Chuyện
kể cuả một người Pháp |
||
"...Ngày bé, cứ mỗi ba tháng, tôi lại được về sống một tuần với ông bà nội. Muà hè, đong đưa trên chiếc xích đu lơ lửng treo dưới gốc anh đào già cỗi, ông mở rộng quyển bản đồ thế giới, gieo vào ḷng tôi giấc mộng hải hồ, kể bằng giọng trầm đầy sôi nổi những điều mắt thấy tai nghe. Mỗi xứ sở chi chít số, chữ, nằm ép thân trên trang giấy mỏng bỗng thoắt cựa ḿnh căng dài, trải rộng, dựng lên trăm ngàn phong cảnh kỳ diệu, với người dân địa phương trang phục lạ lùng, tập tục ngộ nghĩnh, để tôi, cùng với những chuyện kể có cánh kia, bay vào trời đất mới..."
Em
biết không, ḍng máu thứ nhất bảo tôi là người
da trắng. Nó chứng tỏ điều đó
bằng cách ban cho tôi mớ tóc nâu nhạt, chiều
cao một mét tám, xương to, vai ngang, mũi lộ,
mắt sâu. Nó chứng tỏ điều đó khi ban
cho tôi cái họ mà nhiều người Pháp có
nhất và một làn da mỏng, chỉ chực
ửng đỏ lên khi nắng gắt. Nhưng, ḍng máu
thứ nhất này cũng cho biết, ở đâu
đó trên cơ thể, có lẽ tôi có một ngón chân
thô Bồ Đào Nha ở thuê làm mướn, một
nưả lá gan Ba Lan-Do Thái lưu vong hoặc một
vành tai Nga bảo hoàng quư phái. Nó kể cho tôi nghe
về những mối liên hệ dây mơ rễ má
trong phả hệ, về những nhánh ghép, cành
cụt, những tổ tiên chết non hay mất tích.
Nó cũng ám ảnh nhiều giấc mơ cuả tôi
bằng nỗi kinh hăi nạn dịch tả, niềm
hận thù dân tộc, nỗi thống khổ cuả
mấy cuộc thánh chiến, châu chiến, thế
chiến những thế kỷ đă qua. Ḍng máu da
trắng chỉ cho tôi xem ông nội thiếu tướng,
bà ngoại giáo sư, tóc nhạt mắt trong, kiêu hănh
tự tin giưă những bức ảnh gia đ́nh,
vẻ vang danh phận trên các bực thang xă hội. Nó
rần rật luân lưu trong từng bắp thịt căng
hồng, bơm phồng mỗi động mạch, tĩnh
mạch, cả những mao mạch vi ti. Ḍng máu
thứ nhất ngập tràn dưỡng khí. Ḍng
máu thứ hai lại bảo tôi là người da vàng,
em ạ. Nó lẩn trong tiếng ru cuả bà nội ngày
tôi c̣n bé. Nó dạy tôi thói quen cầm đũa lùa
cơm, chan canh, nhẩn nha nhai nuốt miếng thịt
heo kho mặn khô cong và để lại đôi g̣ má
nhô trên gương mặt, như một bằng
chứng. Ḍng máu thứ hai âm thầm như cái bóng
nhỏ thó cuả người đàn bà Việt, h́nh
như suốt đời dấu bao nỗi muộn
phiền vào trong đôi mắt. Tṛng mắt tôi v́
vậy đen thẫm, như đêm, như tóc của
bà, như nỗi buồn trải dài trên những ḍng
chữ li ti bà để lại mà măi sau này tôi
mới có dịp khám phá và t́m hiểu. Ḍng máu này c̣n
chỉ cho tôi, vào một ngày hè nóng bức thời thơ
ấu, tuột săng-đan, quắp cây bút ch́ lăn
lóc dưới đất bằng những ngón chân
linh động, điều mà không một đưá
bạn nào trong lớp làm được. Nó tẩm vào
tôi t́nh hoài hương, cứ ngong ngóng một ngày
được trở về xứ cổ tích, nơi
bà nội tôi đă từ đó, bỏ đi. … Làm ăn đương suông
sẻ, bỗng đâu xẩy ra thiên tai vào khoảng
giưă năm Bính Th́n. Một buổi sáng, anh Trúc
đi mượn đâu được tờ báo,
về đọc cho cả nhà nghe tin vua Duy Tân trốn
khỏi Huế, đă bị tây bắt lại,
truất phế và đày sang đảo Réunion bên Phi
Châu, c̣n ông hoàng Bửu Đảo lên ngôi thay
thế, lấy danh hiệu Khải Định Hoàng
đế. Em Đàn hỏi : thế vua Duy Tân đi
đày, có phải kéo hồ lô làm đường không
? Anh Trúc giả nhời : vua c̣n trẻ, mới mười
mấy tuổi, nay sang đảo Réunion lại c̣n
được đi học và tập cưỡi ngưạ
giải trí nưă, vua tù sướng chán vạn
chứ đâu như dân tù đi kéo hồ lô ! Em
Đàn chúa ṭ ṃ, mở bản đồ Phi Châu xem
đảo Réunion ở nơi nào. Đang t́m th́ ngoài
phố xôn xao, một đám đông rùng rùng chạy
qua, hốt hoảng kêu rống « Vỡ đê ! Vỡ
đê ! ». Nh́n xuống cuối phố th́ thấy nước
đương chẩy qua ngă tư, đổ dốc
xuống những phố dưới thấp hơn.
