Hôm nay trong mailing list nhận được bài
viết của Trần Trung Đạo. Bài viết làm
cho tôi hồi tưởng lại những năm tháng
dưới mái trường Đại Học Luật
Khoa.
Tôi không phải là 1 sinh viên Luật Khoa thuần tuư mà
là một sĩ quan Hải quân thuộc Quân lực VNCH.
Sau 3 tháng Căn Bản Quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, 9 tháng thực tập ở
chiến hạm và 2 năm thụ huấn tại Trường
Sĩ quan Hải quân Nha Trang, tôi tốt nghiệp chương
tŕnh đào tạo Sĩ quan HQ VNCH với cấp
bậc HQ Thiếu uư. Khi tốt nghiệp, nhờ đậu điểm
cao (hạng 10 trên 279 Sĩ quan tốt nghiệp) nên tôi được ưu
tiên chọn chiến hạm LST, loại Dương
Vận Hạm thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm
Đội Hải Quân VNCH. Nhờ vậy tôi thường
có mặt ở Sài G̣n để theo đuổi
việc học Luật khi nào chiến hạm của tôi
không có công tác ở các nơi hay sau khi hoàn thành công
tác. Thư viện Quốc Gia ở đường Gia Long, thư viện Đắc
Lộ là những nơi tôi thường lui
tới học bài cùng với những bạn sinh viên
thuần tuư khác sau giờ làm việc ở chiến
hạm. Nhờ vậy, đến 30.4.1975 tôi đă
học xong chương tŕnh Ban Cử Nhân Luật Khoa, Ban
Công Pháp. Vào năm thứ 4 của Ban Cử nhân hoặc Cao học rất
có ít sinh viên. Sinh viên dễ nhận diện và quen biết nhau. Dễ
dàng mượn, trao đổi tài liệu, sách để học.
Truớc năm 1968, Ban Cu Nhân Luật Khoa chỉ có 3 năm học mà thôi.
Năm
1974 có văn thư của Bộ Tổng Tham Mưu QL
VNCH thông
báo cho biết nếu Sĩ quan nào có văn bằng Cử
nhân Luật hay Văn chương hoặc Cử nhân
Khoa học có thể nộp đơn xin đi du
học tại Mỹ để được đào
tạo MA (Master of Arts) hoặc MS (Master of Science) hoặc
cao hơn là PhD với thời gian 153 tuần lễ. Đó là
sự động viên tinh thần cho tôi vừa thi hành
nhiệm vụ trai thời chiến vừa tận dụng cơ hội đề tiến
thân và nhất là triển vọng góp phần xây
dựng đất nước trong thời b́nh. Tôi c̣n
nhớ đối với Sĩ quan Hải quân th́
sẽ được học tại thành phố Montrey,
sát biển Thái B́nh Dương, nằm ở phía Nam thành
phố San Jose khoảng 60 km, tại tiểu bang
California, USA. Lẽ tất nhiên, trước khi đi du học tại
Mỹ, phải trải qua cuộc khảo sát tŕnh độ
Anh Ngữ. Vể khả năng Anh ngữ, suốt trong thời gian đào
tạo Sĩ Quan Hải Quân ở Nha Trang, là một học viện Hải quân
(Naval Academy), mỗi sinh viên sĩ quan đều được giáo sư huấn
luyện viên Mỹ, Việt trực tiếp giảng dạy theo tiêu chuẩn
quốc tế, có pḥng thính thị Lab. Mỗi tuần lễ học 6 tiếng
đồng hồ. Điều nầy cho thấy chính quyền
VNCH đă có kế hoạch đào tạo nhân tài văn
vơ song toàn nhằm phát triển đất nước
thời hậu chiến sau Hiệp Định Paris
27.1.1973. Trên chiến hạm của tôi đă có một Sĩ quan
HQ xuất thân từ trường Vơ Bị Đà Lạt, văn bằng tốt
nghiệp trường SQ Vơ Bị được đánh giá tương đương bằng cử nhân Khoa
học, đă lên đường đi Mỹ du học vào tháng 3
năm 1975 sau 6 tháng chuẩn bị. Riêng cá nhân, tôi cũng
đang chuẩn bị cho chuyến du học nầy.
Rất tiếc điều mơ ước của tôi chưa
trở thành sự thật. Ngày 19.4.1975 chiến hạm tôi bị
bắn ở Phan Rang trong khi thi hành nhiệm vụ cứu trung tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi, QL VNCH và quân cán chính vừa bị thất thủ Phan
Rang vào ngày 16.4.1975. Trận chiến đă làm cho 4 sĩ quan và 2
nhân viên cơ hữu trên chiến hạm tử thương và
18 thuỷ thủ
bị thương. Chiến hạm tôi bi hư hại nặng và được vận
chuyển về Hải quân Công xưởng thuộc Bộ Tư Lệnh Hạm Đội HQ
VNCH vào ngày 25.4.1975 để sửa chửa th́ ngày 30.4.1975 vùng trời
ảm đạm ập đến.
