NGÔN
NGỮ HUẾ và
DANH XƯNG TRONG
D̉NG HỌ QÚY TỘC |
Nguyễn
Quư Đại Người
Huế ảnh hưởng đời sống qua chín
đời Chúa, muời ba đời Vua . Trước
năm 1975 người miền Nam gọi Huế là
cái rốn Văn hoá, Tuy nhiên người
Huế dùng nhiều thổ ngữ và phát âm nghe khó
hiểu. Thí dụ như ông :ôn ; mẹ : mạ ;
cô :o , mụ ; bựa qua : hôm qua; bể mơ :
vỡ mồm; chộ :nh́n ; chi rứa , làm răng…
nhiều từ nghe thật xa lạ. Câu chuyện
thật chàng sinh viên xứ Quảng ra Huế học,
đến thăm gia đ́nh người bạn,
tới cổng nhà con chó chạy ra sủa, nhe hai hàm
răng nhọn muốn cắn, nhưng bà mẹ người
bạn, lên tiếng „con chó không răng mô, vô đi
„ hai hàm răng như vậy mà nói không có răng,
ai hiểu nỗi ? Thời
gian vừa qua, cựu giáo sư Vơ Văn Dật bút
hiệu Vơ Hương An, có gởi cho trang
khoahọc.net bài Tiếng
Huế Một Ngọai Ngữ ?
Giáo sư Vơ Văn Dật người Huế,
tốt nghiệp Đại học Sư Phạm và
cao học về ngành Sử. Những bài viết
của tác giả xuất hiện trên nhiều báo và
Đặc san ở hải ngoại. Mới đây,
trong Kỷ Yếu Hội Ngộ Phan Châu Trinh và
Hồng Đức 30 Năm Xa Xứ có đăng bài
Hai Thành Phố và Con Sông Xưa, viết về
mối tương quan giữa Hội An và Đà
Nẵng qua một con sông đă bị vùi lấp, là
sông Cổ C̣. Để chúng ta hiểu về
những danh từ nói trại đi hay thổ
ngữ, thổ âm của người Huế, từ
giới quư tộc cho tới giới b́nh dân, và cách
đặt tên lót của ḍng họ Nguyễn. chúng tôi
mở cuộc phỏng vấn ngắn với cựu
giáo sư Vơ Văn Dật, hy vọng có thể giúp
tôi cũng như nhiều độc giả hiểu
thêm về ngôn từ xứ Huế : NQĐ:
Kính chào Giáo sư Vơ Văn Dật Thưa
Gs. Ngôn ngữ Việt Nam nói chung và Huế nói riêng,
rất phong phú, tuy nhiên có một số thổ
ngữ khó hiểu nhưng các từ điển
tiếng Việt không giảng giải rơ ? xin Giáo sư
vui ḷng cho độc giả biết thêm một
số thổ ngữ, thổ âm ở Huế ? VVD
: Xin chào anh Nguyễn Quí Đại. Tôi
không dám nhận là biết nhiều để
giảng giải như anh nói đâu. Chỉ biết
chút chút thôi, biết tới mô, nói tới đó.
Phải công nhận Huế có nhiều thổ
âm, thổ ngữ rất đặc thù.
Điều này cọng thêm với giọng
Huế thuộc về một âm vực trọ trẹ
khó nghe đối với các miền khác của
đất nước, đă dẫn đến
hậu quả -- như người ta thường nói,
là tiếng Huế khó nghe khó hiểu.
Xin báo tin vui đến quí vị và anh Đại
rằng từ năm 2001, tại Nam California, Bs Bùi
Minh Đức đă cống hiến cho học
giới cuốn Từ điển Tiếng Huế,
dày 531 trang khổ lớn, biên sọan công phu, do nhà
Tâm An xuất bản. Như
thế, từ nay có thắc mắc chi về
tiếng Huế, đă có tác phẩm của Bs Bùi
Minh Đức sẵn sàng giải đáp.
Cuốn từ điển dày hơn 500 trang, nhưng
cũng chưa hẳn là đủ.
