Ngô
Nhân Dụng
Đây là một bài học cho những người
cầm quyền ở Việt Nam: Đối
với giới lănh đạo Trung Quốc, cách
đối xử cứng rắn có hiệu
quả hơn là mềm mỏng. Chuyến đi
của ông Hồ Cẩm Đào sang Washington
kết thúc, ông Hồ chịu thua trên hai
mặt trận.
Về chính trị, ông Hồ thú nhận
với những lời lẽ nhún nhường,
rằng Trung Quốc c̣n phải cố gắng
thêm về nhân quyền.
Về mặt kinh tế, ông Barack Obama đem
lại cho các công ty Mỹ những hợp
đồng thương mại trị giá 45
tỷ đô la, sẽ tạo ra thêm 235,000 công
việc. Trong khi đó chính phủ Mỹ không
đưa ra một nhượng bộ nào
cả. Có thể nói, trận đá bóng
ngoại giao giữa Mỹ và Trung Quốc
suốt năm 2010 đă đưa tới
kết quả Mỹ 2, Trung Quốc 0.
Trong
lúc ông tổng thống Mỹ mang bộ
mặt cứng rắn, các đại biểu
Quốc Hội vẫn công khai đ̣i Trung
Quốc phải tăng hối suất đồng
nhân dân tệ, phải trả tự do cho ông Lưu
Hiểu Ba, phải tôn trọng tác quyền
của các hăng General Motors, Boeing, Microsoft hay các
nhà sản xuất phim bên Mỹ, cả một
bảng liệt kê những đ̣i hỏi
từ trước tới nay, không thay đổi.
Ông Hồ phải gặp riêng các lănh tụ
hai đảng ở Quốc Hội Mỹ, cho
thấy ông không muốn bị chất vấn
trước đám đông. Nhưng sự
kiện này cho thấy ông phải công nhận
tại nước Mỹ ông tổng thống
không có toàn quyền như vị chủ
tịch nước Trung Hoa. Nhất là khi
Hạ Viện Mỹ do một đảng đối
lập với Ṭa Bạch Ốc chiếm đa
số. Quốc gia nào thương thuyết
với Mỹ cũng phải biết như
vậy. V́ thế, ông Hồ Cẩm Đào đă
phải chịu nhún mặc dù trong suốt năm
ngoái đă bị Mỹ tấn công trên
nhiều mặt.
Từ
đầu năm 2010, chính phủ Mỹ đă
bắt đầu tấn công, trên cả hai
mặt ngoại giao và kinh tế. Trên các
diễn đàn quốc tế, ngay tại
Singapore và Hà Nội, các bộ trưởng
quốc pḥng và ngoại giao tuyên bố ủng
hộ lập trường các nước Đông
Nam Á trong các vấn đề tranh chấp
ở biển Đông. Bắc Kinh phản đối
ầm lên nhưng vẫn phải nhún. Họ
chịu tiếp ông Robert Gates mặc dù trước
đó năm ngoái đă cấm cửa ông v́
Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan. Khi Bắc Hàn gây
hấn với Nam Hàn, Mỹ đă đá trái
banh cho Trung Quốc phải lo giải quyết
với Kim Chính Nhật, trong khi vẫn củng
cố quan hệ quân sự với Nam Hàn. Bà
Hillary Clinton đă tuyên bố thẳng những
bất đồng ư kiến với Bắc Kinh,
về nhân quyền, về đồng nhân dân
tệ giá quá thấp, về cán cân thương
mại thiếu cân bằng, vân vân, ngay trước
khi ông Hồ tới Mỹ. Ít có một chính
phủ nào chuẩn bị tiếp một
quốc khách với thái độ cứng
rắn như vậy. Ngay trong các cuộc
gặp gỡ ở Ṭa Bạch Ốc, ông Obama
phản đối việc bỏ tù ông Lưu
Hiểu Ba, người mà bộ máy tuyên
truyền của Cộng Sản Trung Hoa bôi
xấu thậm tệ sau khi ông được
giải Nobel Ḥa B́nh. Ông Obama đă lấy ngay
khẩu hiệu “Xă hội hài ḥa” của ông
Hồ Cẩm Đào để dậy dỗ
rằng “Lịch sử cho thấy các xă
hội sống hài ḥa hơn, các quốc gia thành
công hơn, thế giới công bằng hơn
khi các quyền lợi và bổn phận
của tất cả mọi quốc gia và
mọi con người được tôn
trọng.” Một ông tổng thống trẻ,
của một quốc gia trẻ mới hơn
200 tuổi, đă “lên lớp” vị chủ
tịch một nước với hơn
một tỷ dân và 5,000 năm văn hiến;
đó là một hành động thách đố
rơ ràng.
