Tôi đă bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào
Keith W. Taylor

Bùi Văn Phú dịch

Tháng Giêng năm 1972, khoảng sáu tháng sau khi từ chiến trường Việt Nam trở về và được phục viên, tôi bắt đầu học thạc sĩ tại Đại học Michigan, chuyên ngành sử Việt Nam. Cuộc chiến lúc đó th́ quá bao la để tôi có thể ép nó vào khung hàn lâm, v́ thế tôi chú trọng vào những thời kỳ cổ sử, là một sự vượt thoát êm ả khỏi những bối rối từ trải nghiệm bản thân về cuộc chiến Việt Nam.

Những năm sau, khi dạy môn sử Việt, tôi không tránh khỏi việc phải dành vài tiết nói về cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhưng tôi luôn cảm thấy lo sợ khi làm thế, v́ bàn luận công khai về cuộc chiến thường khiến tôi có cảm giác buồn nôn. Phải mất 25 năm tôi mới bắt đầu hiểu được cảm giác buồn nôn đó đến từ sự trái nghịch giữa những mẫu diễn giải mà tôi đă ghi nhận được về cuộc chiến và những ǵ tôi cảm nhận trong ḷng ḿnh.

Bài viết này giải thích sự việc tôi đă bắt đầu giảng dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào và những tư duy về cuộc chiến đă thay đổi ra sao để trở thành những tư duy của chính ḿnh.

Có ba nguyên lư trong các lư giải nổi bật nhất về chiến tranh Mỹ-Việt đă được những phong trào phản chiến đưa ra vào cuối thập kỷ 1960 và rồi được đa số giáo sư đại học coi đó là nền tảng để giải thích về cuộc chiến này.

Ba nguyên lư đó là: chưa bao giờ có một chính quyền không cộng sản hợp pháp tại Sài G̣n; Hoa Kỳ không có lư do hợp pháp để can dự vào việc của người Việt Nam; và Hoa Kỳ đă không thể thắng được cuộc chiến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Phải mất nhiều năm tôi mới thoát ra khỏi những luận điểm này và nh́n chúng như những mảnh vụn giáo điều của phong trào phản chiến hơn là những lập luận có nền tảng vững chắc được xác minh với bằng chứng và lư luận. Tôi có thể nói như thế, v́ rút cuộc tôi cũng đă đồng thuận với những trải nghiệm của bản thân.

Nhận bằng cử nhân vào tháng 5. 1968, hai tuần lễ sau tôi nhận giấy động viên, yêu cầu tŕnh diện tại trung tâm quân vụ gần nhất để khám sức khoẻ. Sau cái gọi là Tổng công kích Mậu Thân mùa xuân năm đó, chỉ số trưng binh cao hẳn lên khiến nhiều người trong chúng tôi, do học vấn, vốn mong được hoăn nghĩa vụ cho đến qua thời hạn trưng binh, th́ từng người giờ đang phải giáp mặt với chiến tranh.

Tôi nhớ lúc đó có năm chọn lựa.

Một là t́m cách để rớt khám sức khoẻ tổng quát và có nhiều cách để làm thế. Tôi loại bỏ cách này ngay v́ nó làm mất danh dự bản thân.

Một cách khác là làm đơn xin được một ngoại lệ như "người phản đối v́ lương tâm" mà sẽ đ̣i hỏi tôi phải lư luận rằng, v́ niềm tin tôn giáo nên tôi không thể vào lính. Tôi gạt cách đó, v́ tôn giáo của tôi không nằm trong loại này.

