Chuyện kể cuả một người Pháp 
b́nh thường

"...Ngày bé, cứ mỗi ba tháng, tôi lại được về sống một tuần với ông bà nội. Muà hè, đong đưa trên chiếc xích đu lơ lửng treo dưới gốc anh đào già cỗi, ông mở rộng quyển bản đồ thế giới, gieo vào ḷng tôi giấc mộng hải hồ, kể bằng giọng trầm đầy sôi nổi những điều mắt thấy tai nghe. Mỗi xứ sở chi chít số, chữ, nằm ép thân trên trang giấy mỏng bỗng thoắt cựa ḿnh căng dài, trải rộng, dựng lên trăm ngàn phong cảnh kỳ diệu, với người dân địa phương trang phục lạ lùng, tập tục ngộ nghĩnh, để tôi, cùng với những chuyện kể có cánh kia, bay vào trời đất mới..."

Cổ Ngư Nguyễn Linh Quang

Sinh năm 1963 tại Sài G̣n. Truyện ngắn, thơ, biên khảo đă đươc đăng trên các báo Âu Du, Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Hợp Lưu, Chủ Đề, Việt, Văn Nghệ Ngàn Phương...

Một số ca khúc đă được tŕnh bày trong các buổi giới thiêu sáng tác mới do thư viện Diên Hồng tổ chức tại Paris, thu âm qua các giọng hát Don Hồ, Hạ Vy, Nguyễn Thành Vân...

Hiện làm việc ngành Điện Toán tại Paris, Pháp Quốc

Em biết không, ḍng máu thứ nhất bảo tôi là người da trắng. Nó chứng tỏ điều đó bằng cách ban cho tôi mớ tóc nâu nhạt, chiều cao một mét tám, xương to, vai ngang, mũi lộ, mắt sâu. Nó chứng tỏ điều đó khi ban cho tôi cái họ mà nhiều người Pháp có nhất và một làn da mỏng, chỉ chực ửng đỏ lên khi nắng gắt. Nhưng, ḍng máu thứ nhất này cũng cho biết, ở đâu đó trên cơ thể, có lẽ tôi có một ngón chân thô Bồ Đào Nha ở thuê làm mướn, một nưả lá gan Ba Lan-Do Thái lưu vong hoặc một vành tai Nga bảo hoàng quư phái. Nó kể cho tôi nghe về những mối liên hệ dây mơ rễ má trong phả hệ, về những nhánh ghép, cành cụt, những tổ tiên chết non hay mất tích. Nó cũng ám ảnh nhiều giấc mơ cuả tôi bằng nỗi kinh hăi nạn dịch tả, niềm hận thù dân tộc, nỗi thống khổ cuả mấy cuộc thánh chiến, châu chiến, thế chiến những thế kỷ đă qua. Ḍng máu da trắng chỉ cho tôi xem ông nội thiếu tướng, bà ngoại giáo sư, tóc nhạt mắt trong, kiêu hănh tự tin giưă những bức ảnh gia đ́nh, vẻ vang danh phận trên các bực thang xă hội. Nó rần rật luân lưu trong từng bắp thịt căng hồng, bơm phồng mỗi động mạch, tĩnh mạch, cả những mao mạch vi ti. Ḍng máu thứ nhất ngập tràn dưỡng khí.