Cuống cuồng, ba anh em vứt cả báo, bản
đồ, cả vua Duy Tân, vua Khải Định,
rồi cùng mẹ, chị Vân, chị Tiểu khuân vác,
dọn đồ đạc, hàng hoá lên gác xép, lên nóc
tủ, lên bàn, lên giuờng, được cái ǵ hay
cái ấy. Nhưng c̣n cót thóc mới cân, đành
chịu để nước tràn vào, sau đó ít lâu
mọc mầm, thối nát. Mẹ bần thần,
cứ thở dài sườn sượt, chị Vân thút
thít khóc suốt, c̣n chị Tiểu lâu lâu lại rú
lên khi thấy một con chuột cống ngoi ngóp bơi
đến gần chiếc chơng tre, chỗ chị
ngồi. Hăi v́ tiếng kêu buốt óc cuả chị,
con chuột lúng túng quay đầu bơi đi nơi
khác, sau khi suưt chết đuối v́ đă b́ bọp
uống mất mấy ngụm nước sông. Anh Trúc,
quần xắn tận bẹn, thỉnh thoảng
chạy ra chạy vào nghe ngóng t́nh h́nh, c̣n em Đàn t́m
được ở đâu sợi cước,
quấn vào đầu chổi phất trần, hỉ
hả bắt chước Lă Vọng đi câu.
Khoảng hơn mười hôm, nước mới rút
khỏi nhà. May mà phố Châu Cầu cao, nước
chỉ xấp xỉ mặt giường, chứ
ở các phố khác, nước ngập đến mái,
nhà cưả đổ nát và vô số người
chết đuối. Thiệt hại thật ghê
gớm, làm ăn cũng thua lỗ v́ các vùng lân
cận bị tàn phá hết, đâu ai c̣n tâm trí để
nghĩ đến việc mua bán sắm sửa nữa
! Mẹ lại lâm vào cảnh túng thiếu công
nợ. Trước kia, tây An Hưng dọa bỏ tù,
nay, tàu Bảo Hoà dọa bắt bớ. Nhận
thấy Phủ Lư bị lụt nặng, không làm ăn
ǵ được nưă, mẹ đưa cả gia
đ́nh lánh về làng Sen trốn nợ. Được
ít lâu, ăn uống không đủ, thuốc thang
chẳng có, anh Trúc ngày càng xanh xao, bị hen suyễn
trầm trọng. Sau một đêm cong người
để niú kéo từng hơi thở, anh Trúc
mất, lúc hai giờ sáng ngày mười chín tháng giêng
năm Đinh Tỵ. Mẹ bảo trông thấy con
lạc tinh chớp nhoáng bay ra khỏi buồng, c̣n em
Đàn nằm trên chơng tre gần cưả nghe rơ con
cú vọ đậu trên cây soan cất tiếng rúc
đúng ba lần. Mộ anh Trúc để ngay ở băi
đồng sau nhà, ba năm sau mới được
cải táng về làng Mọc, gần mộ bố…
Tôi dần quen với những ḍng chữ nhỏ nhít
đùn đẩy cuả bà, với cách sắp
xếp từ ngữ theo mẫu tự và dấu thanh
cuả quyển tự điển Việt-Pháp đă
bắt đầu long gáy. Phủ Lư, phố Châu
Cầu, làng Sen, làng Mọc bây giờ c̣n không ?
