Tướng Nguyễn Khoa Nam là một trong những
vị tướng lănh mà danh tiếng và khí tiết
đă vang lừng trong quân sử miền Nam Việt
Nam, đă khiến nhân dân miền Nam và cả
thế giới khâm phục . Chúng tôi trích đăng
bài viết dưới đây của tác giả
Nguyễn Thanh Khiết để cùng nhau, chúng
ta ôn lại một giai đoạn đau thương,
bi tráng của Miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa những
ngày tháng 4-1975 -NN)
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đă 5 năm qua, năm nào cũng vậy, cứ
mỗi cuối tháng 4, sau khi đă như chết
rồi trong tiếng reo ḥ chiến thắng, tiếng
pháo mừng đ́ đùng của giặc, tôi lui cui
chuẩn bị ra khỏi nhà vào buổi chiều,
đi lên phía G̣ Vấp, trên đường Lê Quang
Định, một trong số những con đường
may mắn chưa bị đổi tên suốt 35 năm
nhục nhằn của thành phố Sài G̣n từ sau
ngày 30 tháng 4, 1975 tang thương cũ.
Chùa
Già Lam, một cái tên dễ gọi nhưng thật
khó. Năm năm về trước, tôi mày ṃ trên...
... mạng, vào một trang
web, một ai đó ghi hàng thông tin “...theo nguồn
tin của gia đ́nh tướng Nguyễn Khoa Nam, hài
cốt ông được đưa về ‘chùa
Gia-Lâm’ đường Lê Quang Định, G̣ Vấp.”
Tôi bỏ ra 3 ngày đi nát con đường
nầy, Lê Quang Định không dài, chỉ là con
đường cũ từ trước cửa
chợ Bà Chiểu thẳng một mạch lên G̣
Vấp và kết thúc tại khu nổi tiếng là ngă
năm chuồng chó. Vậy mà tôi đi miết 3 ngày,
hỏi cả trăm người cái “chùa Già Lâm”
ai cũng lắc đầu chẳng biết nó ở
đâu. Buổi chiều cuối cùng, với thất
vọng và mệt mỏi, tôi ghé vào trạm xăng
bên đường, định đổ đầy
một b́nh rồi lên xe về.
Chiều xuống thành phố chật chội
bụi xe, người ngựa dân đi làm từ các
công sở ùa ra đường phố, đường
nào cũng chật, cũng kẹt xe, tôi cố mà không
băng qua được bên kia đường cho
đúng chiều. Chán nản, tôi dắt con ngựa
sắt phong trần, bung bửng, mất vè, đi
dọc về phía chợ Bà Chiểu. Ngừng ở
một ngă ba, châm điếu thuốc, tự thưởng
chuyến hành hương bất thành.
Tôi ngước lên phà khói, bất thần tôi nh́n
thấy ba chữ “chùa Già Lam.” Tôi chợt hiểu,
cái trang mạng mắc dịch nào đó, một
đương sự, không biết tiếng Việt
nào đó, một cu cậu không cài phần mềm
bỏ dấu tiếng mẹ đẻ nào đó,
đă lỡ tay gơ trên thông tin hai chữ “Gia-Lam,”
rồi một ông cốt đột nào đó (chắc
chắn không phải là cư dân G̣ Vấp) đă quá
tay dịch từ tiếng Việt sang... tiếng
Việt là “Gia-Lâm” báo hại tôi lội 3 ngày trên
con đường không hơn 5 cây số này.
Tôi thở ra một cái, tự thưởng cho cái
thông minh quá muộn màng của ḿnh, sau khi đă
đẫm mồ hôi tới 3 cái áo. Tôi lên xe đi
theo hướng mũi tên trên biển báo, lại
một phen ngất ngư v́ hẻm Sài G̣n. Từ
mặt lộ, vào chưa tới 50 mét, con hẻm chia
ra hai hẻm nhỏ, mỗi con hẻm có tới hai ngôi
chùa tên nghe lạ hoắc, tôi phải lộn ngược
ra ngoài hỏi thăm thật cặn kẽ rồi
mới an tâm vào bên trong.
Già Lam là một ngôi cổ tự, nằm tận cùng
trong con hẻm, ngôi chùa rộng, có khoảng sân ngoài
lát đá thật khang trang, qua khỏi cổng là cái
sân trồng hoa, một số cội mai lớn
sắp hàng trên lối vào chánh điện.
