viện để giải phẩu cho ông.
Nếu ông vô bịnh viện th́ bài toán sẽ
được giải quyết. TT Trần Văn
Hương rất phẫn uất v́ thái độkhinh
miệt của ông Mérillon. Nản ḷng v́
những lời mỉa may ác độc và
những áp lựcđ̣i ông từ chức,
vị tổng thống lớn tuổi của chúng
ta dọa sẽtự tử bằngống
thuốc cyanure mà ông luôn đeo theo trong ḿnh» (Darcourt
, rr. 143-44)
Theo Hoàng
Đống th́ «CS và MTGPMN, qua đài phát thanh
của họ ủng hộDương Văn Minh là
người chủ trương ḥa giải ḥa
hợp nên có thể nói chuyện được,
vàĐại sứPháp 4 lần khuyên Hương
từ chức, nhưng v́ tham quyền cố
vị và ngây thơ nên Hương bỏngoài tay
lời khuyên của đại sứPháp»(tr.362)
Trong lúc
đó, đài phát thanh Hanoi và Giải Phóng
miền Nam đồng loạt đ̣i TT Hương
phải ra đi. Thực sự, CS không có dấu
hiệu nào thương thuyết với bất
cứ ai và chuẩn bị tấn công Saigon.
Điều
nầy cũng được xác nhận trong «VNCH,
10 ngày cuối cùng» của TrầnĐông Phong là
chính TT Trần Văn Hương đă cửtướng
Phan Ḥa Hiệp đại diện cho chính
phủliên lạc với đại diện
của CS trong Ủy Ban Liên Hợp 4 bên vận
động với CS một cuộc thương
thuyết, nhưng CS đă bác bỏmọi h́nh
thức thương thuyết và đ̣i Miền
Nam phải đầu hàng vô điều kiện
(Phong, tr. 252-253)
-
Ngày 25: Hôm nay, TT Hương
lại tiếp đại sứ Mérillon vàđại
sứ Martin, cả hai đều cố thuyết
phục TT Hương nên cấp tốc đưa
ra một giải pháp khảdĩmở đường
thương thuyết với những người
«cách mạng» (nguyên văn: les révolutionnaires). Giải
pháp nầy đ̣i hỏi sựtừchức
của ông và giao quyền lại «cho một nhóm
người nào đó»mà phía bên kia chấp
nhận(Darcourt, p.145).
Ông Hương
từchối và nói với Martin: nếu tôi
phải làm Pétain của VN th́ ít ra tôi phải
đóng vai tṛ ấy trong danh dựvàđúng
phẩm giá» - Si je dois être le Pétain du VN, je le
serai au moins dans l’honneur et la dignité (Todd, p.324). Ông Hương
muốn hành sửtheo đúng hiến pháp và câu
hỏi căn bản là ông Minh có được
Hà nội thực sựchấp nhận hay không,
TT Hương yêu cầu Martin thăm ḍ qua đại
sứBa Lan.
Sau khi
từchức, ông Thiệu ngày ngày đi đi
lại lại qua các pḥng trong dinh Độc
Lập(tuy ông từchức nhưng ông vẫn c̣n
ởtrong dinh ), nghĩ đến cuộc phục
hận. Ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông và
cảem họông, Hoàng Đức Nhă đều
khuyên ông nên ra đi, nhưng ông từchối v́
ông nghĩ là ông c̣n có một vai tṛ. Không
chịuđược cảnh nầy, bà Thiệu
đă rời Saigon sáng 24 đi Bangkok trên một
chuyến bay thương mại (Snepp, tr. 334)
TT Hương
cũng muốn ông Thiệu ra khỏi nước
v́ sựcó mặt của ông Thiệu tạo khó
khăn cho ông (hay cho ư kiến) nên nhờMartin can
thiệp. Martin cũng không muốn ông Thiệu
bịám sát càng rắc rối hơn nên Martin
tổchức cho ông Thiệu rời khỏi nước.
(theo Snepp, tr. 334, Trần Văn Đôn cũng khuyên
TT Thiệu trưa ngày 25 là nên ra đi v́
Nguyễn cao Kỳ sẽtổchức ám sát)
Lúc 20
giởrưởi, Polgar và tướng Timmes đón
ông Thiệu ởnhà ông Khiêm trong BộTổng
Tham Mưu. Đoàn xe 3 chiếc gồm ông
Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác . Martin
đợi sẵn ởphi cơ đểtiển
đưa.
« Dù
buồn thảm và cam chịu sốphận, ông
Thiệu đi thủng thẳng, cốgiữphongđộ.
Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng
xúc động, Martin đáp lễ:Thưa Tổng
Thống, đó là điều tối thiểu tôi
có thểlàm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may
mắn(Nguyễn
tiến Hưng, tr. 392 và Todd tr.339).
Phi cơtrực
chỉ Đài Loan (và sau đó ông và gia đ́nh
sang tịnạn ởAnh Quốc cho đến
thập niên 1980 mới sang Hoa Kỳ).
Theo Hoàng
Đống: « ngày 22-4, Thiệu và Khiêm được
Mỹ đưa ra phi trường Tân sơn
Nhất bay qua Đài Loan. Trướcđó 20 ngày,
gia đ́nh, của cải của hai vịnầyđăđược
an toàn chuyển ra ngoại quốc»(tr. 360).
Nhiều tài
liệu Anh Pháp nóiđến 16 tấn hàng hóa.
Theo Lư Quư Chung, thân cận của tướng
Minh, ông Thiệu trốn chạy ( Chung, tr. 362).
Cùng
một sựkiện, 4 tác giảthuật lại
bốn cách khác nhau.
TT.
Thiệu rời khỏi nước yênổn,
Martin thởphào. Ông lên xe đến
dựcuộc tiếp tân ởtoà đại
sứ Ba Lan.
Sau đây
là câu chuyện giọng nhát gừng giữa 2 ông
đại sứ:
-Martin:
Cộng Sản Bắc Việt có chấp nhận
Dương Văn Minh không ?
-
Fijalkowski (đại sứ Ba Lan): Sẽhỏi Hà
Nội. Nhưng có câu hỏi của Hà Nôi:
Tại sao hàng không mẫu hạm Mỹ lảng
vảng ngoài khơi hải phận VN.
-
Martin: phải hỏi lại Hà Nội của các
anh, tại sao có dàn hỏa tiển gần Saigon. Hà
Nội có muốn gây khó khăn cho Hoa kỳ trong
công cuộc di tản không? (Todd,
tr.340)
Về dư
luận ông Thiệu ra đi với 16 tấn vàng,
Snepp, nhân viên CIA tường thuật rất rơ
(tr.296)
«Một
tháng trước, Thiệuđă gởi qua Đài
Loan và Canada một phần lớn tài sản và bàn
ghếbằng tàu thủy. Nhưng tài sản
của quốc gia, 16 tấn vàng trịgiá 220
triệu mỹkim, tượng trưng cho một
phần lớn kho bạc của Saigon cũng
sẽđi ra nước ngoài (à expatrier). Lúc
đầu, ông Thiệu dựtính gởi lén lút
sốvàng này vô Ngân hàng Thanh Toán Quốc Tế Bâle
(Banque des règlements internationaux de Bâle) ởThụy Sĩ,nơi
mà chánh phủ đă có gởi một số vàng
bảođảm trị giá 5 triệu. Ông
Thiệu nói với các cộng sự viên là
gởi vàng để mua trang bịcho quân đội.