Điều đó cũng nói lên tính phong phú
trong ngôn ngữ của miền đất quê hương
em nghèo lắm ai ơi
(Phạm Duy) này. Nhân
anh yêu cầu tôi cho biết thêm một số thổ
ngữ Huế, tôi xin kể một vài chuyện cười
về tiếng Huế, do chính tôi kinh nghiệm. Người
Huế thường biến âm từ ô sang u, từ
ôi sang ui. Tôi có 7 năm
sống chung với anh em Quảng Nam Đà Nẵng trên
núi; v́ vậy, Huế và Quảng đôi lúc không
gặp nhau trên ngôn ngữ nếu không rời cái
vỏ địa phương của ḿnh.
Ngày 30 Tết, được lệnh phải
vệ sinh lán trại sạch sẽ để ăn
Tết. Sau
khi quét gom lá rụng thành một đống cao,
tôi chỉ đống lá và nói với anh bạn cùng
tóan,“ Sẵn sàng rồi đó, anh đút nó đi.“.
Ư tôi nói anh ta đốt đống rác đi, v́ tôi
biết anh có hộp quẹt.
Anh ta trợn mắt,“ Đút cái chi?
Anh biểu tôi đút cái đầu tôi vô đó
hả?“ Một lần khác, nhân giải thích
một điều ǵ đó mà anh bạn vẫn không
chịu thông cảm, tôi tức quá, la lên, „Nói
chuyện với anh chán quá, thà nói chuyện với
đầu gúi của tui c̣n hơn.“ Anh ta hỏi, „Đầu gúi là cái chi?“. Tôi đưa chân ra, chỉ cái đầu
gối -- mà có nơi ở Huế gọi là trốt
cúi -- th́ anh ta cười ngặt nghẽo, „Cái
đó mà gọi là đầu gúi th́ mụ nội
ai mà hiểu được.“
May mà tôi không dùng hai chữ trốt cúi.
Lại một lần thấy con rắn lăi
mập và dài ḅ ngang trước mặt, tôi la lên
„ Đưa cái đùi, đưa cái đùi cho tui!“
Ư tôi muốn nói anh bạn đưa giúp khúc cây
để tôi đập con rắn, một nguồn
thịt bỗ dưỡng lúc đó.
Nhưng dễ giận chưa, anh ta cười
ha hả, nói „ Anh cũng có hai cái đùi như tôi,
sao không dùng mà mượn đùi tôi làm chi?“
Tôi đớ người ra, chợt thấy cái
hố của ḿnh trong ngôn ngữ.
Theo tôi nghĩ, đó mới chỉ là khó
hiểu v́ lạ tai. Có
khi là những từ quen tai với miền khác, nhưng
người Huế dùng theo kiểu bóng gió th́
hiểu cũng mệt. Người
Huế, cũng như một số vùng khác, gọi
hạt là hột, ví dụ
hột lúa, hột mè, hột đậu,
hột trai. Hai bà già
cùng xóm nói chuyện với nhau như thế này: -
Nghe nói con
Chanh có người đi ngó rồi mà c̣n chưa
ưng. -
X́, bày đặt, có hột có hạt rồi mà
c̣n làm bộ. Không
ưng chừ th́ mai mốt đem lên tra mà cất. Đi
ngó hay đi ḍm, trong ngữ cảnh (context) này nên
hiểu là đánh tiếng, ngỏ ư.
Tra là chỗ cao và kín trong ngôi nhà rường
nhà dùng để cất lúa, các vật quí, các
vật ít dùng hay không dùng nhưng vất đi th́
tiếc. Trong mẫu đối thọai ngắn đó,
một bà nói rằng cô Chanh trong xóm có người
ngơ ư muốn cưới nhưng cô ta chưa
bằng ḷng. Bà kia
đáp lại rằng cô Chanh đó đă quá
lứa, quá tuổi xuân th́ rồi, không bằng ḷng
bây giờ, mai kia trở thành gái già th́ chỉ có nước
xếp xó mà thôi. Chỉ
có trái đă già th́ mới có hột.
