Dịch
giả : Nguyễn Quốc Khải
Sử Gia Edward Carr nhận định: Trung
Quốc khẳng định rằng tăng cường
sức mạnh quân sự và ảnh hưởng
ngoại giao không là mối đe dọa đối
với ai. Thế giới, đặc biệt là Hoa
Kỳ, không đoan chắc như vậy.
Vào năm 492 trước Công Lịch, vào cuối
Thời Kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa, Vua Câu
Tiễn của nước Việt tại vùng
Chiết Giang hiện nay bị bắt làm tù binh sau
một trận chiến chống lại Vua Phù Sai
của nước Ngô, một quốc gia láng
giềng về phía Bắc. Câu Tiễn bị bắt
làm việc ở chuồng ngựa của Vua Ngô, nhưng
vẫn giữ nhân cách của ḿnh trong thời gian
bị giam giữ nên được Vua Phù Sai dần
dần kính nể. Sau vài năm, Vua Phù Sai cho phép Câu
Tiễn trở về quê quán với tước
hiệu của một chư hầu.
Câu Tiễn không bao giờ quên được
nỗi nhục. Đêm nằm trên giường
kết bằng cành cây và hàng ngày liếm một túi
mật treo ở trong pḥng để nuôi dưỡng
ư chí trả thù. Nước Việt xem ra trung thành
với Vua Ngô. Nước Việt lại có nhiều
thợ thủ công khéo léo và gỗ tốt nên Vua Ngô
xây nhiều cung điện và lâu đài khiến
mang nợ. Câu Tiễn làm Vua Ngô lăng trí với
nhiều gái đẹp nhất của nước
Việt (trong đó có Tây Thi), hối lộ quan
chức của nước Ngô, mua ngũ cốc để
làm cạn kho lương thực của Vua Phù Sai.
Trong khi vương quốc của Phù Sai suy sụp, nước
Việt trở nên giàu có và gây dựng một đạo
quân mới. Câu Tiễn chờ đợi thời cơ
trong suốt 8 năm trời. Vào năm 482 trước
Công Lịch, tin tưởng vào ưu thế của
ḿnh, Câu Tiễn đưa gần 50.000 quân tiến
về phía Bắc. Sau một vài trận chiến, Câu
Tiễn đánh bại Phù Sai và nước Ngô.
Câu chuyện nằm gai nếm mật rất quen
thuộc đối với người dân Trung Hoa như
câu chuyện Vua Alfred và những chiếc bánh đối
với người Anh, và Tổng Thống George
Washington và loại cây anh đào đối với dân
Mỹ. Vào đầu thế kỷ 20, Vua Câu Tiễn
trở thành một biểu tượng của
sự phản kháng của Trung Hoa chống lại
những thương ước buộc nước này
phải mở rộng hải cảng và những nhượng
bộ khác do ngoại quốc đ̣i hỏi trong
những năm Trung Hoa bị hạ nhục biến
thành thuộc địa.
Câu chuyện ngụ ngôn về Vua Câu Tiễn
được kết luận bởi một số
người như là một báo động đối
với việc Trung Quốc trở thành một đại
cường quốc hiện nay. Kể từ khi Đặng
Tiểu B́nh quyết định cải tổ kinh
tế vào năm 1978, Trung Quốc chỉ nói về ḥa
b́nh. C̣n quá yếu về mặt quân sự và kinh
tế để có thể thử thách Hoa Kỳ,
Trung Quốc chú trọng về việc làm giàu. Ngay
cả khi Trung Quốc tăng cường sức
mạnh và xây dựng lại quân đội, Tây Phương
và Nhật Bản mắc nợ và bán kỹ
thuật cho Trung Quốc. Cho đến nay Trung
Quốc vẫn kiên nhẫn, nhưng cái ngày quốc
gia này có thể thực hiện ư muốn của ḿnh
đă gần kề.
Tuy nhiên cũng có một cách giải thích khác
về chuyện vua Câu Tiễn. Học giả Paul
Cohen của Đại Học Harvard viết về vua
Trung Quốc giải thích rằng người dân
Trung Quốc nh́n Vua Câu Tiễn như một tấm
gương kiên tŕ và tận tụy. Học sinh
được dạy rằng nếu muốn thành công
th́ phải như vua Câu Tiễn, nằm gai nếm
mật – những thành quả lớn đ̣i hỏi
sự hi sinh và phải có mục đích vững
chắc. Vua Câu Tiễn này tượng trưng cho
sự tự cải tiến và tận tụy, không
phải là sự trả thù.