Có lẽ qua ḍng máu thứ nhất, tôi thưà hưởng được từ ông nội tính mê phiêu lưu. Tốt nghiệp trường vơ bị Saint-Cyr *, ông cống hiến cả đời cho binh nghiệp. Vài ba bức h́nh vàng ố, mấy tấm bưu ảnh với dấu triện đen nhoè, như chút chứng tích c̣n sót lại, cho tôi biết được đôi điều về những nơi ông đă qua, đă sống, đă hít thở, chiến đấu, đổ máu, mang thương tích. Thủng phổi trong trận Điện Biên Phủ, mất nưả bàn tay trái ở chiến cuộc Bắc Phi, nhưng ông lại chết v́ tai nạn máy bay dân sự. Đối với tôi, đó là cái tang lớn đầu tiên, và là một mất mát khủng khiếp. Ngày bé, cứ mỗi ba tháng, tôi lại được về sống một tuần với ông bà nội. Muà hè, đong đưa trên chiếc xích đu lơ lửng treo dưới gốc anh đào già cỗi, ông mở rộng quyển bản đồ thế giới, gieo vào ḷng tôi giấc mộng hải hồ, kể bằng giọng trầm đầy sôi nổi những điều mắt thấy tai nghe. Mỗi xứ sở chi chít số, chữ, nằm ép thân trên trang giấy mỏng bỗng thoắt cựa ḿnh căng dài, trải rộng, dựng lên trăm ngàn phong cảnh kỳ diệu, với người dân địa phương trang phục lạ lùng, tập tục ngộ nghĩnh, để tôi, cùng với những chuyện kể có cánh kia, bay vào trời đất mới. Muà đông, tôi ngồi hàng giờ nh́n ông, tay phải cầm lơi chiếc nhíp, những ngón c̣n lại cuả bàn tay trái nắm chặt kính lúp, săm soi từng răng tem. Trong năm quyển album cuả ông, tem xếp tăm tắp như hàng lính ngày duyệt binh. Tôi thuộc ḷng lai lịch của nhiều con tem, khi v́ sự quư hiếm, khi v́ h́nh ảnh, biến cố mà nó ghi lại trên bề mặt. Nhưng trăm lần như một, ông đều dừng lại ở một con tem Đông Dương, có h́nh người đàn bà búi tóc, xếp bên cạnh sáu con tem cùng bộ, chỉ khác màu và giá tiền. Con tem không có dấu triện bưu điện mà loang lổ một bệt bầm. Vệt máu khô, cuả bạn ông, trên một lá thư chưa kịp gửi, ông lầm thầm kể như vậy. Từ đó, tôi hiểu thêm, đôi khi những con tem tầm thường lại có một giá trị tầng sâu không ǵ đổi chác được. Sau khi ông mất, bố thu dọn những thứ ông tích cóp trong các chuyến đi mà bố nghĩ là linh tinh, lẩm cẩm, đem cho, đem vứt. Riêng năm quyển album, bố bán được với giá hời cho một người chuyên sưu tầm tem cựu thuộc địa. Tôi mất hết mọi dấu vết cuả ông, chỉ giữ lại măi cảm giác rờn rợn mỗi lần bất chợt gặp ngoài phố những người mang trên mặt một bớt đỏ. Vệt c̣n tươi.

Ḍng máu thứ hai lại bảo tôi là người da vàng, em ạ. Nó lẩn trong tiếng ru cuả bà nội ngày tôi c̣n bé. Nó dạy tôi thói quen cầm đũa lùa cơm, chan canh, nhẩn nha nhai nuốt miếng thịt heo kho mặn khô cong và để lại đôi g̣ má nhô trên gương mặt, như một bằng chứng. Ḍng máu thứ hai âm thầm như cái bóng nhỏ thó cuả người đàn bà Việt, h́nh như suốt đời dấu bao nỗi muộn phiền vào trong đôi mắt. Tṛng mắt tôi v́ vậy đen thẫm, như đêm, như tóc của bà, như nỗi buồn trải dài trên những ḍng chữ li ti bà để lại mà măi sau này tôi mới có dịp khám phá và t́m hiểu. Ḍng máu này c̣n chỉ cho tôi, vào một ngày hè nóng bức thời thơ ấu, tuột săng-đan, quắp cây bút ch́ lăn lóc dưới đất bằng những ngón chân linh động, điều mà không một đưá bạn nào trong lớp làm được. Nó tẩm vào tôi t́nh hoài hương, cứ ngong ngóng một ngày được trở về xứ cổ tích, nơi bà nội tôi đă từ đó, bỏ đi.