Bà già kia dùng chữ hột theo lối ẩn
dụ, bóng bẩy. NQĐ : Thưa Giáo sư câu chuyện trên thật hấp dẫn, Quảng Nam và Huế cách nhau đèo Hải Vân mà chúng ta chưa hiểu nhau hết, huống ǵ ở xa. Từ năm 1970 tôi ra Huế học và dạy cho các con ông Vĩnh Quan nhà ở gần hồ Tịnh Tâm, thời gian đầu nghe các từ Mệ , Mụ và thổ âm khác không hiểu mô tê chi hết, nhiều năm sau mới có thể hiểu được. Thưa Giáo sư phát âm có ảnh hưởng theo nước uống, và món ăn? các vùng Truồi, Sịa, nói chung vùng ngoại ô Huế nghe giọng nói nặng hơn? phần lớn người Huế thích ăn cay xé miệng như bún ḅ, cơm hến ? VVD: Thưa anh Đại, tôi không nghĩ như thế. Các con tôi nói Huế rặt nhưng lại không thích ăn cay. Một cô con dâu của tôi không phải Huế mà ăn cay c̣n hơn tôi nữa. Người ta thường cho rằng giọng nói mỗi miền khác nhau là do phong thổ , do nguồn nước mỗi miền khác nhau. Quê tôi là thôn An Ninh, xă Hương Long, huyện Hương Trà, nơi có chùa Thiên Mụ và ḍng sông Bạch Yến chảy qua. Trong thôn có hai cái xóm nhỏ là Xóm Bàu và Xóm guốc nói với giọng khác các xóm khác. Cho đến nay, tôi thấy chưa có một giải thích hợp lư nào về nguyên nhân ảnh hưởng đến sự khác nhau về giọng nói của các miền cả. NQĐ:
Thưa giáo sư Nguyễn
Hoàng là người
khai sáng sự nghiệp chín đời Chúa ở
xứ Đàng trong, nhưng gia đ́nh chúa Tiên
phải chịu cảnh phân ly con cháu mang chữ lót
khác nhau như Nguyễn Thuận… Nguyễn Hựu..
và phần lớn là Nguyễn Phước….. Đến
đời vua Minh Mạng làm một bài Đế
hệ thi 20 chữ dành cho 20 đời
Miên
Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo
Qui ĐịnhLong Tường Hiền
Năng Kham Kế Thuật Thế
Thụy Quốc Công Gia Xương Và
thêm 10 bài Phiên hệ thi Bài
thi dưới dành cho con cháu Hoàng tữ Cảnh anh
cả của Minh Mạng Mỹ
Duệ Anh Cường Tráng Liên
Huy Phát Bội Hương Lệnh
Nghi TàmTốn Thuận Vị
Vọng Biểu Khôn Quang C̣n
thêm 9 bài nữa dành cho ḍng họ quư tộc. Thưa
Giáo sư có quốc gia nào vua chúa Tây Phương có
những ḍng họ “văn chương“ như Vua
Chúa Việt Nam ḿnh không ?
VVD:
Thưa anh Đại, rất tiếc là tôi không
biết có ḍng họ vua chúa nào ở Tây phương
mà cũng sính „văn chương“ như trường
hợp Nhà Nguyễn ḿnh không.
Nếu anh đặt câu hỏi này với nhà bút
khảo đàn anh Lê Văn Lân, tôi tin rằng chúng
ta sẽ có câu trả lời lư thú.
Theo tôi nghĩ, chắc chắn là có.
Ḍng họ nào, nhất là những ḍng họ quí
tộc, bao giờ cũng muốn tạo cho ḍng dơi ḿnh
một nét đặc sắc nào đó để phân
biệt với các ḍng họ khác.
