Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương |
Tôi là một sinh viên
trong số tương đối ít ỏi đă
thực tin rằng việc chống Cộng sản xâm
lược là việc đúng của Hoa kỳ ở
Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng. Tôi lần đầu
đến Việt Nam trong một giai đoạn
ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi quay về
đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy
rồi sau lên Đại úy rồi trở lại đó
hai lần làm việc tại một bộ phận
của toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt
Nam, là Văn pḥng Nghiên cứu về Bắc Việt và
Việt Cộng. Tôi có cơ hội được
đi tới nhiều địa phận tại
Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có chỗ chỉ
đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia. Sau khi
giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đă
viết cuốn sử quan trọng đầu tiên
bằng tiếng Mỹ về “Cộng sản
Việt Nam” . Trong hơn hai
chục năm, tôi đă có nhiều khóa giảng
dạy tại viện Đại học Virginia về
Chiến tranh Việt Nam. V́ thời giờ có hạn,
tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề
cập tới chủ điểm của bải
thuyết tŕnh, tôi xin có thêm một lời cảnh báo,
nhất là với các khán thính giả trẻ tuổi. Rằng đa
số lập luận “sáng suốt phổ biến”
của người Mỹ về Chiến tranh Việt
Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng
tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa
số những ǵ được giảng dạy
tại cấp trung và đại học lại gần
với thần thoại hơn là lịch sử. Tôi
chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí dụ quan
trọng: 1- Ngày nay, chúng ta
được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam
là “bất khả thắng”. Chúng ta đứng sai
chỗ. Tôi xin được góp tiếng bên cạnh
nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc
nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược
rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà
thực tế đă thắng vào đầu thập niên
1970. (Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng
đấy là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực
chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và
Hoa Kỳ cùng với người dân miền Nam). 2- Chuyện ǵ đă
xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi
xin đưa câu nói của người bạn thân
Douglas Pike: ông Douglas Pike đă quá văng, người mà
tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong
Sứ quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi tin
rằng chúng tôi có thể đă thắng cuộc
chiến Việt Nam. Một số thí
dụ sau đây sẽ chứng minh. Có một bài
viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo sư John
Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói
rằng: Các sử gia hiện tại công nhận
rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đă
thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại
thua cuộc chiến tâm lư tại Mỹ. Tôi xin
nhắc lại cho quư vị trẻ biết sau khi
bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vă
trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi
chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để
trấn giữ hiệp định. Nhưng quốc
hội với áp lực của “Phong trào Ḥa B́nh”
đă thông qua dự luật vào tháng năm 1973.
Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống
sử dụng bất cứ đồng nào trong công
quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và
Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đă
chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản
bội lời cam kết lịch sử của Hoa
Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng
sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm
việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ
Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần
giúp đỡ, họ đă có lượng vũ khí
trị giá vô số triệu đô la”. Đó là
sự thật. Việt Nam có phi cơ trực thăng,
xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà
họ không biết là, Việt Nam không có đạn,
không có xăng. không có phụ tùng. Đống đồ
đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi
chưa bao giờ kể cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán
từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp
Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị
Viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông
ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách
tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự
nhủ: “ḿnh phải cho nó biết tay, phải đấm
gục hắn ta và nói cho thế giới biết
rằng chúng tôi vừa mới phản bội chính
danh dự của ḿnh và bỏ rơi những người
đáng yêu.” Nhưng tôi đă
tự cản bản thân ḿnh v́ làm vậy sẽ
ảnh hưởng đến cương vị
Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành
người hùng. Không phải là việc làm đúng
đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là ḿnh đă
bỏ rơi cơ hội ấy. Sau khi Quốc
Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam,
Trung cộng gia tăng viện trợ cho Hà Nội.
Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được
cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”.