Khi ra
hải ngoại năm 1980, tôi có biết một số giáo sư
Đại học Luật Khoa Sài G̣n may mắn thoát đi được
với những thời điểm và phương tiện khác nhau, đang
định cư và làm việc tại những quốc gia trên thế
giới. Một số GS th́ bị chết trong tù
cọng sản. Than ôi nhân tài VN đă bị mai
một. Tiếc quá. Trong một thể chế pháp trị, tam quyền
phân lập của một xă hội b́nh đẳng, dân chủ đa đảng đa
nguyên, vai tṛ của cơ quan Lập pháp, và Tư pháp rất quan trọng,
nhằm kiểm soát và kiềm chế mọi cơ chế điều hành quốc
gia của cơ quan Hành pháp nếu có sự lạm quyền.
Khi
định cư ở hải ngoại, tôi không
tiếp tục theo ngành Luật mà đă theo học ngành
điện tử và truyền thông. Ngành học nầy tương đối
dễ dàng cho tôi hơn v́ nhiều môn học liên quan tới
ngành điện kỹ nghệ và điện tử như toán, điện và điện
tử..th́ tôi đă được học phần nào ở trường Sĩ Quan Hải quân Nha trang.
Sau một thời gian theo học, tôi tốt nghiệp Đại
học với văn
bằng Kỹ sư (MS) tại Tây Đuc và làm việc cho đến
nay.
Đôi
lời xin gởi đến các bạn cựu sinh viên
Đại học Luật khoa Sài G̣n. Đối với những bạn đă
xếp bút nghiên ṭng quân nhập ngũ bảo vệ Tổ Quốc Việt
Nam, tôi luôn mến trọng. Mến chúc
các bạn luôn b́nh an.
KS
Nguyễn Văn
Phảy
Cựu sinh viên Đại Học Luật Khoa Sài G̣n, Ban Công Pháp

____________________________________________________________________________________________________________________________
Trần
Trung Đạo
Nhân dịp đọc bài viết của Hoàng Thanh Trúc
trên Dân Làm Báo và qua đó đọc thêm các bài
viết khác Không hổ thẹn về một
thời trai trẻ của một nhóm tác giả và
Cuộc họp mặt “có một không hai” của
Huỳnh Tấn Mẫm trên báo Tuổi Trẻ sau
buổi hội thảo “tầm vóc và ư nghĩa
của phong trào đấu tranh của sinh viên –
học sinh trí thức, văn nghệ sĩ… tại
các đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975”
được tổ chức tại Đại
học Duy Tân (Đà Nẵng) trong hai ngày 19 và
20-5-2012, tôi chợt nhớ lại một bài thơ tôi
viết từ lâu lắm cũng có nhắc đến
các anh chị này.
Bài thơ Đêm cuối đi qua trường
Luật viết ra trong những ngày mới đến
Mỹ nhưng bắt nguồn từ những ư
hiện lên trong một đêm mưa tháng Sáu 1981
ở Sài G̣n. Tôi không ghi lại ngày tháng viết bài
thơ nhưng có in trong tập thơ đầu tay
ở Mỹ năm 1991. Bài thơ khá dài, dưới
đây là một đoạn có liên quan đến bài
viết này:
Trời Sài G̣n tháng Sáu mưa đêm
Như từng nhát dao chém xuống đời
vội vă
Tôi ra đi dặn ḷng quên tất cả
Những hẹn thề toan tính thuở hoa niên
Bốn phương trời lưu lạc một
bầy chim
Đă lạc lối về sông Dương Tử
Tổ quốc Việt Nam
Bốn ngh́n năm lịch sử
C̣n lại hôm nay là những tang thương
Tôi nh́n qua bên góc kia đường
Tấm bảng Hội Liên Hiệp Sinh Viên
Vẫn c̣n đong đưa trên vách
Chợt nhớ ra tên các chị các anh
Những Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đ́nh
Ban
Những Nguyễn Hoàng Trúc, Vơ Như Lanh
Các anh, các chị
Giờ nầy chắc vẫn c̣n đang thức
Để viết xong bài tự kiểm trước
nhân dân
Nhớ viết thật nhiều về những
chiến công
Đă đốt bao nhiêu xe Mỹ Ngụy
Đă bán đứng bao nhiêu bè bạn anh em
Đă cắm được bao nhiêu cờ
mặt trận
Tôi không hề trách các anh
V́ chẳng bao giờ ai trách
Những tên cầm cờ, khiêng kiệu
Hăy cố cong lưng và thu ḿnh thật nhỏ
Hăy biết dại khờ và biết ngây ngô
“Độc lập, Ḥa B́nh, Thống Nhất,
Tự Do”
Phải nhớ luôn luôn là tất yếu
Kể cả chuyện t́nh yêu trai gái
Cũng phải học thuộc ḷng
Định nghĩa mới hôm nay
Đừng bao giờ nhắc những chuyện không
may
Như những Ủy Ban Đ̣i Quyền Sống
Những Phong Trào Dân Chủ Tự Do
Dân Việt Nam bây giờ
Không có ǵ đáng để lo
Hơn những chuyện cháo rau, khoai sắn
Và không có một chút quyền
Dù chỉ là quyền để than thân trách
phận.
