Tôi
đă bắt đầu giảng dạy về
chiến tranh Việt Nam như thế nào |
Bùi
Văn Phú dịch Tháng Giêng năm
1972, khoảng sáu tháng sau khi từ chiến trường
Việt Nam trở về và được phục viên,
tôi bắt đầu học thạc sĩ tại Đại
học Michigan, chuyên ngành sử Việt Nam. Cuộc
chiến lúc đó th́ quá bao la để tôi có thể
ép nó vào khung hàn lâm, v́ thế tôi chú trọng vào
những thời kỳ cổ sử, là một sự
vượt thoát êm ả khỏi những bối
rối từ trải nghiệm bản thân về
cuộc chiến Việt Nam. Những năm sau,
khi dạy môn sử Việt, tôi không tránh khỏi
việc phải dành vài tiết nói về cuộc
chiến giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhưng tôi luôn
cảm thấy lo sợ khi làm thế, v́ bàn luận công
khai về cuộc chiến thường khiến tôi có
cảm giác buồn nôn. Phải mất 25 năm tôi
mới bắt đầu hiểu được
cảm giác buồn nôn đó đến từ sự
trái nghịch giữa những mẫu diễn giải
mà tôi đă ghi nhận được về cuộc
chiến và những ǵ tôi cảm nhận trong ḷng ḿnh. Có ba nguyên lư trong các
lư giải nổi bật nhất về chiến tranh
Mỹ-Việt đă được những phong trào
phản chiến đưa ra vào cuối thập
kỷ 1960 và rồi được đa số giáo sư
đại học coi đó là nền tảng để
giải thích về cuộc chiến này. Ba nguyên lư đó là:
chưa bao giờ có một chính quyền không cộng
sản hợp pháp tại Sài G̣n; Hoa Kỳ không có lư
do hợp pháp để can dự vào việc của người
Việt Nam; và Hoa Kỳ đă không thể thắng
được cuộc chiến trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Phải mất
nhiều năm tôi mới thoát ra khỏi những
luận điểm này và nh́n chúng như những
mảnh vụn giáo điều của phong trào
phản chiến hơn là những lập luận có
nền tảng vững chắc được xác minh
với bằng chứng và lư luận. Tôi có thể nói
như thế, v́ rút cuộc tôi cũng đă đồng
thuận với những trải nghiệm của
bản thân. Nhận bằng
cử nhân vào tháng 5. 1968, hai tuần lễ sau tôi
nhận giấy động viên, yêu cầu tŕnh
diện tại trung tâm quân vụ gần nhất để
khám sức khoẻ. Sau cái gọi là Tổng công kích
Mậu Thân mùa xuân năm đó, chỉ số trưng
binh cao hẳn lên khiến nhiều người trong chúng
tôi, do học vấn, vốn mong được hoăn
nghĩa vụ cho đến qua thời hạn trưng
binh, th́ từng người giờ đang phải giáp
mặt với chiến tranh. Tôi nhớ lúc đó
có năm chọn lựa. Một là t́m cách
để rớt khám sức khoẻ tổng quát và có
nhiều cách để làm thế. Tôi loại bỏ cách
này ngay v́ nó làm mất danh dự bản thân. Một cách khác là làm
đơn xin được một ngoại lệ như
"người phản đối v́ lương tâm"
mà sẽ đ̣i hỏi tôi phải lư luận rằng,
v́ niềm tin tôn giáo nên tôi không thể vào lính. Tôi
gạt cách đó, v́ tôn giáo của tôi không nằm
trong loại này. Cách thứ ba là vào
tù, nhưng tôi không thấy có lư do ǵ để làm
chuyện này, v́ không tin là cuộc chiến có một
giá trị đạo đức thấp đến
độ tôi phải phản kháng dân sự. Cuộc
chiến, như tôi hiểu vào lúc đó, tự nó không
phải là xấu; nếu có ǵ xấu, th́ tôi nghĩ
là do không được chỉ đạo đúng và
những hệ quả của sự dốt nát này. 7
tuổi, tôi đă chứng kiến cảnh anh rể
trở về trong quan tài, tôi có ư thức về
bổn phận công dân đối với đất nước,
điều không hề bị cản trở do
những thăng trầm chiến tranh v́ lănh đạo
kém. Soi rọi vào chính ḿnh, tôi biết tôi có thể