Đó là lư do của sự thất bại tại
chiến trường Việt Nam. Quân nhân Mỹ,
QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại
trận, mà thua v́ cái gọi là “tự do” của
Quốc hội Hoa Kỳ. Điềm thứ
2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan
trọng. Họ cho rằng Chiến tranh Việt Nam là
cuộc chiến “phi lư” tiến hành không lư do chính
đáng, do hiểu lầm về vụ đụng
độ không đáng kể ở Vịnh Bắc
Bộ. Thật sự là ngớ ngẩn. Tôi đă viết
450 trang tŕnh bày trong luận án đạt giải danh
dự năm 1966. Tôi đă ghi lại vào tháng Năm
1975 đảng Lao động của Cộng sản
Việt Nam đă quyết định từ Tháng Năm
năm 1959 là mở ra đường ṃn Hổ Chí
Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số
chiến cụ với mục đích lật đổ
chính phủ trong Nam. Đây là hành động xâm lược
quốc tế và vi phạm Hiên chương Liên
hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp
người dân miền Nam tự vệ v́ cùng một
lư do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly,
nhằm bảo vệ tự do của con người và
thực thi việc chống xâm lược đă
được ghi trong Hiến chương Liên
hiệp quốc. Trong cuốn sách
“Cộng sản Việt Nam” xuất bản năm
1975, Hà Nội đă nhiều lần xác nhận
sự thực đó từ Tháng Năm năm 1959 ngay
ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng
tôi đă thảo luận tại Đại học
Luật Virginia về vấn đề hợp pháp này.
Luật quốc tế và Hiến chương Liên
hiệp. Không thể thảo luận nối v́ Hà
Nội lập luận rằng đó là nội
chiến trong miền Nam VN v.v... hăy bỏ qua 1 số
điểm v́ thời gian có hạn. Tôi nêu lên hậu
quả của việc bỏ rơi VN. Tôi có thể nói hoài
về việc người Mỹ bỏ rơi Việt
Nam. Tôi là người đứng ngay trong trận khi
Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ
Angola v́ sự xâm lăng của Xô Viết. Kết
quả nạn nhân bị tử vong ở đấy
được ước lượng là không dưới
trăm ngàn người. Đến việc
Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người
chết. Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút
lui. Và lần đầu
tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai
của họ ở Mỹ châu La Tinh rằng tiến hành
“đấu tranh vơ trang” để cướp chính
quyền th́ cũng được, từ đấy
mới xảy ra nội chiến tại El Salvador,
Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác
trong vùng. Vô số người lại thiệt
mạng v́ chuyện đó. Một số lớn súng
M16 tịch thu được từ quân phiến
loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri là súng
bỏ lại tại chiến tranh VN của quân đội
Mỹ. Hà Nội đă cung cấp cùng với Xô
Viết qua đường Cuba rồi đưa
lậu qua El Salvador. Cho những người
nói chiến tranh VN là phi lư. Họ đă sai. Nhưng hôm nay tôi
không muốn tập trung về các vấn đề dù
rất quan trọng là đia dư chiến lược.
Tôi muốn nói về hậu quả của quyết
đinh của Hoa Kỳ đối với con người. “Phong trào ḥa b́nh”
- của phe phản chiến - trấn an chúng ta
rằng Hoa Kỳ chỉ lần rút quân và chấm
dứt chiến tranh th́ ḿnh sẽ phát huy “nhân
quyền” và “ngăn nạn tàn sát”. Tôi rất
ngại nói về những ǵ xảy ra tại Việt
Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, v́ trong hội trường
này và tại khu “Little Sàigon” có nhiều người
đă trực tiếp nếm mùi và biết rơ hơn
những ǵ mà mọi “học giả” Mỹ có
thể muốn biết. Nhưng có một số
sự thật th́ đă rơ ràng. Hăy trước tiên
nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi
sự chiến thắng của Cộng sản đă
thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ
nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê
Duẩn đă tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng”
Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường
học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times
đầy uy tín tại Luân Đôn đă báo cáo
sự thật: Cộng sản Việt Nam đă
biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù v́
họ có quá nhiều tù nhân. Điều 11
của Hiệp định Paris kư kết năm 1973
cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các
cá nhân hay tổ chức đă hợp tác với
một phe bên này hay bên kia”, và c̣n rơ ràng bảo
đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do
sinh hoạt chính trị và một loạt những
quyền thiêng liêng khác. Vậy mà QUYỀN TỰ DO BÁO
CHÍ Tháng Chín năm
1970, Trưởng pḥng Sài G̣n của tờ Christian
Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào
thời ấy - có viết một bài dài về
“quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới
bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có
một nền báo chí thuộc loại tự do
nhất Đông Nam Á...”. Tôi tin chắc rằng ḿnh
không là người duy nhất trong hội trường
này có thề xác nhận điều ấy. Riêng Sài G̣n
th́ đă có hơn ba chục tờ báo, và nhiều
tờ trong số đó kịch liệt chống chính
phủ. TÙ CHÍNH TRỊ Một trong các
vấn đề nặng nề nhất là những người
chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là
“chế độ phát xít” tại miền Nam đă
giam giữ hơn 200 ngàn “từ chính trị”. Khi
trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 -
cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi
chú trọng đến việc điều tra những
lời cáo giác trên. Tôi ghé thăm Linh
mục Chân Tín, nổi danh lănh tụ của “lực
lượng thứ ba” nhưng có lẽ là một cán
bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là t́m đâu
ra con số “202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta
bảo rằng ḿnh đă hỏi các tù nhân cũ và
gia đ́nh thân nhân của họ là họ nghĩ xem có
bao nhiêu tù Tôi cũng gặp
một lănh tụ khác của “lực lượng
thứ ba” là bà Ngô Bá Thành, người nói với tôi
rằng định nghĩa của bà về “tù nhân
chính trị” có thể gồm cả người nh
Sỉrhan Sirhan, là tay cán bộ người Palestine
đă ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm
1968. Mục đích của Rồi c̣n vụ
“chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn
Sơn, được họ mô tả như sau: ,”… xà lim chôn dưới
mặt đất với các đống sắt, đồng
trên trần thay v́ ở dưới. Mà trần xây
thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng
được …” .”… những
hố nhỏ được đào dưới đất
và che bằng chấn song sắt.” - “[Mấy hầm
đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù
thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng
và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng
thẳng người”
Ngay cả lực sĩ
Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong
của đội bóng rổ ocket’s ở Houston bên
Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân
- hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng
gặp khó khăn ǵ đề duỗi dài trong căn
xà lim một bề thước rưỡi một
bề ba thước của cái gọi lả
“chuồng cọp”. Ít nhất, một
số cán bộ chống Việt Nam đă từng cáo
giác chuyện “chuồng cọp” biết là họ nói
láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói
với một người trong số này rằng tôi
dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn đề
tự minh xem tận mắt và anh ta có vẻ khó
chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy
sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề
thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Ḥa ở
Sài G̣n. V́ vậy sau khi thăm
Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Ḥa và chưa
đầy 48 tiếng sau đă được tới
đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây
không là nơi mà ḿnh thích sống nhưng cũng
chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên
trong tôi không thấy dấu vết ǵ của những
sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói riêng
với vài người Mỹ đă từng ở trong
này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời
tố cáo nhưng tất cả đều cho biết
là họ không hề nghe thấy “tiếng gào thét
trong đêm vắng” hoặc được báo cáo
về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân. NGĂN CHẬN TÀN
SÁT Bi thảm nhất
của những người chống Việt Nam là lư
luận của họ, rằng cắt viện trợ
cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được
nạn tàn sát”. Họ sai lầm tới chừng nào.
Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người
từng được tuyển liên tiếp cho
giải Nobel Ḥa B́nh) ước lượng là
tổng số người bị giết sau khi
miền Nam được “giải phóng” lên tới
643 ngàn. - Khoảng 100 ngàn
bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản
nắm quyền. Qua quít v́ cũng chẳng có một h́nh
thức tạm bợ về “tiến tŕnh hợp pháp”
hay một toà án. - Giáo sư Rummel cho
là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết ngoài
biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ
độc tài và đàn áp đă trùm lên quê hương.