Trên
mặt kinh tế, Bộ Tài Chánh Mỹ và các
đại biểu Quốc Hội cùng lên
tiếng yêu cầu Bắc Kinh phải nâng giá
đồng tiền của họ và chịu
để cho các công ty của họ nhập
cảng từ Mỹ nhiều hơn. Ngay trong lúc
tiếp ông Hồ Cẩm Đào, ông Obama cũng
than phiền chính phủ Bắc Kinh đă đem
tiền mua 200 tỷ đô la ra để
cố ư giữ giá đồng tiền của
họ thấp măi. Chính phủ Mỹ có
một thứ vũ khí để đe dọa
Bắc Kinh trong vấn đề này là dùng báo
cáo của Bộ Ngoại Giao cho Quốc
Hội, phê b́nh Bắc Kinh đă d́m giá đồng
tiền của họ một cách không ngay
thẳng. Khi nhận được báo cáo
đó, Quốc Hội Mỹ có thể làm
luật đặt ra những hàng rào ngăn
chặn bớt hàng nhập cảng từ Trung
Quốc.
Cuộc
tấn công của các ông Barack Obama, Robert Gates và
bà Hillary Clinton trong một năm qua đă có
kết quả. Ông Hồ Cẩm Đào xuống nước.
Ông chính thức thú nhận trong cuộc
họp báo chung rằng “Trung Quốc c̣n
phải hành động nhiều hơn trên
vấn đề nhân quyền!” Hai chữ
“nhân quyền” xưa nay vẫn là những
chữ cấm kỵ trong ngôn ngữ ngoại
giao của Bắc Kinh. Mỗi khi có ai đặt
vấn đề nhân quyền là họ
giẫy nẩy lên, lập tức lớn
tiếng phản đối, sẽ tố cáo người
ta đang can thiệp vào chuyện nội
bộ giữa chính phủ và người dân
trong nước họ. Nhưng lần này, chính
ông Hồ Cẩm Đào chịu thú nhận trong nước
Trung Hoa có vấn đề đó và chính
phủ của ông c̣n thiếu sót chưa làm
đủ. Và nói điều đó trước
công chúng, sau khi bị nhà báo đặt câu
hỏi lần thứ hai, và phải nhận
lỗi đă không trả lời trước v́
không được thông dịch!
Tại
sao ông Hồ Cẩm Đào chịu nhún nhường
như vậy? V́ những người lănh
đạo ở Trung Nam Hải biết rằng
nếu việc bang giao giữa hai nước căng
thẳng th́ Trung Quốc sẽ chịu
nhiều thiệt hại hơn so với Mỹ.
Từ 30 năm nay, từ khi ông Đặng
Tiểu B́nh đi thăm nước Mỹ
lần đầu, giới lănh đạo
ở Bắc Kinh vẫn đặt câu hỏi:
Giữa Mỹ và Trung Quốc ai cần ai hơn?
Thời 1979 khi ông Jimmy Carter tiếp ông Đặng
Tiểu B́nh, họ cho là Trung Quốc cần
Mỹ hơn, cán cân chênh lệch 70-30 nghiêng
về phía Mỹ. Trong những năm 2007 đến
2009, khi nước Mỹ rơi vào hai cuộc
khủng hoảng tài chánh và kinh tế, Bắc
Kinh cho là đă lập được thế cân
bằng, 50-50, hai bền đều cần đến
nhau. Nhưng thái độ nhún nhường
của ông Hồ Cẩm Đào trong chuyến
đi này cho thấy họ có thể thấy
họ cần Mỹ hơn là Mỹ cần
họ, mặc dù bên nào cũng có lợi
nếu hai nước giao hảo. Không những
chịu nhượng bộ công khai về
vấn đề nhân quyền, ông Hồ
Cẩm Đào c̣n nói rằng Trung Quốc và
Mỹ phải cộng tác với nhau trong các
vấn đề ở ṿng đai Thái B́nh Dương.