Cách thứ ba là vào tù, nhưng tôi không thấy có lư do ǵ để làm chuyện này, v́ không tin là cuộc chiến có một giá trị đạo đức thấp đến độ tôi phải phản kháng dân sự. Cuộc chiến, như tôi hiểu vào lúc đó, tự nó không phải là xấu; nếu có ǵ xấu, th́ tôi nghĩ là do không được chỉ đạo đúng và những hệ quả của sự dốt nát này. 7 tuổi, tôi đă chứng kiến cảnh anh rể trở về trong quan tài, tôi có ư thức về bổn phận công dân đối với đất nước, điều không hề bị cản trở do những thăng trầm chiến tranh v́ lănh đạo kém. Soi rọi vào chính ḿnh, tôi biết tôi có thể trung thành với luật danh dự cá nhân gắn liền với những ǵ tôi hiểu, như những lư tưởng tiềm ẩn trong cách tổ chức chính phủ tại nước tôi, đă vươn cao hơn cả sự thất bại của giới lănh đạo chính trị và quân sự. Điều này trở nên rơ hơn khi tôi được một sĩ quan phỏng vấn trong tiến tŕnh cấp cho tôi đặc quyền được biết những tin mật về an ninh. Ông ta hỏi ư kiến về cuộc chiến, tôi trả lời rằng, thật là vô lư nếu chúng ta t́m cách bảo vệ miền Nam khi vùng biên giới với Lào và Cam Bốt lại để cho địch quân kiểm soát. Tôi đă không tranh luận về việc chống lại sự bành trướng của những chính quyền cộng sản. Nhưng tôi không nh́n thấy một chiến lược nào được áp dụng khả dĩ có triển vọng thành công. Tuy nhiên tôi nói với viên sĩ quan rằng ḷng yêu nước của tôi cao hơn những bất măn về sự lănh đạo tồi. Tôi không thể vào tù chỉ v́ bất đồng với việc điều hành chiến tranh, đặc biệt là tôi đă không tranh căi về mục tiêu toàn diện của cuốc chiến.

Cách thứ tư là trốn qua Canada, một việc đang được chính phủ ở đó khuyến khích. Đây là điều mà bạn thân của tôi đă làm năm 1967. Tôi suy nghĩ kỹ về chọn lựa này, đă đến sứ quán Canada hỏi một nhân viên và được khuyên hăy di dân qua đó. Nhưng v́ những lư do đă tŕnh bày, tôi không thấy chọn lựa này hấp dẫn. H́nh dung ra những thuận lợi cho ḿnh khi làm chuyện này, nhưng làm như thế, bỏ ra một bên sự cương quyết của ḿnh, sẽ làm cho cha mẹ tôi xấu hổ, đau buồn là điều tôi không sẵn ḷng.

Lựa chọn thứ năm là phục vụ tổ quốc, làm tṛn bổn phận công dân như tôi đă được dạy. Đó là điều tôi đă chọn.

Nhưng, có lẽ từ niềm tự cao với một tŕnh độ giáo dục vững chắc và hănh diện về tính độc lập phát sinh ra niềm tự cao đó, tôi quyết tâm ǵn giữ và kiểm soát cuộc đời ḿnh bằng mọi cách có thể được. Tôi không ưa cái cảm giác của sự bất lực đến từ một viễn vọng giản đơn là bị trưng binh, bị gửi đến bất cứ nơi nào để làm bất cứ việc ǵ.

V́ thế khi người tuyển binh giải thích thay v́ bị trưng binh, tôi có thể t́nh nguyện đăng kư và như thế tôi có thể chọn việc cho ḿnh trong quân đội. Tôi quyết định nắm lấy bất kỳ dấu tích tự kiểm soát nào mà tôi có thể đặt vào đời ḿnh trong lúc này. Tôi đăng kư vào ngành quân báo.

Hai năm kế tiếp là những khoá huấn luyện: từ căn bản chiến đấu, t́nh báo đến học tiếng Việt. Tôi đă ấp ủ hi vọng không phải can dự vào cuộc chiến. Những đồng đội thân quen được gửi đi Alaska, Triều Tiên hay Đức quốc, Panama. Nhưng một khi tôi được đi học tiếng Việt, điều duy nhất tôi hy vọng là lúc măn khóa th́ cuộc chiến cũng chấm dứt. Nhưng không, cuối cùng tôi đến Việt Nam vào năm 1970 với chức vụ trung sĩ chủ lực.

Điều tôi tiếp cận ở Việt Nam là một quân đội đang trong t́nh trạng suy đồi tinh thần chiến đấu. Sau khi dư luận quần chúng trở nên chống đối cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến đă thâm nhập vào hàng ngũ quân đội tại Việt Nam. Những vấn đề quy ước như ma túy, xung khắc màu da, giết người, dùng lựu đạn tấn công cấp chỉ huy và bất tuân lệnh th́ hiển hiện và ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu. Những vấn đề này như tôi hiểu, liên quan đến một sự thực, là hệ quả của lănh đạo yếu kém, nên đất nước không c̣n ủng hộ cuộc chiến. Nhưng chúng tôi vẫn phải chiến đấu.