Cao ủy Ty nạn của Liên hiệp quốc th́ cho là
một phần ba những người vượt biên
bằng thuyền đă chết ngoài biển - một
số là v́ tầu quá đông người bị ch́m,
hoặc chết v́ đói, v́ khát. Nhiều người
tử nạn sau khi bị hải tặc cướp bóc
và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường
tŕnh rằng có khoảng 840 ngàn người tới
được Hong Kong hay các nước không Cộng
sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ
số “chết một phần ba” cho con số này th́
ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt
biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người
đă chết trên đường t́m tự do. Con
số không xa với ước lượng của Giáo
sư Rummel. Giáo sư Lewia Sorley,
tác giả cuốn sách có giá trị của một
dấu mốc là “A Better War” - một Cuộc
Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu
đến quư vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ
quan và binh lính của miền Nam cũ đă chết
trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ
Cộng sản lập ra. - Khoảng một
triệu rưởi người dân miền Nam bị
đày vào các khu “Kinh Tế Mới” để
sống trong những điều kiện nghiệt ngă
và chừng 48 ngàn đă chết tại đấy. Tôi
biết rằng rất đông người trong
cộng đồng này có thể kể lại
những kinh nghiệm thật về “Trại Cải
Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và khuyên các sinh
viên ở đây nên t́m ra họ, ghi nhận câu
chuyện của họ để làm chứng liệu
cho lịch sử. CAM BỐT Và c̣n chuyện
xứ Căm Bốt nữa. Khi Tổng thống
Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào
năm 1970 đề yêm trợ các đơn vị
Việt Nam Cộng Ḥa, khuôn viên các Đại học
Mỹ bị đóng v́ những cuộc phản đối
đầy bạo động chống lại vụ xâm
lược “phi pháp”. Thật ra, về pháp lư th́ y
như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành
viên của Nghị định thư” - Protocole States
- đă được cam kết bảo vệ
chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ
Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm
sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%,
khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống
Johnson tham chiến tại Đông Dương. quy
chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm
Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy
của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu
“Protocole States” của hiệp ước SEATO (South
East Asia Treaty Organization). Tôi thăm viếng Căm
Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều
năm đă viết về Khờme Đỏ.
Thời ấy, việc họ là những kẻ
sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng
nỗi với đồng bào Khờme của họ
thật ra chẳng c̣n là bí mật. Và dĩ nhiên, khi
tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975,
một trong những mục tiêu chính của tôi là
đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ
cô nhi tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa
trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là
đă chết. Không hề có một cuộc khảo sát dân số
tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực
sự có bao nhiêu người đă sống tại nơi
ấy. Con số ước đoán về nạn nhân
có những dị biệt lớn, với một
số chuyên gia th́ cho lả có hơn hai triệu. Tài
liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được
đọc là của Đại học Yale, nơi mà
Chương tŕnh của Yale về nạn Diệt
chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và
bọn đao phủ của hắn đă thảm sát
một triệu bảy trăm ngàn người - hơn
20% dân số toàn quốc. Một bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm
Bốt trên tạp chí Nattonal Geographic Today trong số tháng
Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: “Nhân
viên hướng dẫn giải thích rằng đạn
quá quư để dùng cho việc tàn sát. Ŕu, dao và
gậy tre thật đắc dụng hơn. C̣n về
trẻ em th́ bọn đồ tể chỉ đơn
giản giọng chúng vào thân cây”. Ông Douglas Pike đă quá văng, người mà tôi hoán
đỗi công vụ nhiều lần trong Sứ quán
Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân
sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự
cam kết của ḿnh là sẽ bảo vệ người
dân của các nước không cộng sản ở
Đông Dương: “Dù có ước lợng dè
dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương
bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là
tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là
hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới
mức chưa từng thấy, c̣n thê thảm hơn
những ngày chinh chiến”. Những ai muốn biết sâu xa hơn về
Chiến tranh Việt Đây là một vinh dự cho tôi khi được
thuyết tŕnh trước một cử toạ quan
trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng
này. Với những người giận dữ về
sự bội phản của nước tôi 35 năm
về trước, xin cho tôi được nói
rằng sự giận dữ này cũng là sự
giận dữ của bản thận tôi. Tôi yêu quư
Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ
tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng
khi đa số của Quốc hội phản bội
nạn nhân của Cộng sản xâm lược
họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh,
Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ
đă dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao
quư nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản
bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm
ngàn người Mỹ đă từng phục vụ
tại Việt Quan trọng nhất, hăy chú ư đến các cựu
chiến binh và những người sống sót trong
cộng đồng, hăy ghi lại lời kể
của họ khi ḿnh c̣n cơ hội. Nếu ḿnh làm
được như vậy th́ may ra những hy sinh
lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ
không bị uổng phí. Xin cảm tạ quư vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta.
|