[2] Tác giả: Phan Nhật Nam (trích
tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, xuất
bản tại Saigon năm 1972/73) CHARLIE, TÊN NGHE
QUÁ LẠ Quả tình nếu không có
trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng
chẳng ai biết đến Charlie, vì đây
chỉ là tên quân sự dùng để gọi
một cao độ nằm trong chuỗi cao độ
chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, "Cải Cách," hay
"C," đỉnh núi cao không quá 900 thước
trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường
14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười
hai cây số đường chim bay, đông-nam là
Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.
Charlie bị bao vây bởi Căn Cứ 5, Căn
Cứ 6 ở phía bắc, những mục tiêu quân
sự nổi tiếng, những vị trí then
chốt giữ cửa ngõ vào Tân Cảnh mà bao nhiêu
năm qua, bao nhiêu mùa hè, mùa mưa rào, báo chí
hằng ngày trong và ngoài nước phải nhắc
tới khi những hạt mưa đầu mùa rơi
xuống vùng núi non, cạnh sườn cực tây
địa giới nước Nam. Năm nay, sau bao nhiêu lần
thử thách từ mùa mưa 1971 qua đầu xuân
1972, Bắc quân vẫn không vượt qua được
cửa ngõ hai căn cứ số 5, số 6, thế nên
cộng quân đổi hướng tiến, lòn sâu
xuống phía nam hai căn cứ trên để
tiếp tục sự nghiệp "giải phóng"
với mục tiêu cố định: Tân Cảnh,
cắt Đường 14. Vòng đai Lữ Đoàn 2
Nhảy Dù nằm về phía trái quốc lộ có hình
cánh cung bắt đầu bởi căn cứ Anh Dũng
ở cực bắc đến Yankee (hay Yên Thế,)
ngã lần xuống nam với Charlie, Delta, Hotel, Metro và
chót hết là Bắc Ninh, phía đông Võ Định,
nơi đặt bộ chỉ huy lữ đoàn. Vòng
đai này có nhiệm vụ che chở phía trái
đường 14, phát hiện sự di chuyển
từ đông sang tây của địch xong dùng phi
pháo để tiêu diệt. Đây là lý thuyết
chiến thuật, quan niệm hành quân của phía
Cộng Hòa đối với mục tiêu và hướng
tiến của phía Cộng Sản hằng bao nhiêu năm.
Nay bộ đội Bắc Việt thay đổi
đường đi và quân đội Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) lập các vòng đai Nhảy Dù như
Yankee, Charlie, Delta bắt đầu được
đặt tên để tiếp nhận định
mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Đoạn sau kể về trận đánh ở
Charlie, trận đánh nhỏ của một tiểu
đoàn Nhảy Ðù, nhưng điển hình cho toàn
thể bi hùng cực độ về người Lính
Chiến Việt Nam. ÐẾN ÐÂY
NGƯỜI GẶP NGƯỜI Đường mòn Hồ Chí
Minh (HCM) trên đất Lào khi chạy đến vùng
Tam-Biên phía đông cao nguyên Boloven chia ra hai nhánh. Nhánh
thứ nhất từ Chavane đâm thẳng biên
giới Lào-Việt xuyên qua dãy Chu Mon Ray để
nhắm vào Darkto. Nhánh thứ hai từ Bản Tasseng
qua trại Lệ Khánh, và Kontum là mục tiêu
cuối cùng của quan niệm chiến thuật
Bắc quân: Phải chiếm giữ thị trấn
cực bắc này để làm bàn đạp
lần tấn công Pleiku, rồi từ đây
tiến về phía đông, xuống bình nguyên
tỉnh Bình Định. Gọi nhánh thứ nhất là nhánh
Bắc và nhánh thứ nhì là nhánh Nam. Trong chiến
dịch Xuân-Hè 72 của Mặt Trận B3 (chiến
trường Tây Nguyên), đường rẽ phía
Bắc được sử dụng, từ đỉnh
1773 của núi Chu Mon Ray, con đường không
thể gọi là một nhánh nhỏ của "đường
mòn Hồ Chí Minh" nữa, nhưng phải gọi
đó là một "bypass" của một cải
lộ tuyến phẳng phiu trơn láng, chạy
ngoằn ngoèo qua các cao độ, đổ xuống
những thung lũng hun hút của dãy Big Mama Mountain