Tôi từ Đà Nẵng vào Sài G̣n cuối tháng Tám
1972. Nơi tôi ghi danh học đầu tiên là trường
Luật. Có thể nói tôi là một trong những tân
sinh viên nộp đơn vào năm thứ nhất niên
khóa 1972-1973 trễ nhất. Ghi danh vào trường
Luật không cần phải thi, chỉ cần tŕnh
bằng tốt nghiệp Tú Tài phần hai là đủ.
Pḥng ghi danh là một khu nhà lụp sụp phía sau trường
chung một hàng rào với đại học Kiến
Trúc. Tôi được phát một thẻ sinh viên
tạm. Số sinh viên của tôi dài tới năm
số. Tôi không nhớ chính xác nhưng hai số
thứ tự đầu đă lên đến trên mười
ngàn. Trường Luật, được chính
thức thành lập dưới thời Đệ
nhất Cộng Ḥa, là một trong những trường
già nua về cả h́nh thức lẫn chiều dài
lịch sử, trong số các trường đại
học thuộc Viện Đại Học Sài G̣n. Trường
không có nhiều đất trống ngoại trừ
khoảng sân không mấy rộng giữa trường.
Cổng trường c̣n lại những viên ngói
đỏ rêu phong từ khi mới thành lập.
Giảng đường chỉ là những pḥng
học dài nối nhau. So với các trường trung
học như Gia Long, Petrus Kư, trường đại
học Luật Khoa Sài G̣n nhỏ hẹp và chật
chội hơn nhiều. V́ số thẻ sinh viên
của tôi cao trên mười ngàn nên có lần tôi
viết câu thơ mô tả trường Luật “mười
ngàn sinh viên trong giảng đường vài trăm
chỗ / học suốt năm không thấy mặt
thầy”.
Công việc đầu tiên của một tân sinh viên
sau khi ghi danh, nhận lớp, là đi mua “cua”
tức sách giáo khoa giảng dạy của các
thầy, từ dân luật, h́nh luật đến
cổ luật. V́ hiếm khi gặp mặt thầy,
không có “cua” là rớt. Sau khi ghi danh ở Luật,
tôi sang ghi danh Ban Kinh Tế khoa Khoa Học Xă Hội
ở đại học Vạn Hạnh. Khoa Khoa
Học Xă Hội ở Vạn Hạnh phải thi vào
nhưng cũng chỉ thi cho đúng thủ tục v́
tôi không nghe ai thi rớt vào khoa Khoa Học Xă Hội
ở đại học Vạn Hạnh bao giờ.
Trường Luật chật hẹp mà sinh viên
lại quá đông, chúng tôi thường la cà trong
những quán cốc. Nhiều nhất là chung quanh công
trường Quốc Tế, thường gọi là
Hồ Con Rùa, bên ngoài trụ sở “Tổng
Hội Sinh Viên” số 4 Duy Tân hay góc Thư
Viện Quốc Gia trên đường Gia Long. Các quán
cà phê thường không có tên. Ngoài quán cà phê Bà Vú
bên ngoài đại học Vạn Hạnh, phần
lớn các quán chung quanh trường Luật do sinh viên
tự đặt tên bằng địa điểm
để dễ hẹn nhau. Số sinh viên ghi danh vào
Luật cao nhưng bỏ trường ra đi
sớm rất đông và thi rớt cũng nhiều.
Trong số những người bỏ cuộc có tôi.
Tôi học cả hai trường và v́ kỳ thi
cuối khóa cùng ngày nên tôi không theo đuổi
việc học Luật hết năm thứ nhất.
Bạn bè tôi phần đông học Luật nên
mỗi tuần tôi đều trở lại trường.