Trong đó, chắc chắn có vùng các quần
đảo ở Đông Nam Á! Trước đây
6 tháng, Bắc Kinh c̣n nạt nộ rằng
Mỹ là kẻ đứng ngoài, không
được phép chen chân vào “việc
nội bộ” giữa Trung Quốc và các
quốc gia trong vùng này!
Giới
lănh đạo ở Bắc Kinh biết rơ
thực lực của họ. Khi ông Gorbachev
chịu nhượng bộ Mỹ trong những
năm 1988, 89, chính ông ta biết rơ thực
lực của Liên Bang Xô Viết hơn tất
cả các cơ quan t́nh báo Tây phương.
Nền kinh tế Trung Quốc hiện nay đang
được “tiêm thuốc bổ” để
tiếp tục lớn lên với những món
tiền ngân hàng của nhà nước
đưa cho các xí nghiệp vay mà không cần
sinh lời. T́nh trạng đó không thể kéo
dài măi được. T́nh trạng chênh
lệch giàu nghèo giữa thành phố và nông thôn
cũng không thể kéo dài măi. Nạn lạm
phát đang đe dọa là hậu quả
của chính sách bơm tiền vào kinh tế mà
không gia tăng hiệu năng sản xuất;
lạm phát sẽ c̣n lên cao nữa, giống như
t́nh trạng ở Việt Nam hiện nay.
Nền kinh tế tăng trưởng một cách
giả tạo theo lối kinh tế chỉ huy có
thể sẽ vỡ ra nếu lạm phát
tiếp tục lên mà việc xuất cảng
bị đ́nh trệ. Trung Quốc c̣n may
mắn và giỏi hơn Cộng Sản
Việt Nam v́ cán cân thương mại
của họ vẫn thặng dư, nhưng
điều đó tùy thuộc vào việc
xuất cảng sang Mỹ và các nước Tây
phương khác. Âu Châu đang lo suy thoái chưa
có đường gỡ ra; chỉ c̣n khối
người tiêu thụ ở Mỹ có thể
tiếp tục mua hàng. Chính phủ Trung
Quốc biết phải bảo vệ thị trường
ngon lành này. Không phải chỉ có nền kinh
tế Trung Quốc cần việc giao thương
ổn định, mà chính vận mạng
của chế độ cũng tùy thuộc vào
đó. Người dân sẽ không thể
chịu đựng sống dưới một
chế độ độc tài măi khi lạm
phát làm cho đồng lương họ lănh
về mất giá trị.
Hơn
nữa, giới lănh đạo ở Trung Nam
Hải cũng biết sức tăng trưởng
của nền kinh tế sẽ “đụng
trần” khi việc bơm tiền vào như
chích thuốc bổ dần dần mất
hiệu lực. Kinh tế nước Trung Hoa
phải thay đổi cơ cấu nhiều hơn.
Đồng thời, phải cho người dân
được tự do lên tiếng và tham
dự vào công việc quốc gia nhiều hơn,
để những nỗi bất măn có con
đường bộc lộ và chuyển hóa,
thay v́ chờ ngày bùng nổ. V́ vậy,
gần đây ông Ôn Gia Bảo đă loan báo trước
công chúng rằng kinh tế nước ông không
thể tiến bộ nếu không cải
tổ chính trị. Khi ông Hồ Cẩm Đào nói
ông c̣n phải nỗ lực thêm về vấn
đề nhân quyền, đó là một sự
thật, đó là nhu cầu của hơn
một tỷ người Trung Hoa. Liệu
giới lănh đạo Bắc Kinh có thể
thực hiện được điều
đó không, hay là họ sẽ bị giới
bảo thủ trong đảng ngăn cản?
Chúng ta phải chờ tương lai mới
biết.