… Làm ăn đương suông sẻ, bỗng đâu xẩy ra thiên tai vào khoảng giưă năm Bính Th́n. Một buổi sáng, anh Trúc đi mượn đâu được tờ báo, về đọc cho cả nhà nghe tin vua Duy Tân trốn khỏi Huế, đă bị tây bắt lại, truất phế và đày sang đảo Réunion bên Phi Châu, c̣n ông hoàng Bửu Đảo lên ngôi thay thế, lấy danh hiệu Khải Định Hoàng đế. Em Đàn hỏi : thế vua Duy Tân đi đày, có phải kéo hồ lô làm đường không ? Anh Trúc giả nhời : vua c̣n trẻ, mới mười mấy tuổi, nay sang đảo Réunion lại c̣n được đi học và tập cưỡi ngưạ giải trí nưă, vua tù sướng chán vạn chứ đâu như dân tù đi kéo hồ lô ! Em Đàn chúa ṭ ṃ, mở bản đồ Phi Châu xem đảo Réunion ở nơi nào. Đang t́m th́ ngoài phố xôn xao, một đám đông rùng rùng chạy qua, hốt hoảng kêu rống « Vỡ đê ! Vỡ đê ! ». Nh́n xuống cuối phố th́ thấy nước đương chẩy qua ngă tư, đổ dốc xuống những phố dưới thấp hơn. Cuống cuồng, ba anh em vứt cả báo, bản đồ, cả vua Duy Tân, vua Khải Định, rồi cùng mẹ, chị Vân, chị Tiểu khuân vác, dọn đồ đạc, hàng hoá lên gác xép, lên nóc tủ, lên bàn, lên giuờng, được cái ǵ hay cái ấy. Nhưng c̣n cót thóc mới cân, đành chịu để nước tràn vào, sau đó ít lâu mọc mầm, thối nát. Mẹ bần thần, cứ thở dài sườn sượt, chị Vân thút thít khóc suốt, c̣n chị Tiểu lâu lâu lại rú lên khi thấy một con chuột cống ngoi ngóp bơi đến gần chiếc chơng tre, chỗ chị ngồi. Hăi v́ tiếng kêu buốt óc cuả chị, con chuột lúng túng quay đầu bơi đi nơi khác, sau khi suưt chết đuối v́ đă b́ bọp uống mất mấy ngụm nước sông. Anh Trúc, quần xắn tận bẹn, thỉnh thoảng chạy ra chạy vào nghe ngóng t́nh h́nh, c̣n em Đàn t́m được ở đâu sợi cước, quấn vào đầu chổi phất trần, hỉ hả bắt chước Lă Vọng đi câu. Khoảng hơn mười hôm, nước mới rút khỏi nhà. May mà phố Châu Cầu cao, nước chỉ xấp xỉ mặt giường, chứ ở các phố khác, nước ngập đến mái, nhà cưả đổ nát và vô số người chết đuối. Thiệt hại thật ghê gớm, làm ăn cũng thua lỗ v́ các vùng lân cận bị tàn phá hết, đâu ai c̣n tâm trí để nghĩ đến việc mua bán sắm sửa nữa ! Mẹ lại lâm vào cảnh túng thiếu công nợ. Trước kia, tây An Hưng dọa bỏ tù, nay, tàu Bảo Hoà dọa bắt bớ. Nhận thấy Phủ Lư bị lụt nặng, không làm ăn ǵ được nưă, mẹ đưa cả gia đ́nh lánh về làng Sen trốn nợ. Được ít lâu, ăn uống không đủ, thuốc thang chẳng có, anh Trúc ngày càng xanh xao, bị hen suyễn trầm trọng. Sau một đêm cong người để niú kéo từng hơi thở, anh Trúc mất, lúc hai giờ sáng ngày mười chín tháng giêng năm Đinh Tỵ. Mẹ bảo trông thấy con lạc tinh chớp nhoáng bay ra khỏi buồng, c̣n em Đàn nằm trên chơng tre gần cưả nghe rơ con cú vọ đậu trên cây soan cất tiếng rúc đúng ba lần. Mộ anh Trúc để ngay ở băi đồng sau nhà, ba năm sau mới được cải táng về làng Mọc, gần mộ bố…

Tôi dần quen với những ḍng chữ nhỏ nhít đùn đẩy cuả bà, với cách sắp xếp từ ngữ theo mẫu tự và dấu thanh cuả quyển tự điển Việt-Pháp đă bắt đầu long gáy. Phủ Lư, phố Châu Cầu, làng Sen, làng Mọc bây giờ c̣n không ? Mẹ và các anh chị em cuả bà nội, người nào đă chết, người nào c̣n sống, họ ở đâu, gia đ́nh, con cái cuả họ ra sao… Thời gian và những biến động liên tục cuả vùng đất xa xôi ấy hẳn đă ném bao tàn phá khủng khiếp lên người, lên cảnh. Bà tôi, bị rứt khỏi cội rễ, thui thủi trong ngôi nhà thênh thang miền trung nước Pháp, bao nhiêu năm không t́m ra một người đồng chủng sống gần. Không được nói, không được nghe tiếng mẹ, bà đành viết, như một cách chống đối thụ động với thực tại, với lũ ngày tháng cứ lẳng lặng bào ṃn dần trí nhớ, xoá vết bao h́nh ảnh, và những âm, những từ lâu ngày không dùng đến dần tan biến trong các nếp gấp cuả bộ óc già nua. Điều lạ, là tôi không t́m ra bóng dáng cuả ông nội trong những ḍng chữ chi chít gần trăm trang giấy học tṛ kia. Tôi biết, bà đă bỏ cả gia đ́nh, xứ sở để theo ông, sống tạm bợ nhiều năm trong các trại gia binh thuộc điạ trước khi định cư ở Pháp. Tôi biết, ông đă cắt đứt gần hết những mối quan hệ với anh em, họ hàng, chỉ v́ muốn bảo vệ cho mối t́nh dị chủng cuả ḿnh. Tôi biết, cử chỉ, ánh mắt cuả họ vẫn c̣n quyến luyến nhau lắm, cho tận đến ngày ông đột ngột ra đi. Nhưng « con nai bé bỏng » cuả ông đă quyết định dừng những ḍng hồi ức lại ở một đêm rằm xa xưa, thời c̣n con gái.