Lănh đạo quân đội, giới nhà binh cũng như dân sự, nhận ra sự cần thiết để tái phối trí binh lính ra khỏi Việt Nam càng mau càng tốt để tránh cho sự bất măn lân lan đến những bộ chỉ huy khác trên thế giới. Trong khi đó chúng tôi lại được yêu cầu hăy nắm lấy cơ hội chót "làm người cuối cùng hy sinh ở Việt Nam".

Dù đă thi hành nhiệm vụ của ḿnh một cách chuyên nghiệp và hết ḷng, tôi cũng bị ảnh hưởng bởi sự bất măn này. Đối với tôi, chúng ta đang thua trận và chúng tôi đơn giản chỉ là những đoàn hậu binh bị bỏ rơi tùy tiện.

Tôi không thích điều đó và trở nên nghi ngờ cấp chỉ huy của ḿnh, tôi cảm nhận được rằng sự sụp đổ mà chúng tôi đang tham dự ít nhất cũng cho họ cơ hội để thăng quan tiến chức, trong khi đó phần chúng tôi chỉ c̣n lại một câu hỏi đơn giản, sống hay chết.

Tôi được tản thương về Hoa Kỳ năm 1971 trong ngơ ngác và mất hướng. Tại Đại Học Michigan chung quanh tôi là những sinh viên, giáo sư, những người đă ôm chặt lấy ba nguyên lư về chiến tranh Việt Nam mà tôi đă nêu ra ở phần đầu và coi đó là những sự thực hiển nhiên.

Tôi tức giận v́ đă hy sinh tuổi trẻ của ḿnh cho sự thiếu khả năng lănh đạo của những ông già, và rộng ra khi nghĩ đến chiến tranh tôi đơn giản chấp nhận những giáo điều trong những khẩu hiệu phản chiến lúc đó rất thịnh hành ở Ann Arbor.

Trong nhiều năm, những trải nghiệm chiến tranh của tôi như một cục u không tan trong óc. Tôi không biết phải làm ǵ với nó. Tôi bắt đầu dạy và viết về lịch sử Việt Nam, nghĩa là về thời điểm trước thế kỷ XX, và tôi h́nh dung ra rằng bằng một cách nào đó tôi đang chuyển đổi những trải nghiệm đời lính không đẹp thành một điều tích cực, bằng cách dạy người khác về một đất nước chứ không phải chỉ có cuộc chiến.

Sống ở Việt Nam đầu thập kỷ 1990 tôi đă gặp nhiều người Việt, mà khi họ thấy một người từng là lính Mỹ chiến đấu ở Việt Nam và có thể nói được ngôn ngữ của họ, họ thường tỏ ra tức giận và đau khổ, là điều tôi dễ thông cảm. Ở miền Bắc là những năm chịu đựng bom. Ở miền Nam là sự phản bội. Dù thế nào th́ di sản người Mỹ để lại Việt Nam là một kư ức đau buồn cho họ, cho tôi. Nhưng có một điều tôi học được sau vài năm sống và làm việc ở đó là đất nước này phải chịu đựng một cơ cấu chính phủ tàn bạo, áp bức, thối nát và nghèo nàn, và tôi dần hiểu được những ǵ mà nhiều người Việt tị nạn đă nói với tôi: Nếu người Mỹ đă giữ lời hứa, miền Nam giờ đây có lẽ cũng được phồn thịnh, d cho đó không có ǵ khác hơn là chủ nghĩa thực dân mới và đế quốc; c̣n tôi th́ đồng ư với tiền đề là Hoa Kỳ ngày nay có một vai tṛ chính đáng, có thể nói là không tránh được, trên thế giới.

Nếu chấp nhận nguyên lư những chính quyền ở Sài G̣n từ năm 1954 đến 1975 là không hợp pháp, không thể tồn tại th́ cũng như lập luận rằng từ năm 1945 chỉ có một chính quyền Việt Nam hợp pháp và tồn tại do Hồ Chí Minh lănh đạo, mà điều này giản đơn là giáo điều nền tảng trong cách nh́n của người cộng sản về lịch sử dân tộc.