trung thành với luật danh dự cá nhân gắn
liền với những ǵ tôi hiểu, như những
lư tưởng tiềm ẩn trong cách tổ chức
chính phủ tại nước tôi, đă vươn
cao hơn cả sự thất bại của giới lănh
đạo chính trị và quân sự. Điều này trở
nên rơ hơn khi tôi được một sĩ quan
phỏng vấn trong tiến tŕnh cấp cho tôi đặc
quyền được biết những tin mật
về an ninh. Ông ta hỏi ư kiến về cuộc
chiến, tôi trả lời rằng, thật là vô lư
nếu chúng ta t́m cách bảo vệ miền Nam khi vùng
biên giới với Lào và Cam Bốt lại để
cho địch quân kiểm soát. Tôi đă không tranh
luận về việc chống lại sự bành trướng
của những chính quyền cộng sản. Nhưng
tôi không nh́n thấy một chiến lược nào
được áp dụng khả dĩ có triển
vọng thành công. Tuy nhiên tôi nói với viên sĩ quan
rằng ḷng yêu nước của tôi cao hơn
những bất măn về sự lănh đạo
tồi. Tôi không thể vào tù chỉ v́ bất đồng
với việc điều hành chiến tranh, đặc
biệt là tôi đă không tranh căi về mục tiêu toàn
diện của cuốc chiến. Lựa chọn thứ
năm là phục vụ tổ quốc, làm tṛn bổn
phận công dân như tôi đă được
dạy. Đó là điều tôi đă chọn. Nhưng, có lẽ
từ niềm tự cao với một tŕnh độ
giáo dục vững chắc và hănh diện về tính
độc lập phát sinh ra niềm tự cao đó, tôi
quyết tâm ǵn giữ và kiểm soát cuộc đời
ḿnh bằng mọi cách có thể được. Tôi
không ưa cái cảm giác của sự bất lực
đến từ một viễn vọng giản
đơn là bị trưng binh, bị gửi đến
bất cứ nơi nào để làm bất cứ
việc ǵ. V́ thế khi người
tuyển binh giải thích thay v́ bị trưng binh, tôi
có thể t́nh nguyện đăng kư và như thế
tôi có thể chọn việc cho ḿnh trong quân đội.
Tôi quyết định nắm lấy bất kỳ
dấu tích tự kiểm soát nào mà tôi có thể
đặt vào đời ḿnh trong lúc này. Tôi
đăng kư vào ngành quân báo. Hai năm kế
tiếp là những khoá huấn luyện: từ căn
bản chiến đấu, t́nh báo đến học
tiếng Việt. Tôi đă ấp ủ hi vọng không
phải can dự vào cuộc chiến. Những đồng
đội thân quen được gửi đi Alaska,
Triều Tiên hay Đức quốc, Panama. Nhưng một
khi tôi được đi học tiếng Việt,
điều duy nhất tôi hy vọng là lúc măn khóa th́
cuộc chiến cũng chấm dứt. Nhưng không,
cuối cùng tôi đến Việt Nam vào năm 1970
với chức vụ trung sĩ chủ lực. Lănh đạo quân
đội, giới nhà binh cũng như dân sự,
nhận ra sự cần thiết để tái phối
trí binh lính ra khỏi Việt Nam càng mau càng tốt
để tránh cho sự bất măn lân lan đến
những bộ chỉ huy khác trên thế giới. Trong
khi đó chúng tôi lại được yêu cầu hăy
nắm lấy cơ hội chót "làm người
cuối cùng hy sinh ở Việt Nam". Dù đă thi hành
nhiệm vụ của ḿnh một cách chuyên nghiệp
và hết ḷng, tôi cũng bị ảnh hưởng
bởi sự bất măn này. Đối với tôi, chúng
ta đang thua trận và chúng tôi đơn giản chỉ
là những đoàn hậu binh bị bỏ rơi tùy
tiện. Tôi không thích điều
đó và trở nên nghi ngờ cấp chỉ huy
của ḿnh, tôi cảm nhận được rằng
sự sụp đổ mà chúng tôi đang tham dự
ít nhất cũng cho họ cơ hội để thăng
quan tiến chức, trong khi đó phần chúng tôi chỉ
c̣n lại một câu hỏi đơn giản,
sống hay chết. Tôi được
tản thương về Hoa Kỳ năm 1971 trong ngơ
ngác và mất hướng. Tại Đại Học
Michigan chung quanh tôi là những sinh viên, giáo sư,