Ở đó, dưới những gốc me, vỉa
phố, bên những ly cà phê đen, cà phê sữa, trên
những ghế thấp, cạnh những chiếc bàn
vuông, chúng tôi để cho những thao thức
về chiến tranh và số phận đất nước
có dịp tuôn trào. Tuổi đời c̣n rất
trẻ nhưng chiến tranh đă làm chúng tôi già
sớm hơn tuổi mười tám của ḿnh.
Khi sang Vạn
Hạnh tôi có dịp học với thầy Trần
Văn Tuyên môn Chính Trị Quốc Nội và
thầy Vũ Quốc Thông môn Luật
Hiến Pháp Đối Chiếu. Đây là hai môn
học tôi thích nhất. Luật Sư Trần Văn
Tuyên không mang theo sách vở hay tài liệu giảng
dạy ǵ và những bài giảng của thầy là
kinh nghiệm sống trong thời hoạt động
chính trị. V́ thầy dạy không theo giáo khoa nên
giảng đường lúc nào cũng đông. Sinh
viên phải có mặt để ghi lời thầy
giảng. Tôi thường t́m cách gần gũi
thầy Trần Văn Tuyên để hỏi
những chuyện đất nước trong giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1954.
Thầy Trần Văn Tuyên đơn giản, tóc
cắt cao và thường mặc áo sơ-mi trắng
ngắn tay. Thầy Vũ Quốc Thông th́ khác, lúc nào
cũng đường bệ, chuẩn bị kỹ
càng và luôn đến lớp với một cặp-táp
(le cartable) đầy tài liệu giảng dạy. Tôi
hay thắc mắc với thầy Vũ Quốc Thông
về cách dùng chữ. Ví dụ thầy dùng chữ
“Chủ nghĩa Tập Sản” thay cho
“Chủ nghĩa Cộng Sản”. Tôi
cho rằng khái niệm “Chủ nghĩa Tập
Sản” hay “Chủ nghĩa B́nh Sản” được
nhắc đến nhiều trước năm 1975,
chỉ là một phạm trù thuần kinh tế, nghĩa
hẹp nhiều so với chủ nghĩa Cộng
Sản vốn là cả một hệ thống
triết học giải thích toàn bộ đời
sống con người, xă hội và vũ trụ.
Thầy chăm chú lắng nghe ư kiến nhưng không
thay đổi cách gọi “tập sản” của
ḿnh. Thầy Vũ Quốc Thông dạy tận
tụy và trích dẫn nhiều từ các sách Pháp,
trong đó có cả Tuyển tập Marx-Engel. Thầy
chúng tôi, Giáo sư Trần Văn Tuyên chết
trong tù Cộng Sản năm 1976 và Giáo sư Vũ
Quốc Thông chết năm 1987, chỉ một
thời gian ngắn sau khi ra khỏi nhà tù. T́nh nghĩa
thầy tṛ ở miền Nam, dù tiểu học, trung
học hay cả đại học đều
thắm thiết, thân thương, đáng kính, đáng
yêu và đáng nhớ. Tôi cố gắng rất
nhiều nhưng không phải là người tự
học. Kiến thức của tôi là của các
thầy cô trao lại. Đứa sinh viên năm
thứ nhất ngày xưa không c̣n trẻ nữa nhưng
mỗi khi nghĩ đến các thầy cô tự nhiên
thấy ḿnh nhỏ lại thật nhiều.
Thời gian từ năm 1973 đến năm 1975 là
thời gian yên tỉnh. Chương tŕnh b́nh định
đại học khá thành công. Mùa hè năm 1973,
một nhóm sinh viên chúng tôi đại diện cho trường
tham dự trại hè sinh viên toàn quốc do Bộ Giáo
Dục và Thanh Niên tổ chức ở Trường
Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Đông sinh viên du
học cũng về tham dự trại. Dĩ nhiên không
có “lănh tụ sinh viên” đường phố nào.
Đó là những ngày vui nhất của mùa hè. Không
chỉ sinh viên Sài G̣n, Vạn Hạnh, Minh Đức
mà cả Huế, Cần Thơ, Đà Lạt và các
trường đại học tư mới thành
lập cũng cử phái đoàn tham dự. Buổi
tối chúng tôi quây quần trong sân cờ của trường
Thiếu Sinh Quân trao đổi kinh nghiệm học hành,
chuyện đất nước và hát nhạc Du Ca như
có lần tôi đă kể lại trong bài viết Khi
bài hát trở về.