Bên trái là địa tạng đường, xây
đơn giản, gồm hai tầng với một
cầu thang bằng xi măng vừa đủ cho
một người đi lên. Tôi hỏi thăm người
giữ xe ở cổng, một cảnh sát trước
năm 1975, vóc dáng gầy g̣, nhưng nhiệt t́nh.
Khi biết tôi muốn thăm và thắp nhang cho tướng
Nguyễn Khoa Nam, ông nắm tay tôi kéo lên cầu thang
và giới thiệu tôi với một tăng nhân
trạc hơn 30 tuổi có nhiệm vụ trông coi
địa tạng đường.
Quả thật, cũng khó mà t́m ra nơi đặt
hài cốt, nếu không có người hướng
dẫn và sơ đồ chỉ rơ. Trong địa
tạng đường, nếu tôi không nhầm, có
gần mấy ngàn tro cốt chứa trong các lọ
nhỏ lớn đủ kiểu, đủ dáng,
đặt trong những tủ kính nằm dọc và
dài bằng bức tường pḥng.
Có bốn hàng tủ như vậy với hai
lối đi nhỏ dọc theo chiều dài, mỗi
tủ cao bằng trần nhà nên luôn có một cái
ghế gỗ cao cho thân nhân dùng leo lên đối
với những hài cốt nằm phía trên cùng.
Hũ tro cốt của thiếu tướng
Nguyễn Khoa Nam có lẽ do một duyên may nào đó
hoặc do vị trụ tŕ chùa này, một thượng
toạ đă viên tịch sau lần cầu siêu cho tướng
Nam vào ngày bốc cốt và gởi vào chùa, là người
có giao t́nh với gia đ́nh của thiếu tướng.
Hũ tro cốt của tướng Nam được
đặt vào ngăn thứ 5 trong tủ kính nhỏ
kê sát bức tượng Địa Tạng Vương
trên bàn thờ giữa pḥng.
Khác những năm trước, chiều nay tôi vào
thăm ông từ lúc 1 giờ trưa, địa
tạng đường khóa ngoài, người trông
coi vắng mặt. Tôi trở ra quán cà phê Dương
Cầm nằm trên con đường nhỏ gối
đầu Lê Quang Định, tôi không chờ, không
đợi ai, và tôi biết ngày hôm nay tôi chỉ có
một việc: Bước vào địa tạng
đường, thắp một nén hương cho
một vị anh hùng đă tuẫn tiết theo thành
khi nước mất nhà tan, bằng khí tiết
của một tướng tư lệnh.
Ông
tự kết liễu đời ḿnh vào ngày + N, sau
khi đă vào thăm các binh sĩ của ḿnh trên con
đường giữ nước không may thương
tật đang được nằm điều
trị trong bệnh viện Phan Thanh Giản. Ông vô cùng
can đảm khi phó tướng của ông, chuẩn
tướng Lê Văn Hưng đă đi trước
ông một bước. Tướng Hưng đă
tự sát bằng chính cây súng lệnh của ḿnh
khi giặc tràn vào bộ tư lệnh và khi kế
hoạch phản công của tướng Nam cùng ông
với những đặc lệnh truyền tin đủ
chuẩn bị cho cuộc kháng cự “cố
thủ miền Tây” dù Sài G̣n đă thực sự
buông súng để rơi vào tay Bắc quân.
Một kế hoạch dựa vào kinh nghiệm
chiến đấu trên sông rạch của hai ông
bị một đại tá có nhiệm vụ thi hành
đă nhẫn tâm ném nó vào sọt rác và ra đi
theo đoàn người di tản, để lại
một hậu quả tang thương cho vùng IV sông
ng̣i.
Ly cà phê nhỏ những giọt chậm, buồn hơn
mọi ngày. Trong cái sánh đen của màu cà phê, tôi
c̣n như thấy được hạt máu những
anh hùng bất tử đă đổ xuống cho quê
hương nầy như năm tướng Lê Nguyên
Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Văn
Hưng và Nguyễn Khoa Nam.
Uống ly cà phê tôi c̣n nghe vẳng đâu đó
một bản nhạc buồn “Anh hỡi anh ở
lại Charlie, anh hỡi anh giă từ vũ khí.” Tôi
nghĩ tôi phải tội nghiệp cho ông tướng
mà chiều nay tôi sẽ đốt một nén nhang tưởng
niệm ông. Ông chết chi vào cái ngày mắc
dịch đó để không có ai làm cho ông một
bài hát đại khái như vầy cũng được:
“Tôi thương ông, người chiến sĩ
không bán ḿnh cho giặc, biết chết và chết
oai hùng, ngay trên đống tro tàn c̣n bốc khói...”