Mẹ và các anh chị em cuả bà nội, người
nào đă chết, người nào c̣n sống, họ
ở đâu, gia đ́nh, con cái cuả họ ra sao…
Thời gian và những biến động liên tục
cuả vùng đất xa xôi ấy hẳn đă ném
bao tàn phá khủng khiếp lên người, lên
cảnh. Bà tôi, bị rứt khỏi cội rễ,
thui thủi trong ngôi nhà thênh thang miền trung nước
Pháp, bao nhiêu năm không t́m ra một người
đồng chủng sống gần. Không được
nói, không được nghe tiếng mẹ, bà đành
viết, như một cách chống đối thụ
động với thực tại, với lũ ngày tháng
cứ lẳng lặng bào ṃn dần trí nhớ, xoá
vết bao h́nh ảnh, và những âm, những từ lâu
ngày không dùng đến dần tan biến trong các
nếp gấp cuả bộ óc già nua. Điều
lạ, là tôi không t́m ra bóng dáng cuả ông nội
trong những ḍng chữ chi chít gần trăm trang
giấy học tṛ kia. Tôi biết, bà đă bỏ
cả gia đ́nh, xứ sở để theo ông,
sống tạm bợ nhiều năm trong các trại
gia binh thuộc điạ trước khi định cư
ở Pháp. Tôi biết, ông đă cắt đứt
gần hết những mối quan hệ với anh em,
họ hàng, chỉ v́ muốn bảo vệ cho mối
t́nh dị chủng cuả ḿnh. Tôi biết, cử
chỉ, ánh mắt cuả họ vẫn c̣n quyến
luyến nhau lắm, cho tận đến ngày ông đột
ngột ra đi. Nhưng « con nai bé bỏng » cuả
ông đă quyết định dừng những ḍng
hồi ức lại ở một đêm rằm xa xưa,
thời c̣n con gái. …
Bác Nhỡ là một người đàn bà goá ở
cạnh nhà, làm nghề đổ nước với
hai con, Đĩ Nhớn và Cu Con. Đưá út, Cái Hĩm,
c̣n bé tẹo, Đĩ Nhớn vẫn phải chúc cho
ăn. Nghe kể, chồng bác Nhỡ làm ăn buôn bán
xa, măi tận xứ Sài G̣n, bệnh, rồi mất
ở trong ấy năm kia... Xế chiều, sau khi
dọn hàng, mẹ và chị Tiểu loay hoay thổi cơm,
c̣n chị Vân đợi đến lúc tối lọ
mặt người mới thắp lên điă đèn
dầu thẩu tù mù, với một sợi bấc chià
ra miệng điă, chỉ chực tắt khi có gió to.
Chẳng những cả nhà xúm quanh ngọn đèn này
mà cả Đĩ Nhớn và Cu Con cũng kéo vào lê la
ngồi dưới đất tập đánh vần.
Suưt soát tuổi em Đàn, lại chiụ khó, nên
chỉ trong khoảng hai tháng, Đĩ Nhớn và Cu
Con đă biết đọc, biết viết, mượn
truyện Kiều, truyện Liêu Trai về đọc
cho u Nhỡ cuả chúng nghe. Bù lại, hai chị em
phụ dọn dẹp, quét tước, nhất là
sẵn nước trong xe, chiều nào cũng đổ
đầy cho một vại. Em Đàn chỉ việc
bỏ vài mẩu phèn chua vào cái ống nưá
rỗng, khuấy tṛn dăm phút là bùn đọng
hết xuống đáy, nước trong veo, tha hồ
nấu nướng, tắm rưả, giặt giũ.