Thật hết sức dễ dăi khi để lư giải này của người cộng sản được phổ biến, chấp nhận bởi những nhà nghiên cứu Mỹ mà không bị chỉ trích. Ngay cả Kruschev cũng không hành động theo sự cao ngạo tuyệt vời này của cộng sản. Người ta thường quên rằng vào năm 1957 Liên Xô đă đề nghị cả hai chính phủ Việt Nam được nhận vào Liên hiệp quốc, chưa kể việc Trung Quốc cũng tán đồng sự hiện hữu của hai nước Việt Nam. Rơ ràng là, bỏ hai phiá Việt Nam ra, những người tham dự Hội nghị Geneve 1954 đều ủng hộ giải pháp hai quốc gia để làm giảm đi những đối đầu nghiêm trọng toàn cầu. Sự xác định về một nước Việt Nam thống nhất trên lư thuyết, trong bản tuyên bố sau cùng của những người tham dự hội nghị đưa ra, đă loại bỏ ra ngoài câu hỏi về chính quyền hợp pháp của một nước Việt Nam thống nhất và để nó đổi thay theo những biến chuyển mơ hồ của một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức hai năm sau, mà đó chỉ là tô vẽ lên một cách ngoại giao sự nhiệt t́nh dân tộc trong thực thế của một cuộc chiến tranh lạnh.

Quan điểm thường có về chính phủ Ngô Đ́nh Diệm là một chính phủ thiếu khả năng và làm tay sai cho Hoa Kỳ ngày càng trở nên khó biện minh hơn. Ít nhất Ngô Đ́nh Diệm đă hai lần dẹp được những nổi loạn ở nông thôn vào năm 1956 và 1958. V́ những thành công này mà năm 1959 Hà Nội quyết định khởi động chiến tranh, chứ không phải họ xem Ngô Đ́nh Diệm là yếu kém, mà ngược lại bởi v́ Hà Nội không thể chờ đợi lâu hơn nếu không muốn mất cơ hội ngăn chặn sự ổn định của một chính phủ không cộng sản tại miền Nam.

Việc Hoa Kỳ quyết định lật đổ Ngô Đ́nh Diệm hiển nhiên cho thấy ông ta không phải là tay sai, mà đang chống lại những ảnh hưởng của Hoa Kỳ vào chính quyền của ông. Ông ta bị làm dê tế thần cho những sự bực bội của người Mỹ và bị phản bội bởi chính quyền Mỹ; số phận của Ngô Đ́nh Diệm đă mô tả trước chân dung tất cả những người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản. Chỉ gần đây mới có những đánh giá nghiêm túc về Ngô Đ́nh Diệm với nhận thức rằng ông là người đă hiểu được điều ǵ cần làm cho một quốc gia non trẻ hơn là ḷng hăng hái bị chỉ đạo sai bởi những cố vấn Mỹ.

Sau khi Ngô Đ́nh Diệm bị giết, phải mất gần bốn năm mới có một chính phủ ổn định, một chính phủ v́ nhu cầu, lệ thuộc vào Hoa Kỳ nhiều hơn chính phủ Diệm. Nhưng nền "Đệ nhị Cộng ḥa" cũng ổn định qua những thăng trầm của chiến tranh và đă ở vào vị trí có thể tồn tại, khi mà v́ những khủng hoảng chính trị và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ vào đầu thập kỉ bảy mươi đă phản bội lại một nước Việt Nam không cộng sản để đưa nó vào tay quân thù.

Chắc chắn tính hợp pháp và khả năng tồn tại của chính phủ Sài G̣n không ít hơn (với sự trợ giúp của Hoa Kỳ) những chính phủ Nam Hàn, Đài Loan hay Hà Nội (với những trợ giúp của đàn anh họ). Nhưng đó là nỗi bất hạnh của chính phủ Sài G̣n để trở thành nạn nhân của đàn anh Hoa Kỳ hay thay đổi. Để xóa đi trong tâm thức chuyện nhục nhă này, nhiều người Mỹ t́m thấy sự hài ḷng khi dựa vào những mơ màng lăng mạn của Hồ Chí Minh và những sáo ngữ lịch sử ngớ ngẩn về một dân tộc Việt Nam anh hùng đánh bại những đoàn quân xâm lược mà tên tuổI Hồ Chí Minh đă được kết đan vào đó.