Nhưng
quả thật ông Hồ Cẩm Đào đă
chịu nhún. Cho nên đây cũng là một bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam. Trên mặt
ngoại giao, bài học đó là: Đối
với chính quyền Trung Quốc, mềm
mỏng sẽ bị họ khinh thường;
cứng rắn có hiệu quả tốt. Khi ông
Obama mới gặp đă nói thẳng với ông
Hồ Cẩm Đào về việc giam giữ Lưu
Hiểu Ba, đồng thời lại than
phiền về cán cân thương mại chênh
lệch; điều đó cũng chẳng khác
ǵ một người lănh đạo chính
quyền ở Hà Nội tố cáo thẳng
thừng việc các ngư dân Việt Nam
bị bắt cóc và cướp bóc, đồng
thời than phiền rằng hàng hóa Trung
Quốc đang tràn ngập giết chết các
xí nghiệp Việt Nam.
Chỉ
có điều là ông Obama dám nói. C̣n giới lănh
đạo Cộng Sản Việt Nam th́ không.
Barack Obama dám nói v́ địa vị tổng
thống của ông tùy thuộc lá phiếu
của dân Mỹ chứ không lệ thuộc vào
sự ủng hộ của chính quyền
Bắc Kinh. Những người cầm đầu
chính quyền Cộng Sản Việt Nam có dám
suy nghĩ như vậy hay không?
Barack
Obama dám nói, v́ ông có thể dùng mối đe
dọa của Quốc Hội, một định
chế có thế lực ngang hàng với ông.
Việc quốc gia không phải là độc
quyền của một chính phủ hay một
đảng. Quốc Hội Mỹ có quyền
cắt ngân sách khiến chính phủ không
thể thi hành các chính sách của ḿnh. Ông
tổng thống phải lắng nghe ư kiến
của dân, và các đại biểu Quốc
Hội cũng vậy. Khi tới Mỹ, ông
Hồ Cẩm Đào phải gặp cả ông
tổng thống lẫn các người lănh
đạo Quốc Hội. Không những
thế, ông c̣n gặp riêng các nhà kinh doanh,
những người điều khiển các xí
nghiệp, ít nhất hai lần chính thức.
Tại sao ông chịu nhún nhường như
vậy? V́ thể chế chính trị ở
Mỹ. Chính các ông tổng thống Mỹ
đă vận dụng sức mạnh của
thể chế đó mỗi khi phải thương
thuyết với các nước khác. Họ
sẽ nói: Tôi có thể nhượng bộ, nhưng
Quốc Hội họ sẽ không chịu! Báo
chí họ sẽ phê phán, giới kinh doanh không
theo! Nhượng bộ nào làm nước
Mỹ bị thiệt th́ dân sẽ biết
hết, tôi sẽ thất cử!
Kỹ
thuật thương thuyết này, những người
cầm đầu chính quyền ở Việt
Nam không thể nào sử dụng được.
V́ ai cũng biết họ nắm toàn quyền.
Quốc Hội chỉ biết gật đầu.
Báo chí chỉ chờ nghe lệnh nhà nước.
Dân không được phát biểu, cũng không
được tự do bầu, chọn người
cai trị.
Chỉ
khi nào nước Việt Nam được
tự do dân chủ th́ các chính quyền
Việt Nam mới có thế mạnh để
thương thuyết ngoại giao với
bất cứ quốc gia nào, trong đó có Trung
Quốc. Nghĩ đến tương lai đất
nước th́ chúng ta phải đ̣i dân
chủ hóa. Khi đó, người Việt Nam
mới đủ sức mạnh đương
đầu với Trung Quốc. Như Tiến Sĩ
Đinh Hoàng Thắng ở trong nước đă
nêu ra nhận xét của Tướng Lưu Á
Châu (Liu Yazhou), chính ủy Đại Học
Quốc Pḥng Trung Quốc: “Vị tướng
hai sao này chứng minh rằng nguyên nhân sụp
đổ của đảng Cộng Sản Xô
Viết chính là hệ thống chính trị,
chứ không là kinh tế, hay quân sự. Tương
phản với Liên Xô, bí quyết thành công
của Hoa Kỳ nằm ngay trong chế độ
pháp trị bền vững và hệ thống chính
trị đằng sau chế độ pháp
trị này, chứ không nằm trong sức
mạnh tại trung tâm tài chính phố Wall, hay
công nghệ cao ở thung lũng Silicon.” Người
Việt Nam phải lắng nghe kinh nghiệm này.
|
|