con
kiến kiện củ khoai: vụ kiện chất độc màu da cam Trần B́nh Nam |
Nói
là một số người Việt kiện, nhưng
thật ra vụ kiện do một Tổ Chức
tại Hoa Kỳ gọi là The
Fund for Reconciliation and Development (FRD) tạm gọi là
Quỹ Ḥa Giải và Phát
Triển đứng ra yểm tài chánh và cố
vấn luật pháp. Quỹ Ḥa Giải và Phát
Triển trên nguyên tắc là một Quỹ bất
vụ lợi, không đảng phái thành lập
từ năm 1985 với mục đích thúc đẩy
giao hảo và quan hệ giữa Hoa Kỳ với các
nước Việt, Miên, Lào và Cuba với Hoa Kỳ
về ngoại giao, kinh tế, giáo dục, văn hóa
và con người trong tinh thần lưỡng
lợi. Tại Việt Nam Quỹ Ḥa Giải và Phát
Triển làm việc
với một nhóm chuyên viên về chất độc
màu da cam có quan hệ với chính phủ Việt Nam
và các tổ chức quốc tế phi chính phủ khác.
Và qua sự làm việc này Quỹ Ḥa Giải và Phát
Triển đă đưa vụ chất độc màu
da cam ra ṭa đ̣i bồi thường.
Với nguồn gốc như
vậy Quỹ Ḥa Giải và Phát Triển được
nh́n với con mắt (không oan uổng ǵ) là một
tổ chức thân Hà Nội. V́ vậy dù vụ
kiện chất độc màu da cam là một vụ
án phi chính trị cũng trở thành chính trị. Ṭa
án tại Hoa Kỳ độc lập,
nhưng trong vụ án này, bên nguyên gặp
rất nhiều khó khăn và trở ngại nếu
muốn trưng ra trước ṭa các bằng
chứng không chối căi được về quan
hệ giữa việc rải chất độc màu
da cam và các bệnh hiểm nghèo như ung thư,
đái đường và sẩy thai, nên quan ṭa có
một khoảng không gian luật lệ thật
rộng để tuyên án ai phải ai trái. Ông quan ṭa
Jack Weinstein đă phán: vụ án không có căn
bản, dẹp nó đi. Bên nguyên cho biết sẽ
kháng cáo lên ṭa trên. Và vụ kiện này có
nhiều triển vọng lên đến Tối cao Pháp
viện Hoa Kỳ. Nhưng cũng không có hy vọng ǵ
các quan ṭa Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sẽ
giải quyết thích đáng những chuyện có màu
sắc chính trị bất lợi như vụ
kiện này.
Chuyện thua được
đă thấy rơ. Cuộc phỏng vấn của chương
tŕnh Việt ngữ đài Tiếng nói Hoa Kỳ (The
Voice of America) trong buổi phát thanh nghe được
tại Việt Nam sáng ngày Thứ Sáu 11/3 với
tiến sĩ Mai Thanh Truyết (một chuyên viên
về hóa chất, ở California) và Luật sư
Trần Thanh Hiệp (một luật sư nổi
tiếng, ở Paris) cho thấy sự bế tắc
của vấn đề. Tiến sĩ
Truyết nói ông quan ṭa Jack Weinstein đă phán
quyết theo lẽ phải v́ không có ǵ chứng minh
chất độc màu da cam đă sinh ra bệnh. Ông
nói sự xử dụng bừa băi phân bón hóa
học tại Việt Nam cả chục năm nay có
thể là nguyên nhân của bệnh. Không ai căi
lại được ông Mai Thanh Truyết v́ ông là
một nhà khoa học có thẩm quyền trong lĩnh
vực này và đă từng nghiên cứu quan hệ
giữa bệnh và hóa chất. Luật sư Trần
Thanh Hiệp th́ cũng nói lưng chừng. Là
một nhà luật học tin tưởng vào sự
nghiêm minh của luật pháp Hoa Kỳ ông nói chúng ta
hăy chờ công lư phán xét. Ông hy vọng công lư
sẽ nghiêng về lẽ phải. Cũng không ai có
chỗ nào căi lại luật sư Trần Thanh
Hiệp.