Tôi trở lại chùa Già Lam lúc 6 giờ chiều,
và đúng chiều nay sau khi uống ly cà phê suốt
4 giờ chết tiệt.
Người giữ cửa vẫn chưa tới. Tôi
bước thẳng vào trong khi thấy lấp ló
một tăng nhân trong đó, tôi tŕnh bày ngắn
gọn và được giúp đỡ tận t́nh.
Ông đưa cho tôi xâu ch́a khoá, chỉ cho tôi cái ch́a
để mở cửa pḥng chứa tro cốt
của tướng Nguyễn Khoa Nam. “Ông biết
chỗ rồi phải không? Hay để tôi chỉ
cho ông?” Tôi cám ơn vị tăng nhân và cầm ch́a
khoá đi thẳng lên tầng trên.
Địa tạng đường tối âm u, cái u
uất thường cảm nhận ở những nơi
như vầy. Chiều đă hết, bây giờ là
thời gian của âm khí, cái âm khí rợn dọc
sống lưng, giống như một băi tha ma. Theo
lời chỉ dẫn của tăng nhân khi năy, tôi kéo
cầu dao bật điện, mở cửa bước
vào pḥng.
Bức tượng Địa Tạng Vương
bồ tát to lớn đặt giữa pḥng, cái lư
hương trống trơn không một que nhang tàn
trong đó. Tôi thật sự xúc động. Hôm nay
ngày giỗ của ông, th́ tại nơi này, nơi
đặt lọ tro cốt của ông, chút thân xác hóa
tro đó, anh linh của một thời hiển hách
đó, nhang tàn khói lạnh. Không ai, quả thực
không ai buồn thắp nén nhang cho ấm ḷng.
Tôi lấy cái quẹt ga để sẵn trên bàn
thờ và lựa ba nén nhang, loại nhang thường
nhất, nhỏ nhất và ngắn nhất thắp lên
bàn thờ bồ tát. Tôi đứng nghiêm trước
di ảnh tướng Nam, chụm chân chào ông theo
kiểu nhà binh mà tôi học lóm được trong
bộ đồ dân sự, trong tính cách một thường
dân Nam Bộ. Tôi chào viên tư lệnh vùng IV đă
tuẫn tiết theo thành vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 1
tháng 5 của 35 năm về trước với
tất cả ḷng kính trọng và một chút
ngậm ngùi. Khi nh́n quanh, chỉ có ḿnh tôi trong
chiều xuống giữa địa tạng
đường âm u với duy nhất 3 nén nhang thường.
Tôi nhớ trong ḷng, 5 năm qua, những lần tôi
đến đây, hôm nay ngày tôi buồn nhất. Trước
khi ra về, tôi nói nhỏ với di ảnh của người,
tôi xin ông cho tôi ghi lại bức ảnh của
một tư lệnh, trong chân dung người lính ngày
mới ra trường, dù nó không đánh dấu tính
oai nghiêm của một danh tướng, nhưng nó là
tất cả cái cao thượng, thanh liêm và
chất phác của một người đă nằm
xuống thực sự hiến dâng cho đất nước.
Bước xuống trả xâu ch́a khoá trên bàn
vị tăng nhân đă cho tôi mượn, sau khi kéo
cầu dao trả lại bóng tối cho những người
đă chết, tôi bước ra sân ghé cái quán lá
của người lính cũ giữ xe ngoài cổng,
tôi mua bao thuốc. Chưa kịp chào, ông đă
nhận ra tôi với nhiều lần lui tới, ông
trầm giọng cho vừa đủ nghe: “Ba năm
nay, ngày này sao không thấy ai đến đốt
nhang cho thiếu tướng, chỉ có ḿnh ông thôi
hả?” Tôi cười như mếu quay mặt bước
đi, tôi lẩm bẩm một ḿnh: “Hôm nay ngày 1
tháng 5, ba mươi lăm năm rồi. Và ba năm
qua chưa có ai nhớ mà về đốt cho tướng
Nguyễn Khoa Nam một nén nhang!” (N.T.K.)