… Bác Nhỡ là một người đàn bà goá ở cạnh nhà, làm nghề đổ nước với hai con, Đĩ Nhớn và Cu Con. Đưá út, Cái Hĩm, c̣n bé tẹo, Đĩ Nhớn vẫn phải chúc cho ăn. Nghe kể, chồng bác Nhỡ làm ăn buôn bán xa, măi tận xứ Sài G̣n, bệnh, rồi mất ở trong ấy năm kia... Xế chiều, sau khi dọn hàng, mẹ và chị Tiểu loay hoay thổi cơm, c̣n chị Vân đợi đến lúc tối lọ mặt người mới thắp lên điă đèn dầu thẩu tù mù, với một sợi bấc chià ra miệng điă, chỉ chực tắt khi có gió to. Chẳng những cả nhà xúm quanh ngọn đèn này mà cả Đĩ Nhớn và Cu Con cũng kéo vào lê la ngồi dưới đất tập đánh vần. Suưt soát tuổi em Đàn, lại chiụ khó, nên chỉ trong khoảng hai tháng, Đĩ Nhớn và Cu Con đă biết đọc, biết viết, mượn truyện Kiều, truyện Liêu Trai về đọc cho u Nhỡ cuả chúng nghe. Bù lại, hai chị em phụ dọn dẹp, quét tước, nhất là sẵn nước trong xe, chiều nào cũng đổ đầy cho một vại. Em Đàn chỉ việc bỏ vài mẩu phèn chua vào cái ống nưá rỗng, khuấy tṛn dăm phút là bùn đọng hết xuống đáy, nước trong veo, tha hồ nấu nướng, tắm rưả, giặt giũ. Ngoài những việc vặt, Đĩ Nhớn và Cu Con c̣n giữ bổn phận phải làm ngưạ cho em Đàn cưỡi, mỗi khi mưa lớn. Nước ao cạnh nhà dâng, tràn lên sân, đem theo hàng đàn điả đói. Em Đàn sợ điả lắm, bị bám vào chân là hét váng cả nhà, nên buổi chiều đi học về, đứng ở đầu ngơ, thấy chị em Đĩ Nhớn Cu Con, vội ơi ới gọi ngay, bắt cơng qua sân. Đĩ Nhớn thốc em Đàn lên lưng, nhắm mắt nhắm mũi chạy qua sân thật nhanh, v́ chính Đĩ Nhớn cũng sợ điả. Nhưng gặp Cu Con th́ thật lắm chuyện, nó lấy chân khua tung nước lên, bắt chước tàu Phi Long, Phi Phượng cuả ông Bạch Thái Bưởi, chạy chữ chi khắp sân, c̣n cố ư phóng qua những bụi cỏ đầy điả. Cười đuà chán chê, Cu Con mới hạ em Đàn xuống hiên, lấy chià vôi ăn trầu bôi vào dăm con điả bám trên chân, điả say vôi, rơi ra tức khắc.

Đêm ấy trăng tṛn vành vạnh, trời khô và trong, sông Ngân vắt ngang một dải. Không cần đến ngọn đèn dầu ta, em Đàn và Cu Con cũng có thưà ánh sáng để tập viết trên trang báo cũ. Cu Con bắt đầu học tiếng Pháp với «thầy giáo tí hon» Đàn, la maison cái nhà, la cour cái sân, la sangsue con điả, manger du riz ăn cơm, boire de l’eau uống nước… Học chán, hai anh em chạy ra sân đuổi nhau, cười như nắc nẻ. Trông lên trăng. Trăng đẹp thế mà lại không có người sống trên ấy, tiếc nhỉ ! Em Đàn đọc sách, kể rằng trên mặt trăng chỉ có đất và đá, không có dưỡng khí, không có nước, nên chẳng loài nào sống được cả. Thế c̣n Hằng Nga, chú Cuội, thiềm thừ, ngọc thố, đâu cả rồi ? Chẳng lẽ chỉ có trong truyện cổ tích và những giấc mơ thôi sao ?