rồi bò theo hướng đông đến đỉnh
Kngok Kon Kring. Đỉnh núi này cao quá, con đường
phải quẹo qua trái, đi lên cao độ 960 và
tạm dừng lại. Dừng lại, vì phía đông,
hướng trước mặt chỉ cách mười
cây số, con sông Pô-Kơ dậy sóng. Con sông ầm
đổ qua ghè đá, ào ào đi giữa rừng
xanh núi đỏ. Bên kia sông, Quốc Lộ 14
chỉ khoảng trên dưới sáu cây số và
đầu con đường là Tân Cảnh, mục
tiêu của bao chiến dịch.Từ ngày chiến
tranh "giải phóng" bùng nổ. Đây rồi, "...nồi cơm
điện National" đây! Tân Cảnh hấp
dẫn ngon lành như cô gái yếu đuối
hớ hênh thụ động nằm dưới thung
lũng bát ngát ở đằng kia. Bộ đội ta tiến lên. Nhưng không được
nữa, con đường đã bị dừng
lại, và bộ đội ta dù được
"tùng thiết," dù được đại
pháo "dọn đường" cũng phải
dừng lại, vì đỉnh 960 chính là bãi đáp
C, là cứ điểm Charlie và Tiểu Đoàn 11
Nhảy Dù đã xuống LZ (landing zone, tức bãi
đáp trực thăng, hoặc khoảng đất
trống dùng để đổ quân từ trực
thăng) này từ ngày 2 tháng 4/1972. Con cháu Bác và
Đảng phải ngừng lại bố trí
trận địa. Nỗ lực kinh khiếp kéo dài
trên năm mươi cây số đường núi,
từ ngã rẽ đất Lào phải dừng
lại vì chạm phải "sức người."
Ở đây, người đã gặp nhau. Vực thấp, đỉnh cao,
bạt núi, xẻ đèo, những con người
cuồng tín và tội nghiệp của miền
Bắc đã làm được tất cả. Con
đường núi của Tướng Stiwelle từ
Miến Điện đến Trùng Khánh, Trung
Quốc năm 1945 đã là một sự khủng
khiếp. Đường xuyên sơn vạn dậm,
dài thật dài, quanh co khúc khuỷu lớp lớp
giữa núi rừng nhiệt đới, con đường
nổi tiếng đúng như tầm vóc và giá
trị của nó. Cả nước Tàu sống bám vào
cái ống cứu nguy thậm thượt hun hút này.
Vào thời điểm đầu
thế chiến, nước Tàu, đồng minh
"tuyệt vời cần thiết" của người
Mỹ dễ thương cần phải sống
để chống đỡ trục Bá Linh-Đông
Kinh. Con đường quả đáng tiền và
đáng sợ. Nhưng đường này làm
bằng máy, dưới sự yểm trợ và che
chở của các "Ong Biển" hảo
hạng, những người lính công binh chiến
đấu hãnh diện của Mỹ quốc giàu sang
hùng mạnh. Năm mươi cây số đường
xuyên sơn của "bộ đội ta" thì khác
hẳn. Bộ đội đào bằng tay trong đêm
tối. Bộ đội lấp hố dưới
tấm lưới lửa thép của B-52, trên
những giải thảm tử thần dầy
lềnh bom-bi CBU (cluster bomb unit). Sức người và
lòng cuồng tín ghê gớm đã vượt qua
giới hạn. Đấy không còn là người
với thịt da biết mệt mỏi đau đớn,
cũng không là người với trí óc biết nguy
biến và sợ hãi. Bắc quân, khối người
vô tri tội nghiệp chìm đắm trong ảo tưởng
và gian nguy triền miên. Con đường sạn
đạo vào đất Ba Thục tân thời
được hoàn thành từng phân từng thước.
Bắc quân theo đó đi về Đông. Nhưng đến đây, ở
cao độ 960, người lính Bắc Việt không
tiến được nữa vì đã gặp
"người." Người rất bình thường
và giản dị. Người biết lo âu, sợ
nguy biến. Người có ước mơ và ham
muốn vụn vặt. Những người không
thần thánh hóa lãnh tụ và tin tưởng Thiên Chúa
cũng chỉ là bạn tâm tình. Nhưng đó cũng
là những người lính đánh giặc
"tới" nhất của Quân Lực Miền
Nam, chỉ huy bởi những sĩ quan miệt mài trên
dưới mười năm trận địa.
Những sĩ quan biết đánh hơi rất chính
xác khả năng và ý định của đối
phương. Bắc quân dừng lại giữa
đường, ảo tưởng bị công phá và
tan vỡ. Họ gặp lính Nhảy Dù Việt Nam.
|