Ngoại
trừ các nhóm chống chính phủ bốn mùa
của các bà
Ni Sư Khất Sĩ Huỳnh Liên, Phong Trào
Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống của bà Ngô Bá
Thành, năm 1973, các phong trào sinh viên tranh đấu
ở Sài G̣n do Cộng Sản tổ chức phần
lớn đă được dập tắt.
Các “lănh tụ sinh viên học sinh” mặt
nổi như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh
Đ́nh Ban, Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Vơ Như
Lanh, Nguyễn Xuân Lập v.v. đă
bị kết án và vừa được trao trả
tù binh.
Nhắc
đến chuyện trao trả tù binh không thể quên
tác phẩm Tù Binh và Ḥa B́nh của nhà văn Phan
Nhật Nam, trong đó anh dành trọn một
chương để viết về những người
mà anh gọi là “Những
người lỡ làng”.
Hôm đó, buổi chiều ngày 27-3-1973, những
“lănh tụ sinh viên” sắp được trao
trả về phía Cộng Sản đang tụm nhau
ngồi trong một chiếc lều để chờ
được nhận. Những bài hát của Phạm
Thế Mỹ, Trịnh Công Sơn
được cất lên từ chiếc lều
nhỏ. Họ gồm Vơ như Lanh, Trịnh đ́nh
Ban, Cao thị quế Hương, Trần thị Lan,
Trần thị Huệ, Nguyễn thành Công.
Không ai biết họ hát để nung cao khí thế
hay hát để che đi sự lo âu trước tương
lai mờ mịt núi rừng đang chờ đợi
họ. Trong quan điểm đấu tranh giai cấp,
dù các anh chị là đảng viên Cộng Sản cũng
chỉ là đảng viên thành phố, gốc
tiểu tư sản, vừa gia nhập và không
được tin tưởng hoàn toàn. Nhà văn
Phan Nhật Nam tả cảnh anh Nguyễn
Thành Công
khi tiếp xúc với viên Đại Tá Hungary trong “đôi
mắt có vẻ lạc thần, giọng nói đă
đượm màu mệt mỏi”.
Anh Phan Nhật Nam viết đoạn đó thật
cảm động. Anh không giận hay trách móc
những tù binh gốc sinh viên anh sắp sửa trao
trả mà cảm thông cho sự bồng bột
tuổi trẻ của họ nhiều hơn:
“Phải,
tôi hiểu rằng nhóm sinh viên đang ngồi ở
dưới tàn cây cao su, đang gảy nên những
âm thanh trầm lắng với tiếng hát nhiệt
thành trong sáng kia quả t́nh không thể nào là
những người cộng sản được.
Họ không thể nào là những người
cộng sản chuyên chính, dù cho họ đă vào khu
học tập, dù đă là cán bộ nội thành làm
nhiệm vụ sinh viên vận theo đường
lối và kỹ thuật đấu tranh phát xuất
từ Cục R, kiểm soát và điều hành
bởi ủy viên thanh niên thuộc thành ủy Sài G̣n-Chợ
Lớn. Họ cũng không phải là cộng sản
dù có chứng minh thư xác nhận là thành viên
của đảng lao động, hoặc thành viên
của đoàn thanh niên trong mặt trận giải
phóng…V́ tiếng hát, điệu đàn, nét mặt
và lời nói tất cả vẫn là phản ảnh
của một hoài băo, hoài băo bất diệt
của tuổi trẻ. Muốn thoát khỏi hoàn
cảnh bít bùng của đời sống hiện
tại, đấu tranh và xây dựng một quê hương
rạng rỡ tốt đẹp hơn. Và chính phát
xuất từ ư định đẹp đẽ mơ
tưởng này, hoài băo của họ đă được
đồng hóa với mục tiêu chiến thuật
đoản kỳ của cộng sản.
Và họ trở thành loại cán bộ tiền phong
đắc lực thực hiện những mục tiêu
hạn chế trong đường phố Sài G̣n, nơi
Giảng Đường, trong ḷng cộng đồng
tuổi trẻ Việt Nam.”
Trong bài viết
Những người đi t́m tổ quốc trên
talawas năm 2006, tôi cũng viết về các anh
chị đó:
“Thời sôi nổi trong giảng đường
đại học, trên đường phố Sài G̣n
đă là dĩ văng, giữa rừng cao su Lộc Ninh
họ là những thanh niên thành phố đang bước
vào một cuộc đời mới ở một nơi
hoàn toàn xa lạ. Như những con cá bị vớt
khỏi sông và bỏ vào trong chậu, ngơ ngác,
rụt rè, sợ hăi. Họ không c̣n là bè bạn
của nhau, không c̣n gọi nhau bằng tên, bằng
thứ mà sẽ là đồng chí. Đồng chí cũng
đồng nghĩa với nghi ngờ, kiếm soát và
ḍ xét lẫn nhau. Họ hối hận không? Họ
thật sự có phải là Cộng sản không?