Nhưng vài ngày trước khi gởi, t́nh báo
Mỹ biếtđược nên tin tung ra trên báo
chí, hảng hàng không mà ông Thiệu đă thương
thuyết hợp đồng rút lui. Để
giải tỏa mọi nghi ngờ, đại
sứ Martin buộc ông Thiệu gởi số vàng
nầyở Federal Reserve Bank of New York, ông Thiệu
phảiđồng ư. Ngày 16 tháng 4, Martin xin
Washington một chuyến bay đặc biệt, có
bảo hiểm để chởsố vàng nầyđi
New York. Nhưng Không Lực Mỹ cũng như Ngân
Hàng không chấp nhận bảo hiểm chuyên
chởmột món hàng trịgiá quá lớn nhưvậy
từ một nước đang có chiến tranh.
Câu chuyệnđang dằng co th́ 2 ngày sau, ngày 18
tháng tư,16 sư đoàn Cộng Sản đang
hướng về Saigon, chuyện chở vàng
bị quên đi và 16 tấn
vàng vẫn ngủ yên trong Ngân Hàng Quốc Gia»
Đến
ngày 25, sau khi giải quyết vấn đề
bảo hiểm, vàng được đưa lên
phi cơ để chở đi New York, nhưng
giờ chót bị Phó Thủ Tướng kiêm
Tổng Trưởng Kinh tếNguyễn Văn
Hảo (nội các Nguyễn Bá Cẩn) chận
lại nói là theo lịnh của TT Hương
chờcho tân nội các được thành
lập. Số vàng nầy vẫn c̣n nằm trong
phi cơ đậuở phi trường khi quân CS
tiến chiếm Saigon. Cũng theo Snepp, tuy không
hẳn là theo CS, Nguyễn Văn Hảo đăđược
CS móc nối hồi đầu tháng tư là
sẽ được chế độmới
đối xử tốt nếu bảo vệ kho
bạc VNCH. (Snepp. tr.328).
Chuyện
ông Thiệu muốn tẩu tán vàng là một tin
đồn, nhưng chuyện vàng bị các lănh
tụ đỏ sau nầy bu vào đục khoét là
chuyện thực ! -Ngày 26: Lúc
10 giờ sáng, TT Hươngđến hợp
với lưỡng viện Quốc hội để
được báo cáo t́nh h́nh quân sự và
quyết định người thay thế ông Hương.
Có 183 trên 219 ngườiđến tham dự (Darcourt)
nhưng
theo Lư quư Chung th́chỉ có 136 v́ nhiều người
đă chuồn ra nước ngoài (LQC, tr.366).
Trong
diễn văn, ông Hương không gọi đích
danh Dương Văn Minh mà gọi là«người
ấy» (cette
personne):
« Trước
hết tôi đăđề nghị với người
ấy chức vụ ThủTướng vớiđầy
đủ quyền hành. Ông ta đă từchối.
Tôi đă phải mời ông ta đến gặp
tôi tại dinh Độc Lập, ông ta cũng
từ chối. Với thiện chí muốn
giải quyết vấnđề, tôi không
kểnghi thức và mặc dầu tuổi già
sức yếu, tôi phải chấp nhận đến
nhà một người bạn chung để
gặp người ấy. Tôi đề nghị
với người ấy chức vụ Phó
Tổng Thống, nhưng một lần nữa,
chẳng những người ấy từ
chối mà c̣n nói với tôi là: Phải có
tất cả không th́ thôi, có nghĩa là chỉ có
Tổng Thống. Tôi lưu ư làm nhưvậy là
vi hiến, ông ta trả lời rằng: đó không
phải là việc của ông ta. Sau đó tôi có
đặt cho ông ta một câu hỏi: Có ǵ
bảođảm là phía bên kia chấp thuận thương
thuyết với ông th́ ông ta trả lời
ngắn gọn là: Tôi đă nhậnđược
từ phía bên kia những cam kết cần
thiếtđể làm tṛn vai tṛ.
Mặc
dù tôi nhấn mạnh nhưng ông ấy không có
thêm một lời giải thích nào khác ngoài
những lời úp mở mà tôi không tin vào
những lờiđó. Tôi sẽ không bao
giờmuốn chịu trách nhiệm về
việc trao quyền một cách bất hợp
hiến, v́ vậy, hôm nay, tôi yêu cầu quư
vị hăy trao quyền hành pháp lại cho ngườiấy
bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng
viện Quốc hội. Đó là phương
thức duy nhất vừađể cứu Saigon
khỏi bịmột thảm họa mà không làm
mất thể diện của quốc gia và
chế độ.»
Tuy nhiên,theo
bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, cựu
Tổng TrưởngThông Tin Chiêu hồi trong
nội các Trần Văn Hương ghi âm lại,
đăng trong Đặc San Pétrus Kư 1966, th́ T/T
Trần Văn Hương đề cập đích
danh tên Dương Văn Minh:
«…Với
ư nghĩa đó, nghĩa là ư nghĩthương
thuyết, tôi đă ra công ḍ xét t́m bên này, t́m bên
nọ,hỏi thăm ḍ ư kiến mọi nơi.
Tới bữa nay cũng nói với quư vịlà tôi
có dịp đă gặp đượcĐại
tướng Dương Văn Minh, bởi v́ theo
lời một số người, th́ Đại tướng
Dương Văn Minh có đủ điều
kiện làm việc này. Trong các cuộc gặp
gỡ, trong một tư thất của một người
bạn chung – bởi v́ họp mặt tôi
muốn tránh tiếng trước, không thể
mờiĐại tướngđến Dinh Độc
Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không
thểtự ḿnh tới nhà Đại tướng
mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đă cùng nhauđến
nhà một người bạn chung
- Sau khi
nói chuyện, tôi nói rằng: “Theo dưluận,
một số người nói rằng Anh – xin
lỗi, bởi v́ giữaĐại tướng
với tôi cũng c̣n cái thâm t́nh nhiều– người
ta bảo rằng Anh có đủ điều
kiệnđể thương thuyết, vậy th́
xin Anh v́ nước nhà, mọi tỵ hiềm qua,
mọi chuyện không tốt đẹpđă
xảy ra, xin Anh vui ḷng xóa bỏ để cùng
nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp
nhận cái ghế Thủtướng để
đứng ra thương thuyết với phía bên
kia.” Đại tướng, lẽ cố nhiênđối
với tôi lúc nào cũng giữthái độchẳng
những là người bạn thân mà
giữcả thái độ,xin lỗi, như
thểmột người học tṛ của tôi
vậy, mặc dù Đại tướng không
phải là học tṛ của tôi, Đại tướng
nói: “Thầyđă hy sinh đến mức này,
thôi xin thầy ráng hy sinh một bước
nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi.”
Nghĩa là trao cái quyền tổng thống cho
Đại tướng…»
Nếu
bài viết của Nguyễn ngọc An là trung
thực, sự khác biệt các tài liêu ngoại
ngữ viết về VN lại c̣n phát xuất
bởi sựdiễn dịch và phiên dịch
của tác giả ngoại quốc và tác giả
người Việt.
Sau khi TT Hương
rời trụ sởThượng Viện, cuộc
thảo luận kéo dài từ 14 giờ đến
22 giờ mà kết quả là đi đến
một quyết nghị lửng lơ: Quốc
Hội nh́n nhận TT Hương có đầy
đủ tư cách để chọn người
thay thế ông. Người nầy sẽ
được ủy nhiệm để xúc
tiến cuộc thương thuyết. Tên của
Dương Văn Minh không được ghi trong
bản quyết nghị này (Darcourt, p.151).