Theo sự hiểu biết lơ mơ của tôi,
th́ ông Tây nào mà trong cái tên có mang thêm chữ de, ví
dụ Charles de Gaulle, cựu Tổng thống Pháp, hay
Jean le Lattre de Tassigny, một tướng lănh Pháp
từng tham chiến ở Việt Nam trước
1954, đều có nguồn gốc quí tộc cả. NQĐ
: Thưa Gs nhà bút khảo, bác sĩ Lê Văn Lân
gốc Hà Nội, trưởng thành ở Huế
học ĐH Y khoa Sài G̣n, hiện nay ở Austin Texas,
nếu có dịp tôi sẽ mời Bs Lân lên diễn
đàn. Thời gian qua tôi thường hỏi Bs Lân
về các từ Y khoa và Hán Văn. Thưa Gs. về
ḍng họ Tôn Thất có phải phát xuất
từ nguồn gốc hậu duệ của 9
đời Chúa cùng họ Nguyễn Phúc (Phước)
với vua Minh mạng được nhà vua đặt
là Tôn Thất . Con gái của Tôn Thất là Tôn
Nữ ? VVD:
Vâng, quả đúng như vậy. Tôn Thất cũng
thuộc về Ḥang tộc, là hậu duệ của
các chúa Nguyễn. Mỗi
vị chúa lập ra một chi nhánh gọi là Hệ. Cái
ǵ cũng vậy, ở mức độ nhỏ th́
đơn giản, nhưng khi đă phát triển thành
qui mô lớn th́
phức tạp. Lúc
đó, cần có sự tổ chưc hợp lư th́
mới nắm vững ṭan bộ cơ cấu.
Họ Nguyễn cũng thế.
Vua Minh Mạng là người nhận thức
được điều đó nên năm 1823 đă
ban hành những qui định nhằm hệ
thống hóa lại gịng họ để thứ
tự, kỷ cương đâu ra đấy. Theo
đó, không những vua đă đặt ra Ngự chế
Mạng danh Kim sách để đặt tên cho các ông
vua tương lai của Nhà Nguyễn, Ngự chế
Mạng danh thi để
đặt tên cho ḍng họ, Đế hệ thi và
Phiên hệ thi để đặt chữ lót làm
dấu hiệu nhận ra thế thứ anh em, trên dưới
-- như anh đă tŕnh bày qua hai bài thơ điển
h́nh vừa nói -- mà c̣n đưa ra qui định cơ
bản để phân biệt sự thân sơ,
gần xa trong ḍng họ.
Như
ta đă biết, năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Ḥang
mang bầu đ̣an thê tử, bà con ḍng họ và tướng
tá quân lính trung thành lên đường vào Nam
lập nghiệp mới. Như
vậy, cùng một gốc từ làng Gia Miêu
ngọai trang -- tức Quí hương -- huyện
Tống Sơn -- tức quí huyện -- ở Thanh Hóa,
có hai nhánh của ḍng Nguyễn phân ra từ đấy.
Vua Minh Mạng cho những người c̣n ở
lại quê nhà mang công tánh Nguyễn Hựu
và những người ra đi vào Nam mang
quốc tánh Tôn Thất Nguyễn Phước.
Về sau, để gọn nhẹ, người
ta chỉ c̣n dùng Nguyễn Hựu và Tôn Thất
để gọi mà thôi. Ở đây, cho tôi mở
một dấu ngoặc nhỏ:
họ Nguyễn nguyên là Nguyễn Văn, đến
Nguyễn Kim mới bỏ chữ Văn. Sau khi bà vợ chúa Tiên Nguyễn Ḥang trong
khi có thai chúa Săi nằm mộng thấy thần ban
cho chữ Phúc, th́ họ Nguyễn mới lấy chữ
đó làm chữ lót kể từ đời chúa Săi
Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) trở đi.
Giữa những người mang họ
Nguyễn Phước lại có một sự phân
biệt nữa: Hậu duệ của các chúa
Nguyễn thuộc các Hệ Chánh Tiền biên, đồng
lọat mang họ Tôn Thất Nguyễn Phước,
nhưng lâu ngày người ta lược đi hai chữ
Nguyễn Phước nên chỉ c̣n Tôn Thất mà thôi.
Hậu duệ của vua Gia Long thuộc Hệ Chánh
Chánh biên, nếu thuộc ḍng vua Minh Mạng th́ mang
chữ lót theo thứ tự trong Đế hệ thi
(Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh. . . ), c̣n
nếu thuộc ḍng các anh em ruột của vua th́
mang chữ lót trong Phiên hệ thi.