những người đă ôm chặt lấy ba nguyên
lư về chiến tranh Việt Nam mà tôi đă nêu ra
ở phần đầu và coi đó là những
sự thực hiển nhiên. Tôi tức giận v́
đă hy sinh tuổi trẻ của ḿnh cho sự
thiếu khả năng lănh đạo của những
ông già, và rộng ra khi nghĩ đến chiến
tranh tôi đơn giản chấp nhận những giáo
điều trong những khẩu hiệu phản
chiến lúc đó rất thịnh hành ở Ann Arbor. Trong nhiều năm,
những trải nghiệm chiến tranh của tôi như
một cục u không tan trong óc. Tôi không biết
phải làm ǵ với nó. Tôi bắt đầu dạy
và viết về lịch sử Việt Nam, nghĩa là
về thời điểm trước thế kỷ
XX, và tôi h́nh dung ra rằng bằng một cách nào
đó tôi đang chuyển đổi những trải
nghiệm đời lính không đẹp thành một
điều tích cực, bằng cách dạy người
khác về một đất nước chứ không
phải chỉ có cuộc chiến. Sống ở
Việt Nam đầu thập kỷ 1990 tôi đă
gặp nhiều người Việt, mà khi họ
thấy một người từng là lính Mỹ
chiến đấu ở Việt Nam và có thể nói
được ngôn ngữ của họ, họ thường
tỏ ra tức giận và đau khổ, là điều
tôi dễ thông cảm. Ở miền Bắc là
những năm chịu đựng bom. Ở miền
Nam là sự phản bội. Dù thế nào th́ di
sản người Mỹ để lại Việt Nam
là một kư ức đau buồn cho họ, cho tôi. Nhưng
có một điều tôi học được sau vài
năm sống và làm việc ở đó là đất
nước này phải chịu đựng một cơ
cấu chính phủ tàn bạo, áp bức, thối nát
và nghèo nàn, và tôi dần hiểu được
những ǵ mà nhiều người Việt tị
nạn đă nói với tôi: Nếu người
Mỹ đă giữ lời hứa, miền Nam giờ
đây có lẽ cũng được phồn
thịnh, d cho đó không có ǵ khác hơn là chủ
nghĩa thực dân mới và đế quốc; c̣n tôi
th́ đồng ư với tiền đề là Hoa
Kỳ ngày nay có một vai tṛ chính đáng, có thể
nói là không tránh được, trên thế giới. Nếu chấp
nhận nguyên lư những chính quyền ở Sài G̣n
từ năm 1954 đến 1975 là không hợp pháp, không
thể tồn tại th́ cũng như lập luận
rằng từ năm 1945 chỉ có một chính
quyền Việt Nam hợp pháp và tồn tại do
Hồ Chí Minh lănh đạo, mà điều này
giản đơn là giáo điều nền tảng
trong cách nh́n của người cộng sản về
lịch sử dân tộc. Thật hết
sức dễ dăi khi để lư giải này của người
cộng sản được phổ biến, chấp
nhận bởi những nhà nghiên cứu Mỹ mà không
bị chỉ trích. Ngay cả Kruschev cũng không hành
động theo sự cao ngạo tuyệt vời này
của cộng sản. Người ta thường quên
rằng vào năm 1957 Liên Xô đă đề nghị
cả hai chính phủ Việt Nam được
nhận vào Liên hiệp quốc, chưa kể việc
Trung Quốc cũng tán đồng sự hiện
hữu của hai nước Việt Nam. Rơ ràng là,
bỏ hai phiá Việt Nam ra, những người tham
dự Hội nghị Geneve 1954 đều ủng
hộ giải pháp hai quốc gia để làm giảm
đi những đối đầu nghiêm trọng toàn
cầu. Sự xác định về một nước
Việt Nam thống nhất trên lư thuyết, trong
bản tuyên bố sau cùng của những người
tham dự hội nghị đưa ra, đă loại
bỏ ra ngoài câu hỏi về chính quyền hợp pháp
của một nước Việt Nam thống nhất
và để nó đổi thay theo những biến
chuyển mơ hồ của một cuộc tổng
tuyển cử được tổ chức hai năm
sau, mà đó chỉ là tô vẽ lên một cách
ngoại giao sự nhiệt t́nh dân tộc trong
thực thế của một cuộc chiến tranh
lạnh. Quan điểm thường
có về chính phủ Ngô Đ́nh Diệm là một chính
phủ thiếu khả năng và làm tay sai cho Hoa