Nhưng
theo Lư Quư Chung, trong Hồi kư của ông th́ hoàn
toàn khác: «Cuộc biểu quyết truất
quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh
được thực hiện với
sốphiếu gần như tuyệtđối
147/151 vào lúc20giờ54… Tôi nhớ rất rơ không
khí tại trụsở Thượng Viện trước
và sau biểu quyết. Kẻ th́ chán nản như
người sắp chếtđuối là các dân
biểu nghịsĩ thuộc phe Thiệu, c̣n
những người phe Dương Văn Minh th́
hấp tấp, vội vă như sợ không
bắt kịp cơ hội cuối cùng »(LQC,
tr.367, 368).
Theo ông
Đôn, cũng trong Hồi Kư th́ «đa
sốnghị sĩdân biểu nghiêng về
biện pháp trao quyền cho ông Hương chỉ
định Thủ Tướng toàn quyền v́ cho
rằng ông Minh xem thường Quốc Hội» và
sau đó ông Hương gọiđiện
thoại với ông và nói:«tôi sẽchỉ định
anh làm Thủ tướng»(Đôn, tr. 468,469)
Trong khi lưỡng
viện Quốc Hội đang họp, lúc 12
giờ, Vơ đông Giang, đại diện cho
Mặt Trận trong Ủy Hội Kiểm soát
ởCamps Davis (Tân Sơn Nhứt) tuyên bố: Đạo
quân chúng tôi tiếp tục tiến công, không có
ngưng bắn. -Ngày 27 tháng tư:
* 4 giờ
sáng, nhiều tràng hỏa tiển bắn vào
Saigon: thiệt hại: 9 người chết, 36
bị thương, những
đám cháy
nhà cửa và hảng xưởng khiến 2000 người
không nơi cư trú.
* 12 giờ:
TT Hương gởi văn thư hỏa tốc
cho Chủ tịch Thượng Viện: Theo
hiến pháp Quốc Hội
phải
ra quyết nghị người thay thế tôi rơ ràng.
* 15
giờ: «Đại sứPháp điện
thoại cho tôi [Đôn] biết: 6 giờchiều
nầy nếu không có ǵ thay đổi th́ Hà
Nội sẽ pháo kích vào Saigon bằng súng
cối 130 ly có tầm bắn xa 30 km» (Đôn,
tr.471)
* 19
giờ:Trước khi dân biểu nghị sĩ
bắt đầu thảo luận, tướng
Trần VănĐôn, xử lư thường
vụ
Tổng Trưởng
Quốc pḥng (nội các NBCẩn) thuyết tŕnh t́nh
h́nh quân sự:
«14 sư
đoàn Bắc Việtđược trang bị vơ
khí hùng hậu đang bao vây Saigon. Biệt kích và
đặc công đă xâm nhập ṿng đai. Không
quân của ta đă hành quân liên tục
từnhiều ngày qua nên các phi công và phi cơ
đă quá sức chịuđựng, ngoài ra c̣n
bịthiệt hại khá nặng bởi pḥng không
của địch. Căn cứKhông quân Biên Ḥa
gần như đă bị tê liệt v́ pháo
lực của CS. Trong vài ngày, cũng có thể
trong vài giờ, có thểSaigon sẽ bịtàn phá
bởi đạn pháo 130 ly tầm xa của CS.
Nhứt định ta phải thương
thuyết với họ để ngưng bắn càng
sớm càng tốt»
Các dân
biểu nghị sĩ la ó, phản đối tướng
Đôn: Đồ hèn nhát, chủ bại,
bị bán đứng rồi, Tướng
pḥng ngủ. TướngĐôn và các quân nhân
tháp tùng rời pḥng hợp trong nhục nhả (Darcourt,
p.154).
Hồi kư
của tướng Đôn khôngđề cập ǵ
đến sự kiện nầy.
Sau 4
giờ thảo luận sôi nổi, Quốc Hội
biểu quyết chấp thuận cử tướng
Minh thay thế TT Hương trong chức vụ
Tổng Thống. (120 phiếu thuận, 32 phiếu
chống, 20 phiếu trắng theo Darcourt ; 136
phiếu thuận, 2 phiếu trắng theo Todd.
Trong lúc
đó, chuyến máy bay do Polgar tổ chức
chở Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Khắc B́nh,
Hoàng Đức Nhă và một số nhân vậtđi
Phi luật Tân.
Quốc
Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng
Minh thay thế TT Hương trong chức vụ
Tổng Thống. (AP Photo/Errington)
* 20
giờ, con đường nối liền
Saigon-Biên Ḥa bị cắt đứt, 700 quân nhân
của Sư đoàn 18 bị mất
liên
lạc và quốc lộ số 4 nối với
miền Tây cũng bị gián đoạn ở
nhiều nơi. Saigon trở nên cô lập như
một ḥn đảo.
Trong khi
đó, cuộc di tản tuy chậm, nhưng
diễn tiến trong trật tự .Đến 12
giờ trưa ngày 27 đă có
35 245 người
đă được Mỹ bốcđi. Các ṭa
đại sứ, trừ ṭa đại sứ Pháp,
cũng bắt đầu đóng cửa và di
tản nhân viên bằng đường hàng không.
Ngày 27 cũng
là ngày Bắc Việt đổi ư về
chiến lược. Theo đại sứMartin, tuy
là hồi tháng ba, ông đă có tin t́nh báo là Hà
Nội đă quyết định đi tới
một chiến thắng hoàn toàn bằng quân
sự, nhưng những tin tức khác tử
Mặt Trận giải phóng ởParis cũng cho
biết là họ cũng muốn có một
giải pháp chính trị, và Martin cũng suy
luận là CS dùng giải pháp chính trị để
có thểtiếp tục được viện
trợ của quốc tế khi chiến tranh
chấm dứt. Nhưng không hiểu v́ lư do ǵ,
theo Martin th́ đêm 27 tháng 4, CS đă dứt khoát
chọn chỉ giải pháp quân sự (Martin Graham.
Vietnamese evacuation: testimony of Ambassador
Graham Martin.
International relations, January 27, 1976 , p. 609, trích dẫn
bởi Nguyển Tiến Hưng, tr.391).
3.Phần kết
-Ngày
28
Saigon đă
thật sự hấp hối. Tân Sơn Nhứt
bị pháo kích, người di tản ố ạtđến
ṭa đại sứ Mỹ tràn ngập sân sau, trèo
tường, song sắt để xin được
di tản. Từ sớm tinh sương, trực thăng
của hảng Air Americađáp xuống nóc ṭa
đại sứ để tiếp tục
đưa các chánh khách và tướng tá VN đến
Tân sơn Nhứt hay ra hạm đội, trong
số có Cao Văn Viên.
Trong khi
lực lượng Cộng Sảnđang tiến
về Saigon từ nhiều hướng, th́ «tại
tư dinhở số 3 Trấn Quư Cáp, suốt
buổi sáng, Dương Văn Minh vùi đầu
vào việc chọn lựa các nhân vật thất
sũng trong chánh giới Saigonđể t́m người
cho nội các. Các ứng cử viên lần lượt
đến tư dinh ông đểxin chức, ông
lạnh lùng tiếp đón, gậtđầu chào
rồi bảo họ ra vườn lan ngoài sau mà
chờ. Nhưng ông không bằng ḷng cácứng viên
bởi lẽngười này là diều hâu, người
kia là bồcâu, nên sau cùng ông chọn tŕnh
diện nội các với 3 người»(Snepp
355)
Lúc 17
giờ, lễ bàn giao giữa TT Trần Văn Hương
và Dương Văn Minh diễn ra tại dinh
Độc Lập với các ông Nguyễn Văn
Huyền Phó Tổng thống, Vũ Văn Mẫu
ThủTướng.