Vào thế kỷ 21 này Trung Quốc sẽ theo Vua Câu
Tiễn nào? Trung Quốc sẽ hội nhập hay không
vào thế giới Tây Phương nơi mà mọi
người không mong muốn ǵ hơn là có cơ
hội thành công và thụ hưởng kết
quả của sự làm việc vất vả? Hay là
khi sự giầu có và sức mạnh của Trung
Quốc vượt qua tất cả các nước
ngoại trừ Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ trở
thành một mối đe dọa – một quốc
gia tức giận muốn phục thù những sai trái
trong quá khứ và buộc những nước khác
phải uốn ḿnh theo ư muốn của Trung
Quốc? Jim Steinberg, Phụ Tá Bộ Trưởng
Ngoại Giao của Hoa Kỳ nhận xét rằng
sự lựa chọn vai tṛ của Trung Quốc là
“một vấn đề to lớn của thời
đại của chúng ta”. Nền ḥa b́nh và
thịnh vượng của thế giới phụ
thuộc vào con đường lựa chọn
của Trung Quốc.
Một số người lập luận rằng
hiện nay Trung Quốc vướng mắc quá sâu vào
mạng lưới toàn cầu hóa để có
thể làm đảo lộn kinh tế thế
giới bằng chiến tranh hoặc áp bức. Thương
mại đă mang lại sự thịnh vượng.
Trung Quốc mua nguyên liệu và bộ phận ở
nước ngoài và bán sản phẩm chế tạo
trên thị trường ngoại quốc. Hiện nay
Trung Quốc có trong tay $2,600 tỉ tỉ dự
trữ ngoại tệ. Tại sao Trung Quốc lại
muốn phá xập hệ thống đă phục
vụ nước này một cách khá tốt đẹp?
Nhưng quan điểm này quá lạc quan. Trong quá
khứ sự hội nhập đến trước
xung đột. Thật vậy, châu Âu nằm trong
biển lửa vào năm 1914 mặc dù Đức là
thị trường xuất cảng lớn thứ
hai của Anh và Anh là thị trường lớn
nhất của Đức. Nhật Bản trở nên
giàu có và gia nhập vào nhóm các cường quốc
châu Âu trước khi muốn biến châu Á thành
thuộc địa một cách thô bạo.
Một số người khác có quan điểm
cực đoan trái ngược lập luận
rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt buộc là
kẻ thù của nhau. Theo những người này
kể từ khi Đế Quốc Sparta lănh đạo
Liên Minh Peloponnesian chống lại Athens (theo lịch
sử Hy Lạp 600 năm trước Công Lịch),
những cường quốc suy thoái không chịu nhượng
bộ nhanh chóng để thỏa măn những cường
quốc đang vươn lên. Theo kịch bản này,
khi sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên,
quyền hạn và tham vọng của Trung Quốc cũng
sẽ tăng lên. Cuối cùng, Trung Quốc không c̣n
kiên nhẫn được nữa v́ Hoa Kỳ
sẽ không muốn từ bỏ vai tṛ lănh đạo.
Lư do để lạc quan
Quan điểm trên quá đơn sơ và bi quan. Trung
Quốc quyết tâm đ̣i hỏi chủ quyền lănh
thổ về Đài Loan, Nam Hải, một số
hải đảo và tranh chấp về biên giới
với Ấn Độ. Tuy nhiên không giống
những đại cường quốc trước
1945, Trung Quốc không t́m thuộc địa. Và khác
với Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc không có
chủ thuyết để xuất cảng. Thật
sự, lư tưởng cấp tiến của Hoa
Kỳ có sức thuyết phục hơn là chủ
nghĩa Cộng Sản, đạo Khổng hâm nóng,
hoặc bất cứ cái ǵ khác mà Trung Quốc
cống hiến. Khi hai nước đều có vơ khí
nguyên tử, không đáng công để họ giao
chiến với nhau.
Trên thực tế, sự giao tiếp giữa
những cường quốc đang vươn lên và
những cường quốc đang suy thoái không
đơn giản. Hai lần nước Anh lo sợ
một nước Đức bành trướng
chế ngự châu Âu và cả hai lần nước
Anh đă tham chiến. Tuy nhiên, Hoa Kỳ giành vai tṛ
lănh đạo thế giới khỏi tay của Anh và
hai nước vẫn tiếp tục là đồng
minh của nhau. Sau Đệ Nhị Thế Chiến,
Nhật Bản và Đức vươn dậy
từ đám tro tàn và trở thành cường
quốc kinh tế thứ hai và thứ ba của
thế giới mà không có một dấu hiệu nào
muốn thử thách Hoa Kỳ.