Tôi th́ lại muốn bàn đến những mô thức về sự quan trọng của việc bảo vệ và xây dựng những nền dân chủ non trẻ trên thế giới mới vừa nổi lên từ bạo tàn. Tự do mà chúng ta thừa hưởng trên đất nước này không tự nhiên mà có, mà do những phấn đấu của người dân và không có ǵ đảm bảo tự do sẽ tiếp tục hiện hữu. Sự tuyệt vời của hệ thống chính trị này, mà chúng ta hay xem thường, là kết quả của những hy sinh từ thế hệ này qua thế hệ khác, những hy sinh thường không được những người thừa hưởng trân quư. Đó là lư do tại sao tôi không chấp nhận nguyên lư cho rằng Hoa Kỳ không có lư do hợp pháp nào để can dự vào Việt Nam. Tôi cho rằng quyền lực toàn cầu trong tay Hoa Kỳ phải được nắm lấy như là một trách nhiệm, không phải là điều mà chúng ta cần tỏ ra hối hận. Nếu Hoa Kỳ thất bại trong việc dùng quyền lực để đem lại những tốt đẹp cho nhân loại th́ nó sẽ mất đi không chỉ sức mạnh, mà cả những ǵ mà đất nước này đă đạt được; những tự do vươn lên dưới bóng sức mạnh của Hoa Kỳ sẽ bị lâm nguy.


Tôi không là một người Mỹ tự ám thị, chối bỏ trách nhiệm, đào sâu vào những tội lỗi và lỗi lầm đă phạm hơn là dám đứng ra chống lại sự thiếu vắng thông tin về những đau khổ và rối loạn toàn cầu. Giờ tôi không c̣n nghi ngờ nữa, Hoa Kỳ hoàn toàn có lư do để dùng sức mạnh hầu ngăn chặn sự hủy diệt những hy vọng một tương lai dân chủ cho ít nhất là một số người Việt Nam. Tiếc thay lănh đạo Mỹ cuối thập kỷ 1960 đă có những quyết định chính trị và quân sự sai lầm khiến nhân dân Mỹ chống đối lại những cam kết với Việt Nam. Theo tôi, thảm kịch Việt nam không phải là việc Hoa Kỳ can thiệp khi cần, mà là sự can thiệp được tiến hành một cách tệ hại và sự phản bội những người Việt đă tin tưởng vào chúng ta.

Nguyên lư thứ ba là những nỗ lực của Hoa Kỳ ở Việt Nam không sao tránh khỏi thất bại v́ sự thiếu quyết tâm và nhất trí trong mục đích chung giữa người Mỹ và dân miền Nam, khi so sánh với miền Bắc và những đồng minh Trung Quốc và Liên Xô của họ. Đúng là những chính phủ chống lại một nước Việt Nam không cộng sản đă có thể vận động quần chúng và không quan tâm ǵ đến những ư kiến bất đồng, trong khi một trong những mục tiêu căn bản và lâu dài của Hoa Kỳ là phát triển quyền bất đồng chính kiến, một quyền rơ ràng làm suy giảm sự nhất trí và đồng thuận về mục đích chính sách quốc gia. Hơn thế nữa, miền Bắc Việt Nam có lợi điểm là những tổ chức cộng sản ở miền Nam do họ chỉ đạo, c̣n người miền Nam không có lợi thế đó để chống lại miền Bắc. Sau cùng, từ cái nh́n của người Mỹ, Việt Nam là một đất nước xa xôi, ít được biết đến, không có một liên hệ gần nào ngoại trừ luận điểm về cuộc đối đầu trong tổng thể của một chiến tranh lạnh.

Mọi hoàn cảnh là những thách đố cho nỗ lực tạo dựng một chính quyền không cộng sản ở Sài G̣n. Tuy nhiên những quan tâm này không phải dẫn đến một tranh luận là chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam trước sau cũng thất bại.