Mẹ tôi là dâu ngoan cuả bà nội bao nhiêu th́ lại hờ hững lạnh lùng với bà ngoại bấy nhiêu. Mẹ xa cách bà ngoại, có lẽ v́ lối giáo dục mô phạm, đôi khi khắt khe đến mức nghiệt ngă cuả bà. Nỗi lo lắng, sự thiếu thốn trong cuộc sống hàng ngày thời Đức chiếm đóng đă để lại một vết hằn không ǵ bôi xoá được trong tâm trí cũng như cách ứng xử cuả bà với người chung quanh. Mẹ kể, thuở bé, đă nghe bà lập đi lập lại hàng trăm ngàn lần chuyện một ngày năm 1942, bụng chưả vượt mặt, một thân một ḿnh đạp xe chở bác Jacques lúc ấy chưa đầy hai tuổi, đi về hơn bốn mươi cây số, chỉ để đem vài kư bột ḿ đổi lấy nưả tá trứng gà và phó-mát. Tuổi thơ cuả mẹ đầy những lằn roi ngang dọc và bạt tai bầm má v́ tội dám dấu một xu tiền thối bánh ḿ để lén mua kẹo mút. Tuổi thơ cuả mẹ nhiều ngày xấu hổ trốn trong góc khuất sân chơi v́ phải mặc quần áo cũ cuả bác Jacques đi học. Không có búp-bê và gấu bông, quà Giáng Sinh chỉ là một quả cam bọc giấy thắt nơ lủng lẳng treo trên cành thông mua rẻ buổi chợ chiều. Ông ngoại đi biệt dạng, bà trút măi hằn thù bực dọc xuống đầu các con. Bác Jacques bỏ học ngang, trốn đi Clermont-Ferrand xin làm thợ cơ khí. Mẹ cắn răng lấy xong tú tài, thi đậu trường y tá, vưà học vưà ăn lương, và xin ngay vào nội trú. Thoát ly. Bà ngoại sống một ḿnh, tiếp tục độc đoán với học sinh cho đến ngày về hưu, cho đến ngày vào viện dưỡng lăo v́ không c̣n khả năng tự xoay sở. Tôi thỉnh thoảng theo mẹ vào thăm bà. Bà ngồi thẳng người trên xe lăn, tóc trắng bạc nhuộm ánh tím, hai tay khoanh chặt trên lớp chăn mỏng đặt trước bụng, môi mỏng, miệng mím, đợi cho hết buổi lễ trực tiếp truyền h́nh sáng chủ nhật mới cho phép con cháu vào thăm. Mẹ con, bà cháu gượng gạo chào hỏi, xă giao c̣n hơn đối với hàng xóm. Bao giờ bà cũng ngồi im, đợi mẹ lên tiếng trước :
- Mẹ khoẻ chứ ạ ?

- Cảm ơn. Nhờ ơn Chuá, tôi vẫn sống. Gia đ́nh anh chị thế nào ?

- Chúng con vẫn thường. Các cháu ngoan và học giỏi. Ở đây, họ trông nom mẹ có tốt không ạ ?

Bà ném tia nh́n soi bói về phiá tôi, như đánh giá lời nói cuả mẹ, trước khi trả lời.