« Khi tân
TT Dương Văn Minh vửa bắt đầu
bài diễn văn nhậm chức của ḿnh th́
sét đánhầm ầm, một trận mưa to
chưa có trong nhiều nămập xuống Saigon,
thậm chí quan khách dự lễ không nghe
được ông Minh nói ǵ. Cái không khí chung
của buổi lễ nhậm chức thật
buồn năo» (LQC
tr.354).
Ông Minh tuyên
bố muốn điềuđ́nh với chánh
phủ Mặt Trận Giải Phóng Giải Phóng và
chánh phủ miền Bắc trên căn bản
hiệp định Paris và một cuộc nhưng
bắn.
Ông Minh
chấm dứt diễn văn lúc 17giờ 48 phút.
Một giờ sau, đài phát thanh Mặt Trận
Giải Phóng lên tiếng:«Sau sự ra đi
của tên phản quốc Nguyễn Văn
Thiệu , những tên thay thếnhư Dương
Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ văn
Mẫu muốn duy tŕ chiến tranh đểkéo dài
chế độ chưhầu của Mỹ. Nhưng
chúng chẳng lừađược ai và quân đội
giải phóng chỉ chấp nhận một
cuộc ngưng bắn với hai điều
kiện: ngụy quân Saigon buông súng và hạmđội
Mỹ rời khỏi hải phận miền Nam
VN.Các binh sĩ nào c̣n nghe lịnh của Mỹ
Ngụy sẽ bị trừng trị đích đángđể
làm gương»(Todd, 355)
Khi ông Minh
và đoàn tùy tùng từ Dinh Độc Lập
trở về «dinh Hoa Lan»(nhà của DVM) th́ nghe
vang lên những tiếng nổ rung chuyển
cả Saigon. Năm phản lực cơA-37 mà quân
CS vừa mới chiếm được xuất
phát từ Nha Trang, dưới sự chỉ huy
của Trung úy Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường
Tân Sơn Nhứt và vùng Hốc Môn. Tại Paris.
tổng trưởng ngoại giao Pháp tiếp
đại sứ Bắc Việt Vơ văn Sung và
đại diện Mặt Trận Phạm Văn
Ba để bày tỏ sự ngạc nhiên về
sự trở mặt của Cộng Sản. Vai tṛ
trung gian mà Pháp nghĩ rằng ḿnh có thể đóng
góp trong cuộc giàn xếp chính trị vào
giờ thứ 25 của cuộc chiến đă hoàn
toàn thất bại.
-Ngày 29 tháng tư
Saigon hôm
nay bắt đầu thực sự đi vào cơn
hỗn loạn.
* Từ 4
giờ sáng, đại bác của CS bắn vào
bộ chỉ huy của Tổng Tham Mưu ởTân
Sơn Nhứt và
bộ tư
lệnh hải quân. Nhiều kho súng và kho săng
bốc cháy, bùng nổ.
* 6 giờ
sáng, Văn tiến Dũngở Bến Cát
nhận lời khen ngợi của Bộ Chính
trị ở Hà Nội và yêu cầu Dũng
tiến quân thần tốc.
* 10 giờ
sáng, đài phát thanh Saigon đọc bức thư
của Dương Văn Minh gởi cho Martin:
«Tôi trân
trọng yêu cầu ông đại sứ vui ḷng ra
chỉthị cho các nhân viên cơ quan tùy viên quân
sự DAO rời khỏi VN trong 24 giờ đồng
hồ kểtừ ngày 29 tháng 4, 1975 để
vấnđề hoà b́nh của VN sớm
được giải quyết»(Todd
p. 362).
B́nh
luận về ông Minh, Kissinger đă viết:«
Ông Minh làm Tổng Thống không tới 72 giờ,
chỉ đủlàm được hai việc quan
trọng: một là yêu cầu Hà Nội ngưng
chiến và thương thuyết chính trị,
điều mà Hà Nội đă từ chối
thẳng thừng, và hai là ngày 29 tháng tư,ông yêu
cầu tất cả người Mỹ rút ra
khỏi VN 24 giờ. Bức thư này phù hợp
với lịch tŕnh rút lui của chúng tôi, nó
đă thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không
bị chỉtrích là Mỹ đă bỏrơi
đồng minh của ḿnh» (Hưng, tr.393).
Ông Hoàng
ngọc Thành tiết lộmột chi tiết «ly
kỳ» hơn: Ṭa đại sứ Mỹ
soạn một văn thư cho tuớng Minh yêu
cầu người Mỹ rút đi trong ṿng 24
giờ và bảo chođọc trên đài phát
thanh Saigon. Dương Văn Minh kể cho bà con và
bạn hữu biết là ông đă làm như
đại sứGraham Martin bảo(Thành,tr. 568).
Nếu
quả t́nh sự việc như vậy, VN đă
đến hồi mạt vận v́ một nhân
vật luôn có mặt trong những cơn khủng
hoảng chính trị lớn, chỉ v́ muốn làm
tổng thống mà hạ ḿnh nhận lệnh
của Pháp và của Mỹ.
Trong khi
đó, Saigon bắt đầu một cuộc
hỗn loạn không tả được.
Từng đoàn người tràn vào chiếm kho hàng
ở Tân Cảng, súng đạn tủa ra
khắp nơi, người ta đạp trên xác
chết quân sĩ và đặc công.
Thành
phố không c̣n có chỉhuy: DVMinh đă cách
chức tướng B́nh, 60 000 cảnh sát và 10 000
cảnh sát dă chiến không biết nghe lịnh ai,
quân đội cũng thay đổi tham mưu trưởng
3 lần trong 24 giờ: hôm kia là Cao Văn Viên, nhưng
ông đă ra đi cùng với tham mưu phó, hôm
qua là tướng Nguyễn Văn Minh và Vĩnh
Lộc, nhưng mỗi người chỉ có vài
giờ rồi cũng bỏ đi cùng với Chung
Tấn Cang, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Cao Kỳ, Ngô
Quang Trưởng, nói chung có 60 vị tướng
lănh.
Trường
hợp của Đặng Văn Quang th́ bi đát
và nhục nhă hơn. Pierre Darcourt đă kể:
«Một
cảnh tượng bi đátđă xảy ra
ở cổng ṭa đại sứ.Tướng
Đặng Văn Quang mà nhiều người
tố cáo là đứng đầuđường
dây buôn lậuở VN lại không có tên trong danh
sách di tản của người Mỹ. Binh sĩ
gác cổng đuổi ông đi. Ông phải
chạy lại van nài nghị sĩNguyễn Văn
Ngải giúp ông xin trực thăng bốcđi. Có
ai ngờ,một ông cựu cố vấn quân
sự của Tổng Thống, ngạo mạn kiêu
căng, tác oai tác phúc ở dinhĐộc Lập
suốt mấy năm trời th́ nay chỉlà
một đống mỡ run rẩy v́ sợ
sệt. Ông ta hết quỳlạy cầu khẩn
rồi viện dẫn mạng sống của
vợ con và của chính ông v́ sẽbị CS
giết.Động ḷng, nghị sĩ đưa
ông ta cùng đi chung nhưng không nói tên ông ta là
ai….» (Darcourt,194
). Theo Snepp, th́ Quang nhờ sự giúp đỡ
của Polgar dù nhiều nhân viên CIA không muốn
thấy mặt Quang ví Quang đă được
CIA trảlương mà đă phản bội không
báo cho CIA biết kếhọach rút quân của TT
Thiệu. Trong cơn hốt hoảng, Quang bỏ quên
đứa con trai cùng đi với ông ở ngoài
hàng rào sắt của ṭa đại sứ.