Về câu hỏi con gái của Tôn Thất có
phải là Tôn Nữ không, th́ xin thưa: đúng như
thế. Thực ra, theo qui định chính thức th́
phải gọi là Công Tôn nữ thị, nhưng lâu
ngày, người ta thấy dài ḍng quá, lại khác
họ của cha – Tôn thất – nên thu gọn
lại thành Tôn Nữ cho sát thực tế hơn. NQĐ
: thưa Giáo sư con gái vua gọi Công chúa (như Công
chúa Huyền Trân) nếu trở thành cô th́
được gọi là
„Thái trưởng Công chúa“, con gái của công
tử là „ Công Tôn nữ“ con cháu kế tiếp là
„ Công tằng tôn nữ „ xuống một bậc
nữa là „ Công huyền tôn nữ „ ; „Lai tôn“
ngày nay chỉ c̣n họ cuối cùng là Tôn
Nữ với nghiă là cháu gái ? VVD:
Thưa anh, vâng. Con gái
của vua gọi là Công chúa.
Không cần mang họ,
chỉ gọi, ví dụ, Công chúa Ngọc Tú, Công
chúa Ngọc Anh, v.v. là đủ.
Con gái của Ḥang tử, đời thứ
nhất (con) gọi là Công Nữ thị, đời
thứ hai (cháu) là Công Tôn Nữ thị, đời
thứ ba (chắt) là Công Huyền Tôn Nữ thị,
đời thứ tư (chút,chiu) là Công TằngTôn
Nữ thị. Tới
ngang đây th́ chế độ quân chủ sụp
đổ, kiểu cách như thế này không ai
hiểu mà theo nữa, việc lập hộ tịch
khó khăn v.v.nên người ta
không hẹn mà rút gọn lại thành Tôn
Nữ thôi.
Vâng, Tôn Nữ
nghĩa đen là cháu gái. NQĐ:
thưa Giáo sư như vậy quan đại
thần Tôn Thất Thuyết thuộc hệ thứ
mấy ? và có nhiều người cho biết ḍng
họ Tôn Thất có từ đời nhà Mạc ? như
vậy có đúng không ? VVD:
Mỗi người trong Ḥang tộc phải biết
ḿnh thuộc Hệ nào Pḥng nào, người ng̣ai khó
biết. Theo một tài liệu tôi đọc
được th́ quan đại thần Tôn Thất
Thuyết thuộc hệ 5 Tiền biên, là hệ do chúa
Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) khai sáng.
Chúa Hiền là người lúc đang c̣n
Thế tử, đă là một vị tướng tài,
chiến thắng hải quân Ḥa Lan năm 1643, trong
một trận thủy chiến ng̣ai khơi Quảng
Nam. Có lẽ do
thừa hưởng cái dũng lược này mà ông
Thuyết cũng là một dũng tướng.
Tôn Thất chỉ có nghĩa là người
thuộc về Ḥang tộc, thuộc về ḍng
họ đang trị v́. Sự thật, khi một người
Việt Nam mang họ Tôn Thất, có nghĩa rằng
người đó có họ là Nguyễn Phước,
nhưng thuộc ḍng các chúa Nguyễn đời trước
chứ không thuộc ḍng của vua Gia Long sáng
lập Nhà Nguyễn sau này. Chẳng qua lâu ngày người
ta quên mất nguyên ủy của sự việc nên
mới xem Tôn Thất là một họ, như các
họ khác. Nếu
đọc trong sử Việt Nam, thỉnh thỏang
ta sẽ bắt gặp những cụm từ như
Tôn thất nhà Lư, Tôn thất nhà Trần, Tôn
thất nhà Mạc, v.v. th́ điều đó có nghĩa
là những người
thuộc Ḥang tộc Nhà Lư, Nhà Trần, Nhà Mạc
chứ không ǵ khác. Bởi
các lẽ đó nên tôi không tin rằng ḍng họ Tôn
Thất có từ đời Nhà Mạc như anh
đă hỏi. Có
lẽ đây chỉ là sự hiểu lầm về
chữ nghĩa của người ta mà thôi. NQĐ:
Thưa giáo sư danh từ gọi là „Mệ“ có
phải dành riêng cho Hoàng tộc thí dụ như
gọi ông hoàng Bửu
Đảo là Mệ lúc chưa lên ngôi ? tôi có thể
gọi một người Tôn Thất là Mệ không