- Ở đâu quen đấy, chị ạ. Tôi già rồi, đâu c̣n đ̣i hỏi ǵ nhiều. Ăn uống, vệ sinh, áo xống, chỉ cần tối thiểu. Tự làm được ǵ, tôi làm, bất đắc dĩ lắm mới phải gọi y tá. C̣n phiền đến chị và thằng Jacques th́ chẳng bao giờ tôi dám nghĩ đến cả !
Đến lượt mẹ im lặng. Cuộc đối thoại đi vào ngơ cụt. Bà với lấy quyển sách đặt trên chiếc bàn thấp cạnh bên, sột soạt giở, h́nh như cảm thấy hứng thú hơn với những ḍng chữ. Chúng tôi đứng dậy. Bà chỉ nhướng mắt, gật gật đầu rồi lại cúi ngay vào trang giấy. Tôi nh́n bà và so sánh với tấm ảnh nhỏ mẹ vẫn đặt trên gờ ḷ sưởi, để thấy sự tàn phá cuả thời gian, và có thể, cộng thêm cả nỗi cô đơn, thật khủng khiếp. Người đàn bà teo tóp, khô quắt, cứng đờ người khắc khổ kia may ra chỉ c̣n bằng phân nưả h́nh hài nàng thiếu nữ miệng tươi, ngực đầy giưă hè phố Paris một ngày ngập nắng, váy dài lấm tấm hoa, vớ ngắn trắng, tay găng, tóc nón thời tiền chiến. Con gái thủ đô, lại đang yêu, bà ngoại tôi trong ảnh thuở ấy phơi phới kiều diễm. Thảo nào ông ngoại không mê. Thảo nào mẹ tôi, dù lạnh nhạt, sợ, ghét bà, vẫn đều đặn phủi bụi cho khung h́nh, như lưu luyến một t́nh thương chưa bao giờ được dịp thụ hưởng. Bà ngoại đă thế, những thông tin lượm lặt được về ông ngoại lại c̣n mù mờ, vụn vặt hơn. Thuộc thế hệ « chân đen » ** thứ ba, đúng hai mươi tuổi, ông rời Algérie sang Paris du học. Yêu và lấy cô sinh viên Sorbonne đầu năm 1940. Lập gia đ́nh chưa được bao lâu, chiến tranh lan tràn, chiến luỹ Maginot sụp đổ, nước Pháp bị chiếm đóng. Cuối năm 1941, ông bỏ vợ con, t́m đường trốn sang Anh theo lời kêu gọi cuả tướng de Gaulle và mất liên lạc từ đó. Về sau, có người thấy ông trong đoàn quân từ Algérie vượt Điạ Trung Hải vào giải phóng Marseille. Có người nói được nh́n tận mắt tên ông trong danh sách nhóm khủng bố OAS ***. Kẻ khác thề sống thề chết đă chứng kiến cảnh, ông, từ chiếc tàu Kairouan chất chồng người tị nạn, lao xuống biển tự tử. Mới đây, lại có người đoan chắc với mẹ, ông đang sống đế vương ở Maroc, giưă một vườn cam bạt ngàn ven dăy Atlas. Nhưng chẳng ai cho được số điện thoại hay điạ chỉ liên lạc, tất cả đều là những thoáng qua để lại tiếp tục mất dấu. Ông ngoại, đối với tôi, đă trở thành huyền thoại. Những mẩu tin nghe được về ông ám ảnh tôi nhiều đêm dài. Từ h́nh ảnh bác Jacques, tôi dựng nên một mẫu tráng niên dong dỏng, có khuôn mặt xương, tóc dợn sóng, nước da ngăm. Hắn có cả thời thơ ấu hồn nhiên ở trang trại trồng toàn ô-liu, cùng bầy dê lang và lũ bạn nhỏ Ả-rập. Hắn có cả thời đôi mươi yêu điên mê đắm giưă thủ đô ánh sáng, hạnh phúc với vợ với con. Tiếp theo, là bi kịch. Tôi tưởng tượng ra con người ấy, trăn trở trong sự lưạ chọn giưă hai quê hương, hai dân tộc, và bị phản bội, từ cả hai phiá. Có phải chính tên bạn nhỏ Ả-rập ngày xưa, sau khi cùng hắn nằm gai nếm mật diệt phát-xít, nay nưả đêm xông vào nhà cắt cổ phanh bụng cha mẹ hắn ? Có phải mấy anh em, để trả thù, đă nổi lưả đốt rụi ngôi làng trù phú sát cạnh trang trại ô-liu, ngôi làng mà từ đó, mỗi ngày, đàn ông, đàn bà rời nhà đến trang trại cần cù vưà làm việc vưà tṛ chuyện, trẻ con ư ới gọi nhau đuổi theo bọn dê choai, chỉ chực tót lên vắt vẻo vặt lá trên những cành cao chót vót ? Có phải tất cả những điều đó đă biến hắn thành một gă điên, một tên khủng bố, chống cả người Ả-rập đ̣i độc lập lẫn chính quyền thực dân hèn yếu, chỉ muốn phủi tay rảnh nợ, quay lưng làm ngơ trước số phận bấp bênh cuả gần một triệu dân « chân đen » ? Hắn, cũng như gần một triệu con người kia, từ thế hệ này sang thế hệ khác, sinh sôi phát triển giưă đất, nước, không khí và mặt trời Algérie, nay đ̣i đoạn bỏ đi, sao đành ? Từng đoàn, từng đoàn, họ kéo nhau về Alger, về Oran, chen chúc trên bến cảng, đợi nhận một tấm thẻ xanh để xuống tàu ra đi. Những đồ đạc cồng kềnh không mang theo được, những chiếc xe mang bảng 9A, 9G bị đốt bỏ, nổ tung, văng mảnh, tàn tứ tán, khói đen che mờ mảnh đất để lại sau lưng, đất chôn nhau cắt rốn, đất hằn thù, đất cháy. Có phải từ những con tàu lúc nhúc người, gắng gượng chở gấp đôi, gấp ba lần trọng tải cho phép ấy, hắn, bất lực, hoảng loạn, đă lao vào sóng, đă được cứu sống, đă tiếp tục phẫn nộ khi đến bến Marseille ? Không c̣n là thành phố mẫu quốc phóng khoáng, mở rộng ṿng tay đón chào người sinh viên trẻ nhiều mơ mộng. Không c̣n là thành phố tang thương vụt hồi sinh, hân hoan choàng hoa vẫy cờ theo nhịp chân rầm rập cuả đoàn quân chiến thắng. Mười tám năm sau, Marseille ngày ấy hững hờ, biũ môi dè biủ, nghi kỵ, hắt hủi hắn và lũ người hồi hương đồng cảnh ngộ. Đất nước bên kia biển đóng xầm cưả lại sau lưng. Đất nước bên này biển dằn ḷng mở ra nẻo sống, dửng dưng, lạnh nhạt. Hắn, chối bỏ cả hai, một lần nưă, biến mất. Tôi tự hỏi, có phải để trở thành huyền thoại, trong trí tưởng tượng cuả tôi, ông ngoại đă phải sống quá nhiều kiếp người trong một kiếp người ? Tôi tự hỏi, nơi tôi, giờ đây c̣n giữ lại được chút nào không hơi hướm Algérie, mảnh đất mà mỗi lần chỉ mới nghe đến tên, bà ngoại đă lắc đầu khinh bỉ, mảnh đất mà một thời, ở đó, bà nội đă được triù mến gọi là « nàng Trung Hoa xinh đẹp », cũng là nơi ông nội mất một phần thân thể, ông ngoại mất cả niềm tin, gia đ́nh, sự sản ? Bây giờ, đứng bên em từ đảo Corse, mảnh đất đó chỉ cách tôi có một tầm tay với, gần gũi quá mà sao chừng xa xôi quá! Tôi cứ đăm đăm nh́n về hướng ấy, và kià, giưă nhấp nhô sóng muà hè Điạ Trung Hải trong biếc, vụt trồi lên đôi t́nh nhân, cô thiếu nữ miệng tươi, ngực đầy và người đàn ông đang loay hoay với chiếc máy ảnh. Thiếu nữ hân hoan bước tới, mắt ánh niềm yêu, váy hoa phần phật, c̣n người đàn ông đứng sau ống kính, người đàn ông sẽ măi măi không bao giờ tôi được trông thấy mặt, ngón tay khẽ bấm xuống. Clic ! Mặt trời loà chói. Ảo ảnh phút giây, hay dấu vết cuả cả một thời ? Tôi c̣n nhớ, lúc đă bắt đầu hiểu biết, có lần tôi hỏi :