(tr.392)
Trường
hợp của Trần Văn Đôn th́ lại
rất tàn nhẫn với thuộc cấp. Trước
khi hối hả leo lên trực thăng cùng
với con trai là một bác sĩ, ông Đôn nói
với đoàn tùy tùng: « các anh ở lại, các
anh không có chức vụ, không có ǵ nguy hiểm».
Những quân nhân nầy vừa đau khổ,
vừa khinh bỉ nh́n theo chiếc trực thăng
cất cánh. (Darcourt, p. 194)
Lartéguy châm
biếm: «Hôm qua là Phó thủ tướng, múa may,
tưởng có thể thay thế Minh, bi đát hóa
t́nh h́nh để đẩy Hươngđi. Hôm
nay, hối hả bỏ chạy, không thông báo cho
cả viên đại tá chánh văn pḥng khiến
ông này sau đó tự tử .Ông Đôn chỉ là
kẻ thừa hành của chánh phủ Pháp.» (Lartéguy
, p.129)
Trong khi
đó, cuộc di tảnđang đến hồi
lên cơn sốt.
* 10 giờ
40: từ phi trường Tân Sơn Nhứt, tướng
Homer Smith, chỉ huy trưởng DAO điện
đàm
với
đô đốc Noël Gayler, tưlịnh lực lượng
Mỹ vùng Thái B́nh Dương ởHonolulu là phi
trường TSN không c̣n sử dụngđược
cho cho phi cơ C-130 nữa. Bộ Quốc Pḥng ra
lệnh cho Gayler áp dụng «Giải pháp số 4»tức
di tản bằng trực thăng.
* 12 giờ
30: 36 trực thăng vận tải khổng
lồ được yểm trợ bởi các
trực thăng chiến đấu Cobra rời hàng
không mẫu hạm Hancock.
* 15 giờ:
Thủy quân lục chiến thiết lập 3 băi
đáp trực thăng ở khu quân sự trong sân
bay TSN.
Có 3000 người
chờ đợi di tản. Trên không phận
Saigon, trực thăng củaĐệ Thất
hạm đội, của CIA, của Air America bay rà
rà trên nóc các cao ốc tụ điểm, lên
xuống phi trường được phi cơ
chiến đấu Phantoms sẵn sàng can thiệp
khi cần thiết. Lực lượng hải
lục không quân được huy động như
chưa bao giờ có sau trận đổbộ
Dunkerque năm 1940.
* Buổi
chiều, trước cửa ṭađại sứ
Mỹ có độ 20 000 người chen chúc nhau,
hàng ngàn người
đổ
về bến Bạch Đằng để t́m
bất cứ phương tiện nào bằng
đường biển, xe cộ vật liệu
vất bừa băi trên đường phố,người
dân nhốn nháo, thất thần. Martin áp dụng
phương thức di tản người Việt:
ngườiđến trước, được
di tản trước (premier arrivé, premier servi).
Đây là dịp cho các người Mỹ làm
tiền các nhà giàu người Việt bằng cách
mạo nhận là thân nhân để đưa
đi, bán thẻ lên tàu của nhân viên dưới
quyền cho người Việt chịu mua với
giá từ 5000 đến 10 000 mỹ kim. «Tướng
Cao HH, cố vấn TT Thiệu thay v́ phân phối
50 thẻ di tản cho bộ tham mưu, đem bán
mỗi vé 1000 mỹ kim» (Terzani, p.61)
* 10 giờ
đêm (10 giờ sáng Washington): báo cáo từ Saigon
về Ngủ GiácĐài cho biết cuộc di
tản người Mỹ ở Cần Thơvà
ở Vũng Tàu tốt đẹp, trong lúc ở
Saigon hỗn loạn.
- Schlesinger
điện cho Martin: c̣n 400 nhân viên ṭa đại
sứ phải di tản hết và gấp rút.
- Martin
trả lời giọng giận dữ: Hăy
chỉ cho tôi phương pháp ép những người
Mỹ rađi khi phải bỏ vợ conở
lại [vợVN và con lai Mỹ].Đă 4 giờ
rồi, tôi đă báo cho Gayler biết là tôi
cần 30 phi vụ CH-53, [chở được 50
người, chen chúc được 70]mà bây
giờ tôi chỉcó một CH-46 [nhỏhơn]
Một
giờ sau, từ ṭa Bạch Ốc, Don Rumsfield yêu
cầu Martin di tản 150 nhân viên IBM c̣n kẹt
ở Saigon. Martin lồng lộn:Hăy cút đi,
đểcho tôi yên ! Trong lúc đó, hải quân
lục chiến hối hả tiêu hủy hồ sơ,các
trang bị máy móc mà người Mỹ đă
trang bịhùng hậu từ 10 năm qua (chỉ
hồ sơ của CIA là 14 tấn).
*12 ǵờ
đêm: Martin điện cho Gayler: Chẳng
nhậnđược ǵ 20 phút qua, chắc tôi
phải ở lạiđây
ngày
30 tháng tư.Và điện
cho Kissenger, Martin trêu cợt: Nếu không suôn
sẻ, tôi sẽqua ṭa đại sứPháp xin tá
túc, và chắc tôi sẽ được
ngủtrong pḥng của bà Mérillon, và hi vọng bà
c̣n ở đó chớkhông ở Paris»(Todd p.
378).
-Ngày
30 tháng tư
* 2giờ
30 sáng, tại ṭa đại sứ c̣n 1000 người
Việt, 53 nhân viên dân sựvà 173 thủy quân
lục
chiến,
trong khi ở phi trường TSN c̣n độ 2000.
* 3 giờ
45: Martin nh́n đám người trong sân và tuyên
bố: những trực thăng đáp trên nóc ṭa
đại
sứ
chỉ dành cho người Mỹ.
* 4 giờ
42: chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 9 đáp
xuống nóc. Viên phi công tŕnh lệnh của
Tổng Thống: Martin phải lên phi cơ.
Nếu Martin không tuân lệnh, viên phi công c̣n có
một lệnh khác của Gayler, tưlịnh
Mỹ vùng Thái B́nh Dương là áp giải
Martin.
Bước
xuống HKMH Blue Ridge Đại sứ Martin trong
một tâm trạng chán nản và mệt mỏi
Theo Darcourt,
Đại sứ Martinđánh giá cuộc di
tản không ra ǵ, muốn ở lại và chết
ở đó. Với một tâm trạng rối
loạn, mệt mơi (ông đă thức suốt 72
giờ liền), ôngđáp xuống hàng không
mẫu hạm Blue Ridge, vào pḥng đóng cửa
lại để không ai thấy nỗi thất
vọng của ông.
* 7 giờ
53: chiếc trực thăng cuối cùng chở
những binh sĩ cuối cùng (thực ra c̣n 2 xác
thủy quân lục chiến ở Tân Sơn
Nhứt), yểm trợ bằng 6 trực thăng
vơ trang Cobra rời ṭa đại sứ. Họ ném
hơi cay trênđầu 420 người Việt c̣n
đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác.
Lá cờ
Mỹ đă cuốn đi mang theo nỗi thất
vọng, cay đắng, oán hờn, sung sướng,
của người Việt bắt đầu
một trang sửmới.