Những lư thuyết gia về bang giao quốc tế
dành nhiều suy nghĩ về sự suy tàn của
những đế quốc. Sự hiểu biết sâu
sa về “lư thuyết về chuyển tiếp
quyền lực” (power-transition theory) cho thấy
rằng những cường quốc như Đức
và Nhật Bản sau chiến tranh không thách thức
trật tự thế giới khi họ vươn lên.
Nhưng những cường quốc bất măn như
Đức và Nhật Bản thời tiền
chiến nghĩ rằng hệ thống bố trí và
duy tŕ của những cường quốc đang
ngự trị t́m cách chống họ. Trong thời
đại hỗn loạn của địa chính
(geopolitics), những quốc gia này tin rằng
những quyền lợi chính đáng của ḿnh
sẽ bị phủ nhận, trừ khi họ ép
buộc các nước khác phải tôn trọng.
Theo nhận định của GS David Lampton thuộc
Shool of Advanced International Studies, Johns Hopkins University, trong
gần cả một thập niên vừa qua hai đại
cường quốc tiến gần đến t́nh
trạng được gọi là hai cuộc đánh
cá. Một cách tổng quát, Trung Quốc nằm trong
trật tự hậu chiến của Hoa Kỳ, đánh
cá rằng những nước khác trên thế
giới cần sự giúp đỡ và thị trường
của Trung Quốc, sẽ cho phép Trung Quốc làm giàu
hơn và mạnh hơn. Hoa Kỳ không ngăn
cản sự vươn lên của Trung Quốc
với niềm tin rằng sự thịnh vượng
cuối cùng sẽ biến Trung Quốc thành một
trong những quốc gia ủng hộ chế độ
- một “cổ đông có trách nhiệm” theo cách
nói của Ông Robert Zoellick, Thứ Trưởng
Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống
George W. Bush và nay là Chủ Tịch Ngân Hàng Thế
Giới.
Trong gần cả một thập niên vừa qua,
bỏ ra ngoài những xích mích nhỏ, hai cuộc
đánh cá trên đă thành công. Trước 2001, Trung
Quốc và Hoa Kỳ tranh căi nhau về Đài Loan, Hoa
Kỳ ném bom vào Ṭa Đại Sứ Trung Quốc
tại Belgrade và vụ đụng độ làm
chết người giữa phi cơ do thám EP3
của Hoa Kỳ và một chiến đấu cơ
của Trung Quốc. Nhiều b́nh luận gia vào lúc
đó nghĩ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc ở
trong chiều hướng nguy hiểm, nhưng
những nhà lănh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ
đă không theo đuổi con đường này.
Kể từ đó, Hoa Kỳ bận rộn với
việc chống khủng bố, và chọn lựa cách
ứng phó một cách đơn giản với Trung
Quốc. Những công ty Mỹ vui vẻ được
tiếp cận với thị trường của
quốc gia này. Trung Quốc cho chính phủ Hoa Kỳ
vay một số tiền lớn lao.
Điều này rất phù hợp với Trung
Quốc. Đă từ lâu Trung Quốc kết luận
rằng cách tốt nhất để xây dựng
quyền lực quốc gia toàn diện là phát
triển kinh tế. Theo sự phân tách của Trung
Quốc qua những sách trắng và những bài
diễn văn vào cuối thập niên 1990 và đầu
thập niên 2000, Trung Quốc cần một “Quan
Niệm An Ninh Mới.” Phát triển cần sự
ổn định. Điều này đ̣i hỏi
rằng những quốc gia lân cận với Trung
Quốc không cảm thấy bị đe dọa.
Để làm các nước láng giềng an tâm cũng
như để chứng tỏ ḿnh là một công dân
tốt, Trung Quốc gia nhập những tổ
chức quốc tế mà một thời họ đă
xa lánh. Đây là cách an toàn nhất để đối
phó với ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Trung
Quốc lănh đạo cuộc thương thuyết
giữa sáu nước để ngăn chặn chương
tŕnh nguyên tử của Bắc Hàn. Chính phủ Trung
Quốc kư kết Hiệp Định Chống
Việc Thử Nghiệm Vơ Khí Nguyên Tử Toàn
Diện (Comprehensive Test-Ban Treaty) và một cách
tổng quát chấm dứt phổ biến vơ khí
(mặc dù những công ty đểu cáng vẫn
tiếp tục việc này). Trung Quốc gửi
nhiều nhân viên tham dự vào những hoạt động
duy tŕ ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc hơn là các
thành viên thường trực của Hội Đồng
An Ninh hoặc bất cứ quốc gia nào trong tổ
chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương
(NATO).