- Mẹ có thương ông ngoại không ?

Mẹ đáp ngay, không do dự :

- Mẹ có biết ông là ai đâu mà thương, hở con ! Ngay cả h́nh ảnh, thư từ, giấy tờ ông để lại, bà ngoại cũng nói, đă xé bỏ hết cả rồi !

Và tiếp thêm :

- Thuở bé, mẹ cứ nghĩ sẽ suốt đời sống bất hạnh. Nhưng nhờ ơn Chuá, từ khi lấy bố, mẹ được đền bù. Không những mẹ bơi lội trong niềm hạnh phúc bố đem đến, mà c̣n hưởng cả t́nh yêu cuả ông bà nội nưă, con ơi !

- Nhưng, dù sao ông ngoại… Mà mẹ không định truy t́m tung tích ông ngoại sao ?
- Để làm ǵ hở con ? Điều đó có giúp ích ǵ hơn cho cuộc sống cuả mỗi người trong gia đ́nh ḿnh không, hay trái lại, mẹ sợ nó c̣n khơi gợi nỗi uất hận nơi bà ngoại con, c̣n làm nảy sinh thêm hàng trăm, hàng ngàn câu hỏi không lời giải đáp trong đầu mẹ và bác Jacques nưă ! Quyển sách đă sang trang từ lâu rồi, con ạ !

- Nhưng con vẫn muốn biết…

- Mẹ không ngăn con thay mẹ làm việc đó. Sách vở ở thư viện, hồ sơ trong bộ Ngoại giao, báo chí, phim tài liệu… Mà thật, con có ư định phung phí thời giờ hiếm hoi cuả con vào việc t́m lại dấu tích cuả một người lúc nào cũng t́m cách bôi xoá vết chân ḿnh, hay sao ?