Họ có phân biệt được, dù chỉ là căn
bản, những điểm khác nhau giữa xă
hội mà họ vừa bỏ lại và xă hội mà
họ đang t́m đến không? Không ai hỏi và
họ cũng sẽ không trả lời thật
với ḷng. Có những tâm sự, sống giữ kín
chết mang theo, chứ không bao giờ chia sẻ
với ai. Hồi xưa tôi cũng có cái nh́n
khắt khe về những người bỏ đi.
Các
anh có quyền biểu t́nh, có quyền chống độc
tài, chống tham nhũng, chống độc diễn
nhưng khi bỏ đi sang hàng ngũ của
những người ném lựu đạn vào quán
ăn, pháo kích vào trường học, đặt ḿn
trên quốc lộ, các anh đă phản bội
quyền sống trong hoà b́nh của nhân dân miền
Nam.
Giống như những đứa con lớn lên trong
một gia đ́nh nghèo, có bà mẹ bịnh tật,
có người cha say rượu hay đánh đập
con cái và c̣n một bầy em nhỏ dại. Thay v́
khuyên răn người cha, săn sóc người
mẹ, che chở cho đám em khờ, các
anh lại bỏ đi, và chẳng những đă
bỏ đi mà c̣n dắt kẻ gian về đốt
phá nhà ḿnh.”
Ngày
nay, các
tài liệu của Đảng đều xác nhận
hoạt động của các phong trào chống
đối chính quyền VNCH chẳng phải là
tự phát chống bất công, độc tài, độc
diễn ǵ mà đều được đặt dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Thành
Đoàn Thanh Niên Cộng Sản trực thuộc
Thành ủy Sài G̣n Gia Định nhắm vào
mục tiêu duy nhất là đánh sụp chế độ
Cộng Ḥa non trẻ ở miền Nam và áp đặt
chế độ Cộng Sản độc tài toàn
trị trên phạm vi cả nước. Tất
cả tổ chức, phong trào, tôn giáo, đoàn
thể đều được Đảng
khai thác, vận dụng một cách tinh vi để
phục vụ cho mục đích cuối cùng của
đảng Cộng Sản.
Những tên tuổi, h́nh ảnh được báo
chí đối lập và thân Cộng ở Sài G̣n
đánh bóng mà nhà văn Phan Nhật Nam nhắc đến
chỉ là những khuôn mặt đấu tranh công
khai trên đường phố Sài G̣n. Họ
không biết những đảng viên Cộng Sản
ṇng cốt thực sự điều khiển phong trào
từ bóng tối là ai.
Những
kẻ mài dao giết người thường
trốn kỹ trong rừng. Những kẻ trao
lựu đạn cho sinh viên để ném vào nhà hàng,
trường học, chợ búa thường giấu
mặt.
Họ
không gọi nhau bằng tên thật, bằng mày tao thân
t́nh trong quán cà phê bên ngoài khuôn viên đại
học Văn Khoa, Luật Khoa mà gọi bằng bí
danh, bằng thứ tự.
Những “anh ba”, “chị năm” đó bây
giờ đang sống trong những biệt thự
cao sang, có kẻ hầu người hạ và
những chàng sinh viên một thời bồng bột
nay chỉ là những “kẻ
lạ của hoàng hôn”
“lặng nghe những dư âm sâu lắng của quá
khứ đọng lại, rồi trôi theo những món
ăn với một vị đắng đắng”
như anh Hạ Đ́nh Nguyên, một trong những
“lănh tụ phong trào sinh viên” đă viết trong bài
Về một vị đắng sau buổi họp
mặt kỷ niệm “Phong trào Đấu tranh
của Thanh niên-Sinh viên-Học sinh Sài g̣n” năm
ngoái.
Khi tôi
vào năm thứ nhất, nhiều trong số anh
chị tham gia xuống đường vài năm trước
vẫn c̣n học năm thứ ba, thứ tư, và
qua họ tôi biết con số sinh viên tham gia biểu
t́nh không đông như báo chí thân Cộng mô tả
và cũng không mang tầm vóc “quốc tế”
chỉ với vài chàng thanh niên phản chiến
Mỹ như bài kư thổi phồng của anh
Huỳnh Tấn Mẫm. So với nhiều
chục ngàn sinh viên liên khoa thuộc đại
học Sài G̣n và các đại học tư tại
miềm Nam thời đó, vài trăm anh chị
bị xúi giục xuống đường chỉ là
con số nhỏ. Thành
thật mà nói, phần đông những sinh viên đi
biểu t́nh là những người nặng t́nh
cảm dành cho đất nước nhưng vô cùng
nông nỗi. Các anh chị bất măn trước
các bất công trong xă hội và phẩn uất khi nh́n
cảnh điêu tàn đổ nát do cuộc chiến
gây ra nhưng không nhận thức đúng nguyên nhân
sâu xa của thực trạng bi thảm đang
diễn ra trên đất nước và không đủ
trưởng thành để cân nhắc trước
một chọn lựa sinh tử của đời ḿnh.