Chính sách của Mỹ tại Việt Nam đă được sự tán đồng của quần chúng Mỹ cho đến năm 1968, và những nguồn tài nguyên quân sự, kinh tế mà Hoa Kỳ dành ra, bất kể tính toán cách nào, th́ chắc chắn tương đồng với những nỗ lực bảo vệ chính phủ miền Nam. Ngay cả khi chúng ta thừa nhận rằng những người cộng sản được bảo đảm hơn với cơ cấu tổ chức chỉ huy có thể tạo ra được sự nhất trí hành động hơn là giữa người Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam. Thật khó tưởng tượng, làm cách nào mà việc đó làm mất đi khả năng quân sự của Hoa Kỳ nếu được vận dụng một cách tài t́nh. Chỉ cần xem lại việc Pháp chinh phục Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX để thấy những sai lầm của cuộc tranh luận về điều gọi là thất bại không thể tránh được. Nguyên nhân dẫn đến sự bại trận của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam không phải là thiếu nhất trí và quyết tâm, mà là do một chuỗi những quyết định sai lầm mà chính quyền Kennedy và Johnson đă phạm để đưa cuộc chiến vào bế tắc, làm mất đi ḷng kiên nhẫn của nhân dân Mỹ.

Trong những năm từ 1961 đến 1967, Hoa Kỳ đánh mất sức mạnh quân sự bởi những tư tưởng chiến lược nghèo nàn và bởi thiếu những quyết tâm chính trị. Dĩ nhiên thật là dễ giải thích những sai lầm đă có như là chúng đă tuần tự diễn ra theo một chuỗi sự việc mà tổng thống Kennedy và Johnson, cùng với những cố vấn cao cấp, đă hiểu. Tuy nhiên, những bất đồng trong từng giai đoạn đă được đưa ra, những chọn lựa được chấp thuận không phải v́ bị dọa nạt mà v́ dựa vào một tiền đề sai và thiếu sự quan tâm.

Nổi bật trong những quyết định sai lầm là:

·                                 Quyết định của Kennedy vào năm 1961 khi thương thảo về điều gọi là nền trung lập của Lào, nhượng bộ cho địch khu vực biên giới và đường liên lạc bên trong nội địa, tức như đă chấp nhận rủi ro chiến lược cho những ǵ c̣n lại của cuộc chiến.

·                                 Kennedy quyết định tăng số nhân viên quân sự ở Việt Nam trong khi t́m cách ngăn cản những tường thuật của báo chí về việc người Mỹ tham chiến và không có một tư duy chiến lược rơ hơn ngoài vai tṛ "cố vấn", và như thế đă đưa ra một tiền lệ nguy hại là can thiệp không có mục đích minh bạch cũng như không tỏ ra thành thật với quần chúng.

·                                 Kennedy quyết định thúc đẩy một cuộc đảo chánh quân sự lật đổ Ngô Đ́nh Diệm, v́ thế đă loại bỏ một nhà lănh đạo Việt duy nhất có tài, đă tạo ra những rối loạn chính trị buộc Hoa Kỳ phải chọn giữa thất bại hoặc can dự sâu hơn vào Việt Nam.

·                                 Quyết định của Johnson đưa lục quân và không quân tham chiến trong một chiến thuật gây hao ṃn, cho tướng Westmoreland quyền ngăn cấm những phương thức chống phiến quân mà những người lính Thủy quân Lục chiến rất ưa chuộng (những phương cách đó thật ra lính Pháp đă áp dụng thành công trong thập kỷ 1880 và 1890).

·                                 Quyết định của Johnson nhằm thuyết phục đối phương từ bỏ ư định chiến thắng hơn là sử dụng mọi phương tiện cần thiết để đạt chiến thắng cho Hoa Kỳ: Johnson tránh động viên quần chúng và kinh tế vào cuộc chiến; từ chối trưng binh lực lượng trừ bị, lệ thuộc hoàn toàn vào việc tuyển binh và vay mượn ngân sách trong cuộc khủng hoảng tài chánh đầu năm 1968, v́ thế can dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến chỉ giới hạn; Johnson cho phép sách lược chiến tranh bị ngăn cản dựa vào diễn giải sai lầm là Trung Quốc có thể can dự, v́ thế đă loại bỏ ra những chọn lựa rất mấu chốt. Sự tự măn của Johnson đă để cho cuộc chiến tiếp tục tháng này qua tháng khác mà không có những lượng giá nghiêm túc về mục tiêu và thành quả, đưa đến thất bại trong quyết tâm chính trị ở Hoa Kỳ.

Tất cả những sai lầm đó qui về một mối vào đầu năm 1968, khi sự hậu thuẫn của quần chúng dành cho cuộc chiến đang diễn ra không c̣n nữa.