Tôi không trả lời. Im lặng cuả tôi, là bày tỏ thái độ phản đối. Cũng im lặng, nước mắt rưng rưng, mẹ chậm răi bóc một chiếc kẹo cam, cho vào miệng. Từ khi khôn lớn, tôi thấy bao giờ mẹ cũng ăn mặc đẹp, hợp thời trang, sang trọng. Bao giờ mẹ cũng sẵn có trong túi áo, xách tay viên kẹo ngọt hay thỏi sô-cô-la the. Bây giờ, tôi hiểu, mẹ cần sự b́nh an, để được yên thân sống.

Trong pḥng làm việc cuả bố, có lần tôi khoe :

- Con đă dịch được gần một nưả quyển hồi kư cuả bà nội rồi, bố có muốn đọc không ?

Bố lắc đầu :

- Bận lắm con ! Con không thấy đêm nào bố cũng thức đến một giờ sáng mà măi công việc không ngơi sao?

Bị cụt hứng, tôi hỏi, giọng khiêu khích :

- Bố thật không muốn biết về những điều bà viết à ?

- Xưa rồi ! Với lại, bố chẳng cảm thấy gắn bó chút nào với những con người ở cái xứ sở xa lắc xa lơ đó, đến ngay nước ḿnh…

Bố ngưng ngang câu chuyện, nhấc điện thoại, bấm số, to tiếng với đầu dây bên kia. Có vấn đề. Hàng đến trễ, lại bị hư hại nặng.

Tôi nh́n bức tường treo đầy huân chương và bằng tưởng lục cuả ông nội lồng trong dăy khung kính mạ vàng trước khi bỏ ra ngoài. Bao nhiêu năm nay, h́nh như bố chưa bước chân quá khỏi biên giới nước Pháp, không kể các chuyến đi giao dịch với khách hàng, gấp gáp gặp gỡ, bận rộn thương lượng, kư giao kèo, mời mọc ăn uống. Bố thoả măn với cuộc sống hiện tại, giưă ngôi nhà rộng, những đồi nho hương hoả và hầm rượu mà nhăn hiệu nổi tiếng tận Nhật Bản. Ở nơi bố, có hay không ḍng máu phiêu lưu cuả ông nội, ḍng máu ẩn nhẫn cuả bà nội, những ḍng máu mà tôi cảm nhận được không chút khó khăn, và ngầm kiêu hănh v́ được thưà hưởng ? Đến lượt ḿnh, đôi khi ngẫm nghĩ, tôi cũng không rơ, ở nơi bố, tôi đă nhận được ǵ, như những dấu chỉ di truyền đặc biệt ?

Sáng nay, khi thức dậy, ngắm mái tóc xoăn từng sợi bồng bềnh nghiêng bên gối, tôi biết sẽ nói ǵ với em, chút nưă đây, giưă tiếng sóng biển ŕ rào. Tôi muốn, ít nhất một trong những đưá con cuả chúng ta sẽ có mái tóc như em, sống mũi như tôi, chứng tích cho niềm hạnh phúc cuả sự kết hợp vẹn toàn. Những ḍng máu cuả em, cuả tôi, từ nhiều thế hệ, từ nhiều nguồn, sẽ nhập vào nhau, hoà trộn thành một ḍng duy nhất. Ḍng máu người. Đỏ thắm.

Cổ Ngư 
PARIS 04.2003

* Saint-Cyr : trường đào tạo sĩ quan cuả quân đội Pháp từ 1808 đến 1940, toạ lạc gần Versailles, phiá tây-nam thủ đô Paris. Sau khi bị oanh tạc trong Đệ nhị Thế chiến, trường được chuyển về Coẽtquidan (tỉnh Morbihan, vùng Bretagne) từ 1946.

** Chân đen : người Pháp gốc Âu, sinh sống tại các nước Bắc Phi (nhất làAlgérie) từ nưả sau thế kỷ 19 cho đến khi các nước này tuyên bố độc lập, trong thập niên 60 cuả thế kỷ 20.

*** OAS (Organisation Armée Secrète, 1961-1963) : tổ chức cực hữu, hoạt động ngoài ṿng pháp luật kể từ sau thất bại cuả cuộc đảo chánh quân sự ngày 22.04.1961 tại thủ đô Alger. OAS dùng h́nh thức khủng bố để chống lại việc Pháp trao trả độc lập cho Algérie, nhắm vào việc ám sát các viên chức cao cấp cuả chính quyền mẫu quốc cũng như chính quyền thuộc điạ, cả những người Ả-rập đ̣i độc lập lẫn những người « chân đen » thoả hiệp.

trở lại