Nhưng bỏ ra ngoài
lập luận “không căi lại được”
của nhà khoa học Mai Thanh Truyết và nhà luật
học Trần Thanh Hiệp để đặt
thẳng câu hỏi: “Chất độc màu da cam dùng
trong chiến tranh Việt Nam có ảnh hưởng
đến sức khỏe của người dân
sống trong vùng không ? ” th́ câu trả lời không
thể nào khác hơn là “Có”. Sự khẳng định
này không khác ǵ sự khẳng định mà một
đứa con nít cũng biết là quả đất
tṛn và chạy quanh mặt trời một ṿng trong
một năm (mặc dù nếu có ai vặn hỏi nó
hỏi tại sao nó biết th́ nó sẽ ngẩn người
ra trước câu hỏi ngớ ngẩn đó). Xin
thêm vài thí dụ về sự hiển nhiên của
sự thật mà ṭa án không thể công khai nh́n
nhận trong vài vụ án điển h́nh. Bảy năm
sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, ngày
23/1/1982 hăng truyền h́nh CBS trong một phóng sự
nhan đề: “The
Uncounted Eneny: A Vietnam Deception” (Lừa gạt dư
luận về số lính của địch) nói
rằng tướng William Westmoreland trong thời gian làm
tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt
Nam là người chủ mưu ngụy tạo tin t́nh
báo về quân số của địch tại
chiến trưởng Việt Nam trước cuộc
tấn công trận Mậu Thân để làm cho dân
chúng Mỹ hiểu lầm quân đội Mỹ
đang thắng. Tướng Westmoreland đă kiện
đài CBS đ̣i bồi thường 120 triệu
mỹ kim về tội bôi nhọ quân đội. Qua
trận Mậu Thân 1968 ai cũng biết có sự
ngụy tạo số quân (như biết quả
đất tṛn vậy) và tướng Westmoreland có trách
nhiệm trong sự ngụy tạo này, nhưng quan ṭa
không xử được. Xử đài CBS thắng
th́ làm mất tinh thần quân đội. Xử tướng
Westmoreland thắng th́ làm lu mờ cái tinh thần
tự do ngôn luận rất tha thiết của người
Mỹ. Cuối cùng các thế lực khác trong nước
đứng ra dàn xếp tướng Westmoreland băi
nại, đánh đổi lại đài CBS thông cáo
trên CBS rằng CBS không có ư chê bai tinh thần yêu nước
của ông tướng. Thí
dụ thứ hai là vụ án O.J. Simpson giết vợ
tháng 6 năm 1994 tại Los Angeles. Ai cũng biết
O.J. Simpson đă giết bà Nicole Brown Simpson và t́nh nhân
của bà là Ron Goldman (nhắc lại: như biết
quả đất tṛn) nhưng do phản ứng
của dư luận người da đen toàn
quốc đối với cung cách điều tra và
trưng bằng cớ buộc tội kiểu
“cả vú đắp miệng em” của cảnh sát
thành phố Los Angeles trong một vụ xử kéo dài
mười tháng trong năm 1995 có quá nhiều sơ
suất nên bồi thẩm đoàn đă tha bổng
O.J. Simpson về tội giết vợ và người
t́nh của cô. Làm sao bây giờ? Một kẻ sát nhân
được tha bổng! Cuối cùng bộ máy tư
pháp t́m cách đưa ông Simpson ra ṭa buộc tội
có trách nhiệm về cái chết của bà Brown
Simpson và ông Goldman và tuyên án bồi thường
thiệt hại dân sự 33.5 triệu mỹ kim. Trong vụ án chất độc màu da cam, nhiều phi công Mỹ lái máy bay rải chất độc cũng như binh sĩ Hoa Kỳ từng chiến đấu trong vùng khai quang bị tác hại của độc chất và nhiều người đă chết v́ ung thư. Trong đó có Trung úy Hải quân Elmo Zummalt III (chết năm 1988) con trai của Đô Đốc Elmo R. Zummalt, tư lệnh lực lượng hải quân Mỹ tại chiến trường Việt Nam trong hai năm 1968-70. Quân nhân Hoa Kỳ bị nhiễm độc đưa vụ này ra ṭa và ṭa đă xử chính phủ có trách nhiệm và kết quả có khoảng 10,000 cựu quân nhân được bồi thường. Thật ra nếu Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cứ bám lấy luật mà căi th́ các cựu quân nhân cũng khó thắng, nhưng đây là một vấn đề trong nhà với nhau, và là cựu quân nhân th́ dù đau ốm v́ lư do ǵ chính phủ cũng phải lo. Hơn nữa Hoa Kỳ đang có nhu cầu làm dịu cơn đau của hội chứng Việt Nam (Vietnam syndrome) nên bộ Tư pháp đă nhượng bộ. Sự nhận trách nhiệm đối với cựu quân nhân làm nổi bật sự trong sáng của nền dân chủ Hoa Kỳ và vào lúc đó không ảnh hưởng ǵ đến uy tín của Mỹ quốc. Nhưng
khi người Việt Nam kiện th́ lại là
một chuyện khác, nó trở thành một vấn
đề chính trị, liên quan đến nguồn
gốc của cuộc chiến, đến sự lănh
đạo chiến tranh, đến thế đứng
của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á và trên toàn thế
giới, đến sự vướng mắc
hiện nay vào một số sự việc không
mấy tốt đẹp như vụ đối
đăi với tù nhân tại nhà tù Abu Ghraib, nên
chắc rằng ṭa án Hoa Kỳ sẽ bám lấy
luật mà xử và không thể để cho Hoa
Kỳ chịu thua dù cho Quỹ Ḥa Giải và Phát
Triển có nỗ lực đến đâu. Cái
vấn đề là như vậy, nó chỉ có thể
được giải quyết bằng ḥa giải
như vụ kiện CBS-Westmoreland hay tránh né như
vụ O.J. Simpson. Quỹ
Ḥa Giải và Phát Triển (và chính phủ Việt
Nam) cần thấy rằng kèn cựa việc này cũng
sẽ không thắng được, chỉ mất
tiền cho luật sư và làm cho quan hệ Việt
Nam-Hoa Kỳ thêm căng thẳng. Phần chính phủ
Hoa Kỳ cứ lằng nhằng trước ṭa không
chịu thua cũng không làm tăng uy tín của nước
Mỹ. Thượng sách là Hoa Kỳ nên nhận
lấy trách nhiệm trên tinh thần nhân đạo
và thiết lập ngân sách giúp đỡ những
nạn nhân tại Việt Nam.
|