Kỳ ngày càng trở nên khó biện minh hơn. Ít
nhất Ngô Đ́nh Diệm đă hai lần dẹp
được những nổi loạn ở nông thôn
vào năm 1956 và 1958. V́ những thành công này mà năm
1959 Hà Nội quyết định khởi động
chiến tranh, chứ không phải họ xem Ngô Đ́nh
Diệm là yếu kém, mà ngược lại bởi v́
Hà Nội không thể chờ đợi lâu hơn
nếu không muốn mất cơ hội ngăn
chặn sự ổn định của một chính phủ
không cộng sản tại miền Nam. Sau khi Ngô Đ́nh
Diệm bị giết, phải mất gần bốn năm
mới có một chính phủ ổn định,
một chính phủ v́ nhu cầu, lệ thuộc vào
Hoa Kỳ nhiều hơn chính phủ Diệm. Nhưng
nền "Đệ nhị Cộng ḥa" cũng
ổn định qua những thăng trầm của
chiến tranh và đă ở vào vị trí có thể
tồn tại, khi mà v́ những khủng hoảng chính
trị và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ vào
đầu thập kỉ bảy mươi đă
phản bội lại một nước Việt Nam không
cộng sản để đưa nó vào tay quân thù. Chắc chắn tính
hợp pháp và khả năng tồn tại của chính
phủ Sài G̣n không ít hơn (với sự trợ giúp
của Hoa Kỳ) những chính phủ Nam Hàn, Đài Loan
hay Hà Nội (với những trợ giúp của đàn
anh họ). Nhưng đó là nỗi bất hạnh
của chính phủ Sài G̣n để trở thành
nạn nhân của đàn anh Hoa Kỳ hay thay đổi.
Để xóa đi trong tâm thức chuyện nhục nhă
này, nhiều người Mỹ t́m thấy sự hài
ḷng khi dựa vào những mơ màng lăng mạn
của Hồ Chí Minh và những sáo ngữ lịch
sử ngớ ngẩn về một dân tộc Việt
Nam anh hùng đánh bại những đoàn quân xâm lược
mà tên tuổI Hồ Chí Minh đă được
kết đan vào đó. Tôi th́ lại
muốn bàn đến những mô thức về
sự quan trọng của việc bảo vệ và xây
dựng những nền dân chủ non trẻ trên thế
giới mới vừa nổi lên từ bạo tàn.
Tự do mà chúng ta thừa hưởng trên đất
nước này không tự nhiên mà có, mà do những
phấn đấu của người dân và không có ǵ
đảm bảo tự do sẽ tiếp tục
hiện hữu. Sự tuyệt vời của hệ
thống chính trị này, mà chúng ta hay xem thường,
là kết quả của những hy sinh từ thế
hệ này qua thế hệ khác, những hy sinh thường
không được những người thừa hưởng
trân quư. Đó là lư do tại sao tôi không chấp
nhận nguyên lư cho rằng Hoa Kỳ không có lư do
hợp pháp nào để can dự vào Việt Nam. Tôi
cho rằng quyền lực toàn cầu trong tay Hoa
Kỳ phải được nắm lấy như là
một trách nhiệm, không phải là điều mà chúng
ta cần tỏ ra hối hận. Nếu Hoa Kỳ
thất bại trong việc dùng quyền lực để
đem lại những tốt đẹp cho nhân
loại th́ nó sẽ mất đi không chỉ sức
mạnh, mà cả những ǵ mà đất nước
này đă đạt được; những tự do
vươn lên dưới bóng sức mạnh của
Hoa Kỳ sẽ bị lâm nguy.
Chính sách của
Mỹ tại Việt Nam đă được sự tán
đồng của quần chúng Mỹ cho đến năm
1968, và những nguồn tài nguyên quân sự, kinh
tế mà Hoa Kỳ dành ra, bất kể tính toán cách nào,
th́ chắc chắn tương đồng với
những nỗ lực bảo vệ chính phủ
miền Nam. Ngay cả khi chúng ta thừa nhận
rằng những người cộng sản được
bảo đảm hơn với cơ cấu tổ
chức chỉ huy có thể tạo ra được
sự nhất trí hành động hơn là giữa người
Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam. Thật khó tưởng
tượng, làm cách nào mà việc đó làm mất
đi khả năng quân sự của Hoa Kỳ
nếu được vận dụng một cách tài t́nh.