? VVD: Thưa anh, danh xưng Mệ có từ đời chúa Vơ Vương Nguyễn Phúc Khóat (1738-1765) v́ Vơ Vương sinh nhiều con trai nhưng khó nuôi, chết sớm, nên dùng cách gọi con gái để ma quỉ khỏi làm hại. Người xưa tin rằng con nít sinh ra, nhất là con trai, nếu xinh xắn mà lại mang tên hay, tên đẹp th́ dễ làm cho ma quỉ chú ư , ham thích, mà bắt đi. V́ vậy, phải chê xấu, phải dùng tên xấu để gọi ở nhà, c̣n tên chính thức chỉ dùng khi trưởng thành. Từ đó trở thành nề nếp, hễ con vua cháu chúa, trai, gái ǵ cũng gọi là Mệ hết. Ban đầu th́ người ta dùng chữ Mệ để gọi con của các ông hoàng bà chúa, và dùng chữ Mụ để gọi con của các Mệ, nhưng về sau th́ dễ dăi, muốn gọi Mụ hay Mệ đều được cả. Các ông Ḥang khi c̣n bé th́ người ta gọi bằng Mệ, ví dụ vua Bảo Đại là Mệ Vững. Nhưng một khi đă lớn, họăc đă được phong tước th́ phải gọi bằng tước hiệu. Do đó, tôi nghĩ, khi Ḥang tử Bửu Đảo, dù chưa làm vua, nhưng đă mang tước Phụng Hóa Công ở phủ Phụng Hóa, tức cung An Định sau này, th́ anh không thể gọi là Mệ Đảo được.
Theo kinh nghiệm của tôi th́ người ta chỉ
dùng Mệ hay Mụ để gọi những người
thuộc đế hệ.
Không ai dùng hai từ đó để gọi
những người thuộc phiên hệ (anh em vua
Minh Mạng) hay bàng hệ (các Tôn Thất). Tuy nhiên,
điều này không cấm chúng ta gọi đùa
một cách thân mật bạn bè Tôn Thất của
chúng ta v́ chẳng có luật lệ nào cấm đóan
cả. NQĐ:
Câu hỏi chót, dù Giáo sư muốn mai danh ẩn tích
khi định cư ở California, nhưng xin hỏi
thêm, Gs. từng là Giám học, và Quyền Hiệu trưởng
trường trung học Hàm Nghi Huế, sau đó
lại chuyển ngành làm Thanh tra Giám Sát Viện Vùng
I ở Đà
Nẵng. Trong
thời gian đó Gs. đă sinh hoạt trong Hội
Khuyến Học Đà Nẵng với ông Trần Gia
Thoại, thân phụ nhà văn Trần Gia Phụng, và
các nhà văn: Duy Lam, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du v.v.
Sau ngày 30.4.1975 Giáo sư bị tập trung cải
tạo ở trại Tiên lănh (Tiên phước,
tỉnh Quảng Nam) Giáo
sư định cư tại Hoa kỳ có phải
theo diện H.O ? Trong tương lai Giáo sư có
dự định xuất bản tác phẩm nào
để gíup thế hệ
con cháu mai sau, có cái nh́n thật tế về
lịch sử Việt Nam ? VVD:
Thưa anh Đại, vâng, HO là cái cầu
đưa gia đ́nh tôi định cư tại Hoa
Kỳ từ năm 1991. Tôi
thích viết về những đề tài thuộc
lịch sử và dân tộc học.
Hiện có một vài tập đă biên sọan
xong, chẳng hạn Lịch sử Đà Nẵng;
Huế của một thời; Vua Khải Định,
sự kiện và h́nh ảnh, hy vọng sẽ
xuất bản một ngày gần đây, gọi là
đóng góp một chút ǵ đó trong sinh họat văn
hóa hải ngọai và giúp ích phần nào cho thế
hê sau. NQĐ:
chân thành cảm ơn Giáo sư Vơ
Văn Dật đă dành th́ giờ trả
lời, giúp cho riêng tôi học hỏi thêm, và độc
giả biết về Ngôn ngữ sử dụng
ở Huế, cũng như danh xưng trong ḍng
họ quư tộc Huế. Kính chúc gia đ́nh Giáo sư
luôn b́nh anh và khoẻ mạnh Nguyễn Quư Đại
|