Tuổi trẻ ở đâu cũng thế, nhiệt
t́nh, phản kháng, cương trực, vô tư, nhưng
như tôi có lần đă viết, tại
Việt Nam những đặc tính đó của
tuổi trẻ bị Đảng Cộng sản
lợi dụng tận cùng,
không
chỉ tiếng hát lời ca, mà c̣n cả thịt xương
và từng giọt máu.
Bài hát quen thuộc trong giới sinh viên trước
năm 1975 nói lên một mơ ước chân thành
của thế hệ trẻ “Rồi ḥa b́nh
sẽ đến, đến cho dân tộc Việt,
đôi bồ câu trắng rủ nhau về làng xưa…”,
nhưng
sau năm 1975, đàn bồ câu đă biến thành
bầy kiến gặm nhấm vết thương dân
tộc đang mưng mủ.
Tiếng
hát của các anh chị trên đường phố
được
thay bằng những
tiếng rên của những bà mẹ đang bán máu
ở các nhà thương.
Lời ca của các anh chị sau được
thay bằng
là tiếng khóc của em thơ trên các vùng kinh
tế mới. Đất nước ch́m đắm
trong độc tài và đói khát. Hàng triệu người
phải bỏ nước ra đi, chết trên
biển cả, chết dưới bàn tay hải
tặc.
Các
anh các chi, có thể không phải là thủ phạm
nhưng không thể phủ nhận
là
những người đă góp phần gây ra
những điêu tàn đổ nát hôm nay.
Xin
đừng im lặng nữa. Nếu không đủ
sức để hành động, hăy viết, hăy nói,
hăy kể lại cho các thế hệ trẻ
những bài học dù thất bại, những ước
mơ dù bị phản bội, những kinh nghiệm
dù được đổi bằng xương máu
của ḿnh. Là những người
có lương tâm, hôm
nay, không có ṭa án nào kết án các anh chị
nặng bằng ṭa án lương tâm của chính các
anh chị.
Là
những người vốn nặng t́nh cảm, hôm
nay, không có t́nh cảm nào cấu xé các anh chị
bằng t́nh cảm các anh chị đă từng dành
cho đất nước. Xă hội Việt Nam băng
hoại, trụy lạc, tha hóa ngày nay là chiếc gương,
các anh chị hăy soi vào đó để thấy
lại chính ḿnh.
Chế
độ dân chủ non trẻ mà các anh chị góp
phần đánh gục, đă quỵ xuống sáng ngày
30-4-1975 nhưng không chết.
Và
tại Việt Nam hôm nay, các gía trị dân chủ quư
giá đó không chỉ là của miền Nam thôi, không
chỉ là của Việt Nam Cộng Ḥa thôi mà đang
là tài sản, hành trang và mục tiêu chung của
cả dân tộc.
Dân chủ là khúc khải hoàn ca đang được
nhân loại cất vang trên mọi nơi của
quả địa cầu, từ Bắc Phi sang Đông
Á nhưng không có nghĩa chỉ mới bắt đầu
vài năm qua mà từ nhiều ngàn năm trước.
Có người bàn về dân chủ như một
mục đích đ̣i hỏi nhiều tiền đề
và điều kiện. Điều đó không đúng.
Dân chủ không phải là hải đảo xa xôi
phải cần ghe tàu, lương thực, thời
gian mới đạt tới nhưng là một
thực tế gần gũi trước mắt và
thậm chí có thể nắm bắt trong tay. Dân
chủ không phải món quà của ai ban cho khi đến
tuổi trưởng thành mà là quyền làm người
bắt đầu từ trong bụng mẹ.