* 8 giờ
sáng, tại dinh PhủThủ Tướng, ông Dương
Văn Minh họp cùng các nhân vật quan trọng
của nội các mới nhưNguyễn Văn
Huyền, Vũ Văn Mẫu để tŕnh bày t́nh
h́nh quân sự và chính trị đă đến
hồi tuyệt vọng, cuộc thương
thuyết với chánh phủMặt Trận Cách
Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua
trung gian của Pháp kể như không có trong khi thành
phố Saigon đă hỗn loạn cực kỳ.
«Nhiều
toán quân sĩ VNCH lang thang trong thành phố, họ
vứt bỏ vũkhí, quân phục. Bọn cướp
bóc tràn ngập trong thành phố, súng bắn
loạn xạ» (Todd, p.390).
* 9g30: sau
phiên họp, nội các Dương Văn Minh
đến dinh Độc Lập dự định
theo chương tŕnh
để
bàn giao với Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ
tướng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng
cuộc bàn giao không xảy ra mà họchờ quân
giải phóng đến.
*11g30: «tiếng
chân người vang dội trong đại
sảnh, có cả tiếng khua vũkhí và
tiếng đạn lên ṇng. Rồi tiếng hô
từphía đại sảnh: Mọi ngườiđi
ra khỏi pḥng… Người bước ra
khỏi pḥng trước tiên là tổng thống
DVM… Có tiếng hô to: Mọi người giơ
hai tay lên. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng
mọi người đi sau đều nhất
loạt giơtay…Một người bộ đội
cấp chỉ huy nói với ông Minh: Anh hăy
viết một bản tuyên bố đầu hàng.
Ông Minh trả lời rằng sáng nay ông đă
có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên
chỉ huy nói: Anh chẳng có ǵ để trao.
Anh chỉcó thể tuyên bố đầu hàng…Ông
Minh vẫn đứng yên lặng.
Viên
chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đếnđài
phát thanh để thảo và đọc bản
tuyên bố đầu hàng…Trước khi
rời dinh Độc Lập đếnđài phát
thanh, ông Minh nói với vị chỉhuy bộ
đội: Vợ tôi vẫnở đây. Xin
các anh bảođảm an ninh giùm. Viên
chỉ huy đáp: Anh hăy yên tâm…Ông Minh và
ông Mẫu được đưa đến
đài phát thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của
bộ đội…Bản tuyên bố đầu
hàng do chính trịviên Bùi Văn Tùng thảo. Ông
Minh đọc vàđài phát lúc 13 giờ 30…» (LQC,
tr.410-412).
Trần Văn
Đôn thuật dựa vào những điều
nghe biết sau 30 tháng tư(v́ ông đă ra
đi): «Sau đó họmời ông Minh, ông
Mẫu và một người nữa lên xe jeep
đi. Sau này tôi biết họ chở lại
gặp tướng Trần Văn Trà. Tướng
Trà nói: Tôi mời mấy ông về đây để
uống trà với tôi. Tôi là Trà đây. Chiến
tranh đă kết thúc rồi. Không có ai thắng
ai bại» (Đôn, tr. 485). Và cũng với
luận điệu ấy, Đôn đă viết:
«Ai cứu dân chúng Saigon khỏi đổ máu. Không
phải Kissinger, không phải đại sứ
Mỹ, không phảiđại sứ Pháp. Saigon không
đổ máu là nhờDương Văn Minh».
Pierre
Darcourt kể lại với nhiều chi tiết
sống sượng hơn:
«Đúng
12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T54 cán
dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng
đỏ bao quanh dinh Độc Lập.
Họbắn chỉ thiên một tràng dài, ủi
sập cánh cổng lớn, cán lên trên rồi
tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày
bừa lên các băi cỏ trong sân. Hai chiếc xe
Jeep và một chiếc xe vận tải chạy
đến, qua mặt các chiến xa. Tất
cảmang cờ của Mặt Trận Giải Phóng
Miên Nam…
Vị sĩ
quan cao cấp được 4,5 lính CS
hộtống ập vô đại sảnh, nơi
mà tướng Dương Văn Minh đang
hội họp với các người thân
cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan
đeođầy sao vàng trên cầu vai nền
đỏ, Tướng Minh tưởng rằng ḿnh
đứng trước một sĩ quan cao
cấp nên nói:
- Thưa
quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đă
chờ ông từ sángđể trao quyền cho ông.
-
Mầy (nguyên tác: tu, có
thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ
đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói
là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ
cướp quyền và một tên bù nh́n. Mầy
chẳng có quyền nào đểtrao cho tao
cả.Chúng tao đạt được quyền
bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rơ là tao
không phải là tướng mà chỉlà một
trung tá ủy viên chính trị. Và kểtừ bây
giờ,tao cấm mầy không được
ngồi xuống. Gương mặt tướng
Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh
miệt của người sĩ quan khiến ông
Minh hiểu rơ là ông đang đứng trước
mặt một sĩquan miền Bắc (nguyên tác:
Tonkinois) chớkhông phải là người Mặt
Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ
b́nh tỉnh và nhẹ nhàng nói:
- Chúng tôi
đă có làm sẵn một bữa cơmđể
tiếp các ông. Có yến, súp măng cua.
Viên trung tá
xẳng giọng
-
Tụi bây đang ở trong t́nh trạng bị
bắt. Hăy giữ thứcăn tư sản cho
tụi bây. Chúng tao sẽcho tụi bâyăn cơm
dă chiến, một nắm cơm vắt và
một hôp thịt mặn.
Tất cà
các tổng trưởng hiện diện đều
bị khám xét và bị bắt giam trong một pḥng.
Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng
viên báo chí» (Darcourt, p.209).
* Lúc 16
giờ 30, tướng Minhđược rời
khỏi pḥng giam lỏng ở tầng dưới
dinh Độc Lập. Một
phóng viên
của nhật báo Quânđội giài phóng hỏi
ông
- Ông nghĩ
sao về những biến cố mà ông vừa
trải qua?
Ông Minh
ngập ngừng giây lát rồi trả lời
với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường
sử dụng:
- « Chúng
tôi đă nhận thứcđược sức
mạnh của Chánh phủ cách mạng lâm
thời và của quân đội giải phóng. Các
đơn vịthiết giáp của quân giải
phóng thực hùng mạnh, quân đội Saigon không
thể nàođương cự được,
chỉ c̣n có việcđầu hàng không điều
kiện mà thôi…
Chúng
tôi tin tưởng các ông, nếu không th́ chúng tôi
đâu có đem cả gia đ́nh chúng tôi đến
đâyđể đón các ông. Các ông đăđạt
được chiến thắng một cách nhanh
chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và
gia đ́nh chúng tôi b́nh yên, thật là may mắn
» (Darcourt, tr. 213)
Và sau đó,
các nhân vật trong nội các cuối cùng của
VNCH cũng lưu hậu thế với những câu
nói bất hủ.