Chắc chắn là vẫn c̣n có những tranh
chấp và khác biệt. Nhưng những nhà ngoại
giao, những người làm chính sách, và giới
học giả tự cho phép ḿnh tin tưởng
rằng trong thời đại nguyên tử, Trung
Quốc có thể trỗi dậy thành một đại
cường quốc mới một cách ḥa b́nh. Tuy
nhiên, sự tin tưởng đó đă yếu đi.
Trong vài tháng qua, Trung Quốc đă tranh căi với
Nhật về việc một chiếc thuyền đánh
cá của Trung Quốc đă đâm vào ít nhất
một lần, nếu không phải là hai, hai
chiến hạm bảo vệ duyên hải ngoài khơi
của một chuỗi đảo mà Nhật Bản
gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu (Điểu
Ngư).
Trước đó, Trung Quốc đă không ủng
hộ Nam Hàn về vụ một chiến hạm
của Hải Quân Nam Hàn bị bắn ch́m và 46
thủy thủ bị thiệt mạng – mặc
dầu một nhóm chuyên viên quốc tế đă
kết luận rằng chiến hạm Cheonan bị
tấn công bởi một tầu ngầm của
Bắc Hàn. Khi Hoa Kỳ và Nam Hàn phản ứng
lại bằng cách tổ chức một số
cuộc tập dượt hỗn hợp ở Hoàng
Hải (Yellow Sea), Trung Quốc đă phản đối
và đă buộc một cuộc tập dượt
phải dời qua biển Nhật Bản. Và khi
Bắc Hàn nă đạn vào một ḥn đảo
của Nam Hàn vào tháng vừa qua, rơ ràng là Trung
Quốc lên án Bắc Hàn một cách miễn cưỡng.
Trung Quốc cũng đă bắt đầu xếp
việc dành chủ quyền trên những phần
rất lớn của Nam Hải vào danh sách sáu “quan
tâm hàng đầu” của Trung Quốc – một ngôn
ngữ mới đă làm những nhà ngoại giao lo
ngại. Khi các nước hội viên của
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association
of South-East Asian Nations - ASEAN) than phiền tại
buổi họp tại Hà Nội vào mùa Hè, Bộ Trưởng
Ngoại Giao của Trung Quốc Dương Khiết
Tŕ (Yang Jiechi) đă tức giận tuyên bố:
“Tất cả quư vị nhớ rằng bao nhiêu
thịnh vượng kinh tế của quư vị
dựa vào chúng tôi”. Theo báo cáo, ông ta cũng
phản ứng bằng cách nhổ nước
bọt.
Năm ngoái, một bài xă luận đầy ác ư
của tờ Nhật Báo Nhân Dân của Trung Quốc
đă tấn công Ấn Độ sau khi Ông Manmohan
Singh Thủ Tướng của nước này
viếng thăm một địa điểm trong vùng
tranh chấp gần Tây Tạng; Tổng Thống
Barack Obama bị đối xử một cách bất
xứng, lần thứ nhất trong cuộc viếng
thăm Bắc Kinh và lần thứ hai tại Hội
Nghị về biến đổi khí hậu tại
Copenhagen. Tại đây một viên chức ngoại
giao cấp thấp của Trung Quốc chỉ chỏ
ngón tay vào nhà lănh đạo của thế giới
tự do như để quở trách. Những
chiến hạm của Trung Quốc liên tiếp
quấy nhiễu tàu của hải quân Hoa Kỳ và
Nhật Bản, kể cả khu trục hạm USS
John S. McCain và tàu tuần thám USNS Impeccable.
Những điều này xem ra nhỏ bé nhưng mang tính
cách quan trọng v́ cả đôi bên đều ḍ
dẫm ư đồ của nhau. Hoa Kỳ liên tục
t́m kiếm những dấu hiệu cho thấy Trung
Quốc chấm dứt quan hệ b́nh thường và
trở thành gây hấn – Trung Quốc cũng t́m
kiếm những dấu hiệu chứng tỏ
rằng Hoa Kỳ và các nước đồng minh
cấu kết với nhau để ngăn cản
sự vươn lên của Trung Quốc. Mọi
sự việc đều bị chi phối bởi
sự ngờ vực có tính cách chiến lược.