Chỉ cần xem lại việc Pháp chinh phục
Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX để
thấy những sai lầm của cuộc tranh luận
về điều gọi là thất bại không thể
tránh được. Nguyên nhân dẫn đến
sự bại trận của Hoa Kỳ và Nam Việt
Nam không phải là thiếu nhất trí và quyết tâm,
mà là do một chuỗi những quyết định
sai lầm mà chính quyền Kennedy và Johnson đă
phạm để đưa cuộc chiến vào
bế tắc, làm mất đi ḷng kiên nhẫn
của nhân dân Mỹ. Trong những năm
từ 1961 đến 1967, Hoa Kỳ đánh mất
sức mạnh quân sự bởi những tư tưởng
chiến lược nghèo nàn và bởi thiếu
những quyết tâm chính trị. Dĩ nhiên thật là
dễ giải thích những sai lầm đă có như
là chúng đă tuần tự diễn ra theo một
chuỗi sự việc mà tổng thống Kennedy và
Johnson, cùng với những cố vấn cao cấp,
đă hiểu. Tuy nhiên, những bất đồng
trong từng giai đoạn đă được
đưa ra, những chọn lựa được
chấp thuận không phải v́ bị dọa nạt
mà v́ dựa vào một tiền đề sai và
thiếu sự quan tâm. ·
Quyết định
của Kennedy vào năm 1961 khi thương thảo
về điều gọi là nền trung lập của
Lào, nhượng bộ cho địch khu vực biên
giới và đường liên lạc bên trong nội
địa, tức như đă chấp nhận
rủi ro chiến lược cho những ǵ c̣n
lại của cuộc chiến. ·
Kennedy quyết
định tăng số nhân viên quân sự ở
Việt Nam trong khi t́m cách ngăn cản những tường
thuật của báo chí về việc người
Mỹ tham chiến và không có một tư duy chiến
lược rơ hơn ngoài vai tṛ "cố vấn",
và như thế đă đưa ra một tiền
lệ nguy hại là can thiệp không có mục đích
minh bạch cũng như không tỏ ra thành thật
với quần chúng. ·
Kennedy quyết
định thúc đẩy một cuộc đảo
chánh quân sự lật đổ Ngô Đ́nh Diệm, v́
thế đă loại bỏ một nhà lănh đạo
Việt duy nhất có tài, đă tạo ra những
rối loạn chính trị buộc Hoa Kỳ phải
chọn giữa thất bại hoặc can dự sâu hơn
vào Việt Nam. ·
Quyết định
của Johnson đưa lục quân và không quân tham
chiến trong một chiến thuật gây hao ṃn, cho tướng
Westmoreland quyền ngăn cấm những phương
thức chống phiến quân mà những người
lính Thủy quân Lục chiến rất ưa
chuộng (những phương cách đó thật ra lính
Pháp đă áp dụng thành công trong thập kỷ 1880
và 1890). ·
Quyết định
của Johnson nhằm thuyết phục đối phương
từ bỏ ư định chiến thắng hơn là
sử dụng mọi phương tiện cần
thiết để đạt chiến thắng cho Hoa
Kỳ: Johnson tránh động viên quần chúng và kinh
tế vào cuộc chiến; từ chối trưng binh
lực lượng trừ bị, lệ thuộc hoàn
toàn vào việc tuyển binh và vay mượn ngân sách
trong cuộc khủng hoảng tài chánh đầu năm
1968, v́ thế can dự của Hoa Kỳ vào cuộc
chiến chỉ giới hạn; Johnson cho phép sách lược
chiến tranh bị ngăn cản dựa vào diễn
giải sai lầm là Trung Quốc có thể can dự,
v́ thế đă loại bỏ ra những chọn
lựa rất mấu chốt. Sự tự măn của
Johnson đă để cho cuộc chiến tiếp
tục tháng này qua tháng khác mà không có những lượng
giá nghiêm túc về mục tiêu và thành quả,
đưa đến thất bại trong quyết tâm
chính trị ở Hoa Kỳ. Tất
cả những sai lầm đó qui về một
mối vào đầu năm 1968, khi sự hậu
thuẫn của quần chúng dành cho cuộc chiến
đang diễn ra không c̣n nữa.
|