Ngoài những việc vặt, Đĩ Nhớn và Cu
Con c̣n giữ bổn phận phải làm ngưạ
cho em Đàn cưỡi, mỗi khi mưa lớn. Nước
ao cạnh nhà dâng, tràn lên sân, đem theo hàng đàn
điả đói. Em Đàn sợ điả lắm,
bị bám vào chân là hét váng cả nhà, nên buổi
chiều đi học về, đứng ở đầu
ngơ, thấy chị em Đĩ Nhớn Cu Con, vội
ơi ới gọi ngay, bắt cơng qua sân. Đĩ
Nhớn thốc em Đàn lên lưng, nhắm mắt
nhắm mũi chạy qua sân thật nhanh, v́ chính
Đĩ Nhớn cũng sợ điả. Nhưng
gặp Cu Con th́ thật lắm chuyện, nó lấy chân
khua tung nước lên, bắt chước tàu Phi Long,
Phi Phượng cuả ông Bạch Thái Bưởi,
chạy chữ chi khắp sân, c̣n cố ư phóng qua
những bụi cỏ đầy điả. Cười
đuà chán chê, Cu Con mới hạ em Đàn xuống
hiên, lấy chià vôi ăn trầu bôi vào dăm con
điả bám trên chân, điả say vôi, rơi ra
tức khắc. Mẹ
tôi là dâu ngoan cuả bà nội bao nhiêu th́ lại
hờ hững lạnh lùng với bà ngoại bấy
nhiêu. Mẹ xa cách bà ngoại, có lẽ v́ lối giáo
dục mô phạm, đôi khi khắt khe đến
mức nghiệt ngă cuả bà. Nỗi lo lắng,
sự thiếu thốn trong cuộc sống hàng ngày
thời Đức chiếm đóng đă để
lại một vết hằn không ǵ bôi xoá được
trong tâm trí cũng như cách ứng xử cuả bà
với người chung quanh. Mẹ kể, thuở bé,
đă nghe bà lập đi lập lại hàng trăm ngàn
lần chuyện một ngày năm 1942, bụng chưả
vượt mặt, một thân một ḿnh đạp
xe chở bác Jacques lúc ấy chưa đầy hai
tuổi, đi về hơn bốn mươi cây
số, chỉ để đem vài kư bột ḿ đổi
lấy nưả tá trứng gà và phó-mát. Tuổi thơ
cuả mẹ đầy những lằn roi ngang
dọc và bạt tai bầm má v́ tội dám dấu
một xu tiền thối bánh ḿ để lén mua
kẹo mút. Tuổi thơ cuả mẹ nhiều ngày
xấu hổ trốn trong góc khuất sân chơi v́
phải mặc quần áo cũ cuả bác Jacques đi
học. Không có búp-bê và gấu bông, quà Giáng Sinh
chỉ là một quả cam bọc giấy thắt nơ
lủng lẳng treo trên cành thông mua rẻ buổi
chợ chiều. Ông ngoại đi biệt dạng, bà
trút măi hằn thù bực dọc xuống đầu các
con. Bác Jacques bỏ học ngang, trốn đi
Clermont-Ferrand xin làm thợ cơ khí. Mẹ cắn răng
lấy xong tú tài, thi đậu trường y tá, vưà
học vưà ăn lương, và xin ngay vào nội
trú. Thoát ly. Bà ngoại sống một ḿnh, tiếp
tục độc đoán với học sinh cho đến
ngày về hưu, cho đến ngày vào viện dưỡng
lăo v́ không c̣n khả năng tự xoay sở. Tôi
thỉnh thoảng theo mẹ vào thăm bà. Bà ngồi
thẳng người trên xe lăn, tóc trắng bạc
nhuộm ánh tím, hai tay khoanh chặt trên lớp chăn
mỏng đặt trước bụng, môi mỏng,
miệng mím, đợi cho hết buổi lễ
trực tiếp truyền h́nh sáng chủ nhật
mới cho phép con cháu vào thăm. Mẹ con, bà cháu gượng
gạo chào hỏi, xă giao c̣n hơn đối với
hàng xóm. Bao giờ bà cũng ngồi im, đợi
mẹ lên tiếng trước : -
Cảm ơn. Nhờ ơn Chuá, tôi vẫn sống. Gia
đ́nh anh chị thế nào ?