Hệ quả là chính quyền Nixon tiến hành chiến tranh với những giới hạn của việc rút quân khỏi cuộc chiến, nhưng cũng đă t́m cách giúp cho việc ổn định một chính quyền và củng cố quân đội Nam Việt Nam mà vào năm 1972 đă có thể, với viện trợ của Hoa Kỳ, đánh bại một cuộc xâm lăng toàn bộ từ miền Bắc. Nhưng những thành quả này đă bị lâm nguy với bản hiệp định Ba Lê 1973, và cuối cùng với vụ Watergate dẫn đến việc từ chức của Nixon th́ quân đội đó coi như suy thoái. Nam Việt Nam đă bị bỏ rơi để đương đầu với kẻ thù mà không có bạn giúp.


Tôi tin là đă có những cơ hội để bảo vệ một chính quyền không cộng sản ở Sài G̣n ngay cả sau năm 1968, nhưng khả năng đó bị buộc chặt với sự lănh đạo của Nixon, mà khi không c̣n Nixon th́ không ai can đảm để thấy một lời hứa cũ được tôn trọng.

Tôi tin rằng Kennedy đă có những quyết định sai lầm về Việt Nam v́ ông không quan tâm đến vấn đề nhiều lắm và Johnson cũng sai lầm v́ không xem đó là những ưu tiên cao. Kennedy hầu như chỉ định việc làm chính sách Việt Nam cho cấp dưới, những người có những mục đích trái ngược nhau hay đơn thuần chỉ là những ngườI không có suy nghĩ sâu xa. Johnson đă dành nhiều thời giờ cho chính sách đối nội và đă có những quyết định về Việt Nam với cung cách như ông đă thực hiện tốt khi làm việc với quốc hội: nịnh hót và dẹp qua những dị biệt. Cả hai đă không dành thời giờ để lượng định chính sách ở Việt Nam với những quan tâm cần có, v́ những hao tốn xương máu và tài chánh do chính sách tạo nên. Thiếu lănh đạo sáng suốt và quan tâm, nên những quyết định sai lầm đă chồng chất. Không có chuyện quan trọng hay không để tránh né những chính sách này, trừ khi chúng ta muốn tranh luận rằng màn sương tư duy nên được xem là một thành tố quan trọng của chính phủ Kennedy và Johnson. Một số người tranh luận là loại sương mù tư duy này, đơn giản chính là những dấu chỉ Việt Nam không thật quan trọng để lănh đạo Hoa Kỳ dành mọi quan tâm và điều này cũng nói lên một điều là chính sách nào rồi cũng thất bại. Để trả lời cho luận điểm này, có thể nói, thứ nhất là Việt Nam quả là quan trọng để nhiều tổng thống phải gửi hàng ngàn thanh niên Mỹ vào cơi chết ở những chiến trường xa xôi với sự ủng hộ nhiệt t́nh của dư luận quần chúng và quốc hội; thứ nh́, việc chính sách đó được thực hiện kém rơ ràng là một sự phán xét dựa trên phẩm chất lănh đạo chứ không phải nhắm vào chính sách.


Tôi bắt đầu dạy một lớp ở đại học về cuộc chiến Mỹ-Việt từ cuối thập kỷ 1990, bởi ư thức trách nhiệm công dân c̣n vương vấn (giới trẻ nên có hiểu biết về cuộc chiến này) và từ một tư duy vị kỷ cần làm để cho tâm hồn được yên ổn. Buộc ḿnh nói về cuộc chiến là một trải nghiệm vượt khỏi những giới hạn khi tôi bắt đầu t́m thấy tiếng nói của chính ḿnh trong những đống sách vở chất chồng viết về cuộc chiến. Nhiều cuốn kể lể theo một tiêu chuẩn sáo ngữ, dựa trên những nguyên lư tôi đă dẫn ở phần đầu bài này, mà tôi cảm thấy không được thỏa măn.


Nhiều đề mục quan trọng bị gạt ra, đặc biệt là những khát vọng, những kế hoạch, hành động của người Việt đă chiến đấu với hy vọng xây dựng một nền dân chủ trên đất nước họ.