Quốc
gia Mông Cổ, một quốc gia không có truyền
thống dân chủ, là một ví dụ. Nhiều người
cho Mông Cổ khó có thể trở thành một nước
dân chủ sau một giai đoạn phong kiến hàng
ngàn năm nối tiếp bằng một chế
độ Cộng Sản chuyên chính chư hầu Liên
Xô suốt hơn bảy chục năm. Khi tôi
viết bài này, nhân dân Mông Cổ đánh dấu tṛn
20 năm được sống dân chủ. Đôi cánh
thiên thần đó đă giúp đưa Mông Cổ
từ một quốc gia cô lập, bất ổn cùng
hạng với Afghanistan, Nigeria và Somalia trở thành
một trung tâm du lịch an toàn và đầy hấp
lực văn hóa. Hai mươi năm trước
đường phố thủ đô Ulaanbaatar gần
như hoang vắng nhưng ngày nay tấp nập và
phồn vinh. Theo tạp chí Economist, dù kinh tế
thế giới c̣n đầy khó khăn, mức phát
triển kinh tế của Mông Cổ trong ba tháng
giữa 2011 đă tăng 21% so với cùng thời
kỳ trong năm trước đó. Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế dự đoán kinh tế Mông
Cổ sẽ tăng trung b́nh 14% từ 2012 đến
2016. Là một quốc gia trong vị trí trái độn
với vỏn vẹn 2.5 triệu dân và không có
chiều dày truyền thống dân chủ như
nhiều quốc gia khác, Mông Cổ sẽ c̣n gặp
nhiều khó khăn nhưng cơ chế chính trị
mới giúp cho người dân sống yên tâm trong
tự do, thanh b́nh, no ấm và nỗ lực v́
một tương lai tươi đẹp cho con cháu
họ.
Việt
Nam th́ khác.
Sau
37 năm, tiếng súng đă vắng đi trên đất
nước Việt Nam, non sông liền một dải
nhưng
người
dân vẫn sống trong nỗi bất an lo sợ, hàng
trăm ngàn người con gái Việt phải
rời bỏ quê hương đi ăn mày, làm
điếm, ở đợ khắp thế giới,
phần lớn trong số hơn hai triệu người
Việt hải ngoại vẫn c̣n bị xem là “thành
phần phản động bám theo chân đế
quốc”, và trong nước, những quyền căn
bản như ngôn luận, đi lại, thờ
phụng của người dân vẫn chưa có
được, hàng ngàn người yêu nước
vẫn c̣n bị tù đày. Đó là sự thật,
không ai tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.
Sau
37 năm, mấy chục ngàn thân xác thanh niên làm bia
đở đạn cho đảng CSVN trong chiến
tranh biên giới năm 1979, hàng ngàn xác thanh niên
Việt Nam bị đốt cháy thành than trong
trận Lăo Sơn 1984, hàng trăm xác thanh niên
Việt ch́m sâu quanh bờ đảo Gạc Ma năm
1988, hàng trăm ngư dân Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Ngăi bị bắn thủng ngực, hai
quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thân yêu như
đôi mắt Việt Nam bị đă bị kim Trung
Quốc tẩm thuốc độc đâm sâu và
đang chảy máu. Đó là sự thật, không ai
tuyên truyền ai, không ai xúi giục ai.
Nh́n
những ǵ đang xảy ra trên thế giới đă
làm những người Việt đang quan tâm đến
vận mệnh đất nước không khỏi
cảm thấy thẹn thùng. Dù ban ngày vẫn
phải sống bằng thái độ tích cực,
trả lời phỏng vấn bằng ngôn ngữ
tự tin nhưng ban đêm thế nào cũng gác tay
lên trán âm thầm tự hỏi tại sao Liên Xô,
Đông Âu cho tới Bắc Phi, Miến Điện
nhưng viễn ảnh một Việt Nam tự do, dân
chủ, hùng mạnh vẫn c̣n là một mục tiêu
chưa đến. Nỗi lo lắng và niềm đau
xót này không phải của riêng ai mà của tất
cả người Việt Nam c̣n biết xót xa, c̣n
biết hổ thẹn trước sự lạc
hậu của Việt Nam so với đà tiến quá
nhanh của nhân loại.
Một câu hát trong bài Tự
Nguyện
quen thuộc trong giới sinh viên trước năm
1975 “nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa Hướng
Dương”, chưa bao giờ hơn lúc này
Việt Nam cần những người yêu nước
biết vươn cao, đứng thẳng như
những cành Hướng Dương Dân Tộc. Con
người đến và đi nhưng lịch
sử Việt Nam như ḍng sông không ngừng
chảy. Đất nước sẽ vượt qua
và lớn lên như đă từng vượt qua và
lớn lên sau ngàn năm Bắc Thuộc.
Trần Trung Đạo
Source : CaliToday on line ( 6/12/2012 )
http://www.baocalitoday.com/index.php?option=com_content&view=article&id=6339:
trn-trung-o-thi-sinh-vien-sai-gon-&catid=1:cng-ng&Itemid=49
|