* Ông
Nguyễn Văn Huyền th́ dè dặt hơn: «Chúng
tôi không chấp nhận cuộc di tản. Là người
VN, ḿnh phải ởlại sống trên quê hương
ḿnh chớ»
* Ông Vũ
văn Mẫu th́ hớn hở,nhảy nhót: «Các
anh đánhhay lắm. Tôi rất sung sướng
đăđuổi được người
Mỹ rađi. Bây giờ th́ chúng ta với chúng
ta mà thôi. Sau khi nhắc lại quê ông ở
quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và
chuyện ông cạo đầu phản đối
ông Diệm, ông nói: Kểtừ hôm nay th́ tôi
sẽ để tóc lạiđược rồi»
* Ông
Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói
lớn:«Các anh thậtđáng phục v́ đă
đánh bại được nước
Mỹ,chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất
nước sẽ được sửdụngđể
xây dựngđất nước chúng ta». (Darcourt,
tr.213)
Trong khi các
chánh khách 30 của VNCH đầu hàng CS và tranh
nhau nịnh bợchánh quyền mới, trên
khắp các nẽo đường đất nước,
quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng
tá tử tiết thay v́ đầu hàng. Chỉ
cầnđan kể một vài anh hùng liệt sĩ:
các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú,
Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn
Hai…
Trong
lịch sử chiến tranh, không có cuộc
chiến nào để lại một khối lượng
sử liệu khổng lồ, đa dạng và
phức tạp như chiến tranh VN. Tại Hoa
Kỳ, có ít nhất 10 đại học danh
tiếng có bộ sách về chiến tranh VN trong
đó trung tâm Texas Tech University được xem
như quan trọng nhất.Ghi lại những
biến cố chỉ trong tháng 4 từmột
sốtài liệu mà độc giả có thể t́m
được dễ dàng trong các thư viện công
cộng hay nhà sách, chúng tôi muốn nói lên
bản chất dị biệt của các tài
liệu qua các nguồn tư liệu và tác
giả.
Sự
dị biệt ít nhiều và bàng bạc qua
gần 20 tài lệu mà chúng tôi tham khảo, nhưng
chúng tôi chú tâm đặc biệt vào hai biên
khảo-hồi kư căn bản của biến
cốtháng tư viết bởi hai cộng sự
viên quan trọng của Tổng Thống Thiệu
là Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng
Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH và Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cốvấn đặc
biệt của Tổng thống. Chúng tôi vô cùng
ngạc nhiên, qua lời văn tuy ôn tồn nhưng
quyết liệt, ông Viên đă dành một chương
«Lời bạt»thêm vào quyển quân sử The
final Collapse do ông soạn thảo cho Trung
Tâm Quân sử lục quân Hoa Kỳ phổ
biến hạn chế năm 1983 và Nguyễn
Kỳ Phong chuyển ngữvời tựa đề
làNhững ngày cuối cùng của VNCH,
xuất bản năm 2003, để làm sáng
tỏ và đính chính một số sai lầm,
thiếu sót viết về ông và về Bộ
Tổng Tham Mưu do ông điều khiển mà
tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưngđă
viết trong quyển The Palace Filexuất
bản năm 1986 và ấn bản Việt ngữ
tựa là Hồ sơmật Dinh Độc
Lập xuất bản năm 1987.
Đa
số độc giả cũng như chúng tôi không
am tường các chuyện bí mật chính trị
và quân sự, cho nên chuyện đúng hay sai là
chuyện của các chuyên gia và nhà sửhọc,
do đó khi chúng ta đọc những tài liệu
loại nầy, chúng ta thường đọc
bằng cảm tính qua văn phong của tác
giả. Chúng ta có khuynh hướng nghiêng (tin)vềngười
bị chỉ trích, bịhạ bệ và phản
kháng (không tin) người dao to búa lớn, đại
loại, tôi đă khuyên tổng thống
chuyện nầy, can thiệp với ông đại
sứ nọ… Đó là điều mà chúng tôi
gọi là đem tâm t́nh đọclịch
sử.
Ngoài
việc viết thiếu trung thực lịch
sử v́ vô t́nh hay cố ư, một hiện tượng
khác c̣n trầm trọng hơn là việc ngụy
tạo tài liệu đă đưa độc
giả đến những hiểu biết sai
lệch mà điển h́nh là vụ quyển sáchSaigon
et moi của cựu đại sứPháp
Jean-Marie Mérillon mà từ hàng chục năm nay,
cứ đến tháng tư th́ tái xuất
hiện nhưmột thứ «cá tháng tư» (poisson
d’Avril).
Nhiều
sách báo đă phổ biến, trích dẫn«con cá
tháng tư»này như chuyện thật.
Cách đây
một tháng, nhiều bạn hữu lại
chuyển cho chúng tôi qua internet một bài đọc
dưới dạng mp3 về một chương sách
tưởng tượng trong quyển sách ngụy
tạo Saigon et moi.Đại ư,
Jean-Marie
Mérillon
đă dàn xếp được với Mặt
Trận Giải Phóng để chấp nhận Dương
Văn Minh thành lập một chánh phủ liên
hiệp đểthoát khỏi gọng kềm
của CS miền Bắc nhưng Dương Văn
Minh đă phản bội lời hứa, thay v́đi
Trảng Bàng để gặp Trần Văn Trà
trong toan tính này th́ lại đầu hàng với
hi vọng sựnhượng bộ này sẽ
được CS tưởng thưởng.
Ngoài ra, bài
đọc (từ bài viết) c̣n có những chi
tiết giựt gân, cảmđộng, đánh trúng
cái khát vọng của người di tản không
muốn VNCH chết một cách tức tửi và oán
ghét những chánh khách bất tài, xôi thịt, hèn
hạ.
Tác giả
của nguồn tin này (ông Vũ hải Hồ) cho
là quyển sách xuất bản năm 1985,
được ra mắt ở
khách
sạn La Fayette với sựchứng kiến
của Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing và
nhiều nhân vật chính trị quan trọng
của Pháp, nhưng sau đó mấy ngày th́
bịBộ ngoại giao tịch thu.
Lối
giải thích quả t́nh phi lư v́ chế độ
kiểm duyệt sách báo ở các quốc gia Tây
Phương là chuyện không có, c̣n chuyện thu
hồi một quyển sách hồi kư đă
xuất bản lại c̣n là chuyện thần
thoại hơn.
Ngoài ra,
trong việc phát triển bộ sách tiếng
Việt và sách ngoại ngữviết về VN cho
thư viện thành phố Montréal, chúng tôi có theo
dơi trong nhiều năm thờiấy trong các thư
mục các nhà xuất bản trên thế giới
như Books in prints, Livres disponibles để
mua cho thư viện, nhưng không hề thấy tên
quyển sách này.
Đểchứng
minh quyển Saigon et moi không có, GS
Tiến sĩSửhọc Hoàng ngọc Thành và Bà
Thân thị NhânĐức trong tác phẩm «Những
ngày cuối cùng của Ngô Đ́nh Diệm»,xuất
bản năm 1994, nơi trang622 và 623 (trang 574
ấn bản năm 1996, phụbản trong ấn
bản năm 1999) có nói rơ vềvấn đềnày.
Nguyên là ông
Hoàng Ngọc Thành khi sang Paris năm 1989 không t́m
muađược quyển Saigon et moi,
nên có liên lạc với ông Mérillon, lúc ấy làmđại
sứởMoscouđểhỏi rơ . Ông Mérillon
đă phúcđáp GS Thành nguyên văn nhưsau:
Khi viết
biên khảo, các tác giả có khuynh hướng
sử dụng những tài liệu trích dẫn
từnhững tài liệu tham khảo cấp hai hay
cấp ba mà không phải từ tài liệu gốc.
Sựsai lầm, nếu có, tuy đáng tiếc, nhưng
vẫn có thể hiểu được v́ lẽ
chúng ta không thể có được trong tay
tất cà các tài liệu.
Tuy nhiên,
khi đă biết một tài liệu ngụy
tạo mà vẫn cố t́nh sử dụng v́
một ư đồ, hành động nầy không
thể nào nói khác hơn là một thứ bất
lương trí thức. Đó là trường
hợp bản dịch quyển « La mort du VietNam»
của tướng Vanuxem của Dương
Hiếu Nghĩa với tựa là «Nước
Việt Nam Cộng Ḥa bịbức tử» (Nhà xb
Đại Nam, 1997) có một phụbản đặc
biệt từ trang 194 đến trang 221 đăng
lại từ tập san Đa Hiệu một
chương sách ngụy tạo của Mérillon.