- Chúng con vẫn thường. Các cháu ngoan và học
giỏi. Ở đây, họ trông nom mẹ Bà ném tia nh́n soi bói về phiá tôi, như đánh giá lời nói cuả mẹ, trước khi trả lời. - Ở đâu quen đấy, chị ạ. Tôi già
rồi, đâu c̣n đ̣i hỏi ǵ nhiều. Ăn
uống, vệ sinh, áo xống, chỉ cần tối
thiểu. Tự làm được ǵ, tôi làm, bất
đắc dĩ lắm mới phải gọi y tá. C̣n
phiền đến chị và thằng Jacques th́
chẳng bao giờ tôi dám nghĩ đến cả ! -
Mẹ có thương ông ngoại không ? Mẹ
đáp ngay, không do dự : -
Mẹ có biết ông là ai đâu mà thương,
hở con ! Ngay cả h́nh ảnh, thư từ,
giấy tờ ông để lại, bà ngoại cũng
nói, đă xé bỏ hết cả rồi ! Và
tiếp thêm : -
Thuở bé, mẹ cứ nghĩ sẽ suốt đời
sống bất hạnh. Nhưng nhờ ơn Chuá,
từ khi lấy bố, mẹ được đền
bù. Không những mẹ bơi lội trong niềm
hạnh phúc bố đem đến, mà c̣n hưởng
cả t́nh yêu cuả ông bà nội nưă, con ơi ! -
Nhưng, dù sao ông ngoại… Mà mẹ không định
truy t́m tung tích ông ngoại sao ? -
Nhưng con vẫn muốn biết… -
Mẹ không ngăn con thay mẹ làm việc đó. Sách
vở ở thư viện, hồ sơ trong bộ
Ngoại giao, báo chí, phim tài liệu… Mà thật, con có
ư định phung phí thời giờ hiếm hoi
cuả con vào việc t́m lại dấu tích cuả
một người lúc nào cũng t́m cách bôi xoá
vết chân ḿnh, hay sao ? Tôi
không trả lời. Im lặng cuả tôi, là bày
tỏ thái độ phản đối. Cũng im
lặng, nước mắt rưng rưng, mẹ
chậm răi bóc một chiếc kẹo cam, cho vào
miệng. Từ khi khôn lớn, tôi thấy bao giờ
mẹ cũng ăn mặc đẹp, hợp thời
trang, sang trọng. Bao giờ mẹ cũng sẵn có
trong túi áo, xách tay viên kẹo ngọt hay thỏi sô-cô-la
the. Bây giờ, tôi hiểu, mẹ cần sự b́nh
an, để được yên thân sống. Trong
pḥng làm việc cuả bố, có lần tôi khoe : -
Con đă dịch được gần một nưả
quyển hồi kư cuả bà nội rồi, bố có
muốn đọc không ? Bố
lắc đầu : -
Bận lắm con ! Con không thấy đêm nào bố cũng
thức đến một giờ sáng mà măi công
việc không ngơi sao? Bị
cụt hứng, tôi hỏi, giọng khiêu khích : -
Bố thật không muốn biết về những
điều bà viết à ? -
Xưa rồi ! Với lại, bố chẳng cảm
thấy gắn bó chút nào với những con người
ở cái xứ sở xa lắc xa lơ đó, đến
ngay nước ḿnh… Bố
ngưng ngang câu chuyện, nhấc điện
thoại, bấm số, to tiếng với đầu dây
bên kia. Có vấn đề. Hàng đến trễ,
lại bị hư hại nặng. Tôi
nh́n bức tường treo đầy huân chương
và bằng tưởng lục cuả ông nội
lồng trong dăy khung kính mạ vàng trước khi
bỏ ra ngoài. Bao nhiêu năm nay, h́nh như bố chưa
bước chân quá khỏi biên giới nước Pháp,
không kể các chuyến đi giao dịch với khách
hàng, gấp gáp gặp gỡ, bận rộn thương
lượng, kư giao kèo, mời mọc ăn uống.
Bố thoả măn với cuộc sống hiện
tại, giưă ngôi nhà rộng, những đồi
nho hương hoả và hầm rượu mà nhăn
hiệu nổi tiếng tận Nhật Bản. Ở nơi
bố, có hay không ḍng máu phiêu lưu cuả ông
nội, ḍng máu ẩn nhẫn cuả bà nội,
những ḍng máu mà tôi cảm nhận được
không chút khó khăn, và ngầm kiêu hănh v́ được
thưà hưởng ? Đến lượt ḿnh, đôi
khi ngẫm nghĩ, tôi cũng không rơ, ở nơi
bố, tôi đă nhận được ǵ, như
những dấu chỉ di truyền đặc biệt
? Cổ
Ngư *
Saint-Cyr : trường đào tạo sĩ quan
cuả quân đội Pháp từ 1808 đến 1940,
toạ lạc gần Versailles, phiá tây-nam thủ đô
Paris. Sau khi bị oanh tạc trong Đệ nhị
Thế chiến, trường được chuyển
về Coẽtquidan (tỉnh Morbihan, vùng Bretagne) từ
1946. **
Chân đen : người Pháp gốc Âu, sinh
sống tại các nước Bắc Phi (nhất làAlgérie)
từ nưả sau thế kỷ 19 cho đến khi các
nước này tuyên bố độc lập, trong
thập niên 60 cuả thế kỷ 20. |
||