Chăm chú nh́n qua ống kính này, những người
theo dơi t́nh h́nh Trung Quốc phát hiện một
sự thay đổi. Ông Richard Armitage, Thứ Trưởng
Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống
George W. Bush nói: “Chính sách ngoại giao thân thiện
đă qua rồi.” Yukio Okamoto, một chuyên viên
về an ninh Nhật Bản nhận xét rằng: “Khát
vọng quyền lực của Trung Quốc đă quá
rơ rệt”. Những nhà ngoại giao yêu cầu
được giấu tên tuổi nói về
những ngờ vực và lo ngại trong sự giao
tiếp với Trung Quốc. Mặc dù sự liên
lạc hàng ngày giữa các bộ của hai chính
phủ vẫn trôi chảy, nhưng “sự ngờ
vực chiến lược giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng” theo nhận xét
của chuyên gia về Trung Quốc Boonie Glaser của
Trung Tâm Nghiên Cứu chiến Thuật và Quốc
Tế (Centre for Strategic and International Studies) tại
Washington-DC.
Chẳng có ǵ là bất khả văn hồi với
sự suy thoái ngoại giao này, ḥa b́nh vẫn c̣n ư
nghĩa. Trung Quốc phải đối phó với
những vấn đề to lớn ở trong nước.
Trung Quốc hưởng lợi từ thị trường
Hoa Kỳ và liên hệ tốt đẹp với các
nước láng giềng, cũng giống như vào năm
2001. Đảng Cộng Sản Trung Quốc và
những nhà lănh đạo Ṭa Nhà Trắng dù
thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị
nào cũng đều thu thập được
nhiều lợi ích từ phát triển kinh tế hơn
bất cứ cái ǵ khác.
Những nhà lănh đạo Trung Quốc hiểu rơ
điều này. Vào tháng 11/2003 và tháng 2/2004, Bộ Chính
Trị của Trung Quốc đă nhóm những phiên
họp đặc biệt về sự hưng
thịnh và suy thoái của các quốc gia kể
từ thế kỷ 15. Những chính trị gia Hoa
Kỳ dư hiểu biết rằng mặc dù
việc đối phó với một Trung Quốc hùng
mạnh sẽ khó khăn, việc đối phó
với một nước Trung Quốc bất măn và
hùng mạnh sẽ vô phương.
Tuy nhiên ngày nay nhiều yếu tố trên nhiều
mặt, từ chính trị nội bộ đến
hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chánh,
kết hợp lại làm cho mối quan hệ trở
nên tồi tệ hơn. Nguy cơ không phải là
chiến tranh – vào giai đoạn hiện nay điều
này hầu như không ai nghĩ đến việc này,
chỉ v́ rủi ro quá to lớn, rất bất
lợi cho mọi người. Mối nguy là các nhà lănh
đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tạo ra
nền tảng cho sư đối kháng sâu đậm
trong thập niên sắp tới. Điểm này
được Ông Henry Kissinger mô tả rành mạch
nhất.
Khía cạnh đen tối
Dưới thời Tổng Thống Richard Nixon, Ông
Kissinger đă tạo điều kiện cho 40 năm
ḥa b́nh ở Á châu bởi nh́n thấy rằng Hoa
Kỳ và Trung Quốc cùng hưởng lợi khi
hợp tác làm việc với nhau thay v́ cạnh tranh
lẫn nhau. Ngày nay, ông Kissinger lo âu. Tại buổi
họp của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế
về Chiến Lược (International Institute for
Straregic Studies) vào tháng 9 vừa qua, Ông Kissinger
nhận xét rằng đưa Trung Quốc vào
trật tự thế giới c̣n khó hơn là
đưa Đức quốc vào cách đây một
thế kỷ.
Theo Ông Kissinger: “Đây không phải là một
vấn đề kết hợp một quốc gia
thuần nhất mà là một cường quốc to
lớn phát triển toàn diện… Ṿng xoắn DNA
của cả hai quốc gia có thể tạo ra
một mối quan hệ thù nghịch ngày càng
lớn rất giống như hai nước Đức
và Anh chuyển từ bạn sang thù… Washington
hoặc Bắc Kinh đều không thực tập
một quan hệ cộng tác trong sự b́nh đẳng.
Những nhà lănh đạo của hai nước không
có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn là
thực thi chân lư cho thấy không bao giờ một nước
này có thể chế ngự nước kia và sự
xung đột giữa hai nước sẽ làm
kiệt quệ xă hội và di hại cho triển
vọng ḥa b́nh thế giới.”
Không có nơi nào mà sự ḱnh địch chớm
nở lại rơ rệt nhất giữa quân lực
của Hoa Kỳ và quân lực của Trung Quốc,
một lực lượng đang được
hiện đại hóa nhanh chóng. Về toàn bộ, quân
lực của Hoa Kỳ siêu việt hơn nhiều.
Nhưng quân lực của Hoa Kỳ sẽ không c̣n có
thể chiến thắng một cách dễ dàng ở
trong vùng duyên hải của Trung Quốc.
The
Economist
Nguyễn
Quốc Khải dịch