Dịch giả đă có lời phi lộ như
sau:
«Không ai t́m
thấy tung tích quyển sách này ở bất
cứ thư viện nào ở Pháp, kể cả
Thư viện Quốc Gia Pháp ở Paris. Cũng như
sau nầy, chính ông Mérillon đă đính chánh ông
không phải là tác giả của quyển Saigon
et moi hay bất cứ quyển nào khác
viết về VN» (sđd, tr. 195).
Đă
biết như vậy mà vẫn tiếp tục
phổ biến một tài liệu ngụy tạo,
chúng tôi không hiểu tác giả có ngụ ư ǵ
nếu khôngđă mất trí.
Kết
luận
Hôm nay,
đọc lại những tài liệu cũ
về những ngày cuối cùng của Việt Nam
Cộng Ḥa, chúng tôi không giữ được
nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh hoàng
của những ngày quốc biến của 34 năm
trước. Người đọc lịch
sử, nhất là lịch sử của tổ
quốc ḿnh không thể vô tâm như người
ngồi ở ga xe nh́n đoàn tàu đi qua, mà tùy
theo cảnh ngộ, người đọc xúc
động với biến cố hay suy nghĩ
về biến cố. Chẳng phải là sử
gia cũng không phải là chính trị gia, đa
số người Việt ngoài nước
lẫn trong nước đều cảm nhận
nỗi bất hạnh của quê hương ḿnh
và dân tộc ḿnh đă từ hơn một
thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để
các cường quốc ngoại bang và các tậpđoàn
người Việt, nhân danh những khẩu
hiệu giả ân giả nghĩa,đă thay phiên
nhau xâu xé, thống trị và bốc lột
một dân tộc không ngớt gánh chịu điêu
linh. Nhưng nghĩ cho cùng, khi con người
đă quá khổ đau, con người chỉ c̣n
biết bám víu vào định mệnh. Nếu nước
VNcó một định mệnh th́ định
mệnh đă bắt VN của chúng ta gánh
chịu quá nhiều bất hạnh từ 1945
đến nay mà cái bất hạnh lớn
nhất, nguy hại nhất, là chiến tranh VN
đă được điều khiển bởi
một Kissinger ác cảm khinh miệt chế độ
miền Nam và một tập đoàn chính trị
miền Nam đa số bất tài,
thối nát.
Hôm nay,
lần giở lại gần hai mươi
quyển hồi kư và biên khảo tiếng
Việt và ngoại ngữ trong kho tài liệu
khổng lồ vềchiến tranh VN, nếu chúng
tôi được soi sáng vàđược lănh
hội nhiều sự kiện và nhận định
ghi lại với sự trung thực và thành
khẩn đángđược xem như những
sử liệu giá trị qua vài biên khảo và
hồi kư, chúng tôi lại cảm thấy bùng
dậy nỗi bất b́nh với những trang
giấy viết để ca tụng ḿnh, phe nhóm ḿnh,
nhục mạchiến hữu ḿnh, phe nhóm đối
lập với ḿnh. Tác giả những thiên
hồi kư khoác lác nầyđa sốlà những
người đă vinh thân trong cuộc chiến, và
giờ đây, họ vẫn không c̣n biết
giữ được chút liêm sĩ c̣n sót
lạiđể im tiếng,để yên cho
những người may mắn thoát chết
tiếp tục sống với nỗi đau
gặm nhấm. Lịch sử sẽ
phải thực sự được viết
lại bởi những người viết sử
công chính và những quyển hồi kư man trá
nầy sẽ phải bị chôn sâu dưới
nấm mồ của những tác giả đă
đánh mất lương tri.
Trong
một cuộc mạn đàm với các bậc
thức giả, chúng tôi có bày tỏ nỗi ưu
tư là những người di tản thế
hệ chúng ta không có cơ may đọc
được một quyển chính sửviết
về thời kỳ chúng ta đă sống.
Một cụ giàđă sang sảng trả lời:
«Biết làm chi nhiều hơn cho thêm cay đắng.
Chúng ta chỉ cần biết rơ ràng rằng chúng
ta là nạn nhân của ba sựlừa dối và
phản bội, thứ nhất là của đồng
minh người Mỹ của chúng ta, thứ hai là
của người lănh đạo phe quốc gia
chúng ta và thứba là của bọn Cộng
Sản Việt Nam».
Chúng tôi
chỉ biết gục đầu thấm thía
lời phẩn nộ nhưng không dám gậtđầu
chấp nhận thái độ buông tay.
Chúng tôi
vẫn tự hỏi, có thếnào lịch sử
cận đại của một dân tộc đă
phải hi sinh bao triệu người sẽ
được viết bởi những kẻ
lừa dối và phản bội ?
Lâm-Văn-Bé (Montréal) Chuyển sang dạng text từ PDF files bởi ngv
Sách
tham khảo chính yếu:
-
Bùi Diễm. Gọng
kềm lịch sử. Paris: Cơ sở xb Phạm
Quang Khai, 2000. (expanded version of The Jaws of History).
- Cao Văn
Viên. Những ngày cuối cùng của Việt Nam
Cộng Ḥa, dịch từ The Final Colllapse bởi
-
Nguyễn Kỳ Phong. Centreville(Virginia):Vietnambibliography,
2003.
-Darcourt,
Pierre. Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils.— Paris: Albatros,
1975.
- Hoàng
Đống. Niên biểu lịch sử VN, thời
kỳ 1945-1975.California:Đại Nam 2005.
- Hoàng
ngọc Thành & Thân thị Nhân Đức.
Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô
Đ́nh Diệm (ấn
bản
lần thứ ba).- San José: Quang Vinh, 1999.
- Karnow
Stanley. Vietnam: a history.–New York: Viking, 1983.
- Kissinger,
Henry, Ending the VN war.–New York: Simon&Schuster, 2003.
- Lartéguy,
Jean. L’adieu à Saigon. — Paris: Presses de la Cité, 1975.
- Lư Quư
Chung, Hồi kư không tên. — TpHCM: Nhà xb Trẻ, 2004.
- Nesson,
Ron. It sure looks different from the inside. — Chicago: Playboy
Press, 1978.
-
Nguyễn Bá Cẩn. Đất nước tôi.
–San Jose: Hoa Hao Press, 2003.
-
Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng
của VNCH. — Montréal: Tủ sách Nghiên cứu
Sử Địa,1979.
-
Nguyễn Hữu An. Chiến trường mới.
– Hanoi: Nxb Quân đội nhân dân, 2001.
-
Nguyễn Tiến Hưng. Khiđồng minh tháo
chạy. – San Jose: Cơ sở xb Hứa Chấn
Minh, 2005.
-
Nguyễn Tiến Hưng. Hồ sơmật Dinh
Độc Lập.
- Snepp,
Frank. Sauve qui peut.– Paris: Éditions Balland, 1979 (dịch
từ: Decent Interval.– New York:Random House, 1977).
- Terzani,
Tiziano. La chute de Saigon, 30 avril 1975. – Paris: Fayard, 1977.
- Todd,
Olivier. La chute de Saigon: Cruel Avril. Paris: Laffont, 2005.
- Trần
Đông Phong. Việt Nam Cộng Ḥa, 10 ngày cuối
cùng. –California: Nam Việt, 2006.
- Trần
Văn Đôn. Việt Nam nhân chứng. — California:
Xuân Thu, 1989.
|