Tại một hội nghị vào khoảng thời gian đó, tôi gặp một người Việt, ông phục vụ trong nhiều chính phủ Sài G̣n từ cuối thập kỷ 1950 đến đầu thập kỷ 1970, sau đó bị bỏ tù nhiều năm, trước khi di cư đến Hoa Kỳ. Tôi muốn hỏi ông nhiều điều, nhưng ông nh́n tôi đầy ngờ vực và xin phép cho được hỏi tôi một câu hỏi trước. Ông hỏi: "Ông có nghĩ là trong cuộc chiến đó, chúng ta có chính nghĩa?" Tôi ngạc nhiên với câu hỏi bất ngờ đó, nhưng từ đáy ḷng phát ra câu trả lời làm ngạc nhiên cả chính tôi: "Đúng, tôi nghĩ thế". Nghe tôi trả lời, thái độ của ông thay đổi hẳn và trở nên tin tưởng, cởi mở hơn. Ông giải thích rằng bằng trải nghiệm bản thân, hầu hết những nhà nghiên cứu Mỹ không trân trọng ông bởi v́ họ cho rằng ông đă chọn đứng về phiá sai lầm của cuộc chiến. Thực ra tội của ông ấy chỉ là kỳ vọng vào một nền dân chủ cho đất nước và đă tin vào Hoa Kỳ.


Trong hai thập kỷ, tôi không muốn xem ḿnh là một cựu chiến binh Việt Nam. Tôi muốn ḍng đời tiếp tục trôi và không muốn bị gắn liền với chuyện buồn đó. Tôi không thích đài tưởng niệm chiến binh của cuộc chiến Việt Nam ở thủ đô Washington với tên của những người đă chết khắc trên tường đá. Đó là đài tưởng niệm những cái chết, mà tôi là một người sống sót và bức tường đó không can hệ ǵ đến tôi.


Rồi một buổi chiều hoàng hôn gần tắt, trong một nghi thức đơn giản ở xa thủ đô Washington, tôi co ro trong một căn lều để tránh gió lạnh trong khi mấy bạn trẻ đang cùng xướng tên người chết bên những ngọn nến lấp lánh tỏa sáng lên mặt và lều vải. Lắng nghe những giọng đọc từng tên người quyện vào nhau, theo ḍng chảy của âm thanh, tôi không khóc, nhưng một cái ǵ đó chuyển động trong tôi và tôi cảm thấy một sự thoát ra và tôi biết là tôi đang ở chỗ của chính ḿnh, tôi đang đem lại danh dự cho những người đă chết.


Đó là một đổi thay trong cách nh́n tri thức và cũng là một trải nghiệm đầy thỏa măn xúc cảm để rồi tôi vất bỏ đi những ảo tưởng tội lỗi về cuộc chiến mà tôi đă mang trong ḿnh từ một phần tư thế kỷ qua. Làm thế đă cho tôi học lại bài học về những giá trị từ ngày c̣n trẻ, để trân quư những hy sinh của người Việt, những người đă trở thành đồng bào của ḿnh, và để dạy về cuộc chiến với những hăng say mới.


Hiện đang có một mốt thời thượng trong giới đồng nghiệp hàn lâm là dán nhăn cho Hoa Kỳ như một quyền lực phát-xít và đế quốc. Giờ tôi không sợ bị nguy hiểm doạ nạt bởi những lập luận vô cớ như thế. Các bạn hăy nh́n quanh thế giới xem, có sự lựa chọn nào khác hơn cho những thực hành dân chủ được đề cao, tuy chưa hoàn hảo, bởi Hoa Kỳ ngày nay. Tôi không thấy có những chọn lựa khác.


Sự thực, vieäc Hoa Kỳ sử dụng quyền lực toàn cầu quá nhiều không phải là chỉ dấu của một điều sai trái, trừ khi người ta chọn đứng về phiá của những quyền lực trên thề giới đang phô trương sự chuyên chế tàn bạo đằng sau bộ mặt bên ngoài của những sự trù dập.

Tôi đă nhận thức được rằng, bây giờ là lúc phải lên tiếng. Tuổi trẻ của đất nước này đáng được dạy những điều tốt đẹp hơn ḷng hoài nghi và thù hận trước những ǵ đang c̣n là hi vọng tốt nhất cho nhân loại.


T
ác giả Keith W. Taylor là Giáo sư Đại Học Cornell, Hoa Kỳ


© 2005 talawas

Nguồn: “How I Began to Teach about the Vietnam War”. Keith W. Taylor. Cornell University. Michigan Quarterly Review. Ann Arbor: Fall 2004

 

trở lại