Linh Vũ , Jan 24, 2009
Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như
những diễn đàn đều có post bài
dịễn văn nhậm chức của Tổng
Thống Barack Hussein Obama thứ 44 của Hoa Kỳ trong
đó ông đă nhắc đến điạ danh 'Khe
Sanh' vùng cực Bắc Nam Việt. Địa danh Khe
Sanh không chỉ có những người lính của hai
miền Nam Bắc Việt Nam biết đến mà
hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ
đă từng tham chiến ở VN đều không
thể quên được trong suốt hơn 42 năm
qua. Trận chiến Khe Sanh một trong những
trận chiến lớn nhất thế giới ngang
tầm vóc với các trận như Concord , Gettyburg và
Normandy . Một điạ danh nơi đèo heo hút gió
đă viết đậm nét trong trang quân sử Hoa
Kỳ và Quân Lực VNCH.
Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm
chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải
nhắc đến và người Việt chúng ta khi
nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi
xúc động. Và trong những bài dịch, một
số dịch gỉa không biết vô t́nh hay cố ư
đă bỏ sót điạ danh ' Khe Sanh' đă làm cho
nhiều người trong cộng đồng bất măn.
Sau đây tôi xin mượn bài viết của
Phạm Cường Lễ ' Khe Sanh 77 ngày trong năm
1968' để chúng ta nh́n lại trang sử Việt và
cho những ai chưa từng biết Khe Sanh là ǵ có cơ
hội t́m hiểu Khe Sanh như thế nào?
1. Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Một Ngh́n
Chín Trăm Sáu Mươi Tám
KHE SANH... một địa danh đèo heo hút gió ở
vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng Phi Quân
Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về
phía Đông của vương quốc Làọ Nếu
không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi
đây có thể sẽ được kể là
một trong những cảnh đẹp nhất trên lănh
thổ Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5 năm
1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này
bắt đầu bị giao động. Năm đó,
bộ đội Bắc Việt thiết lập
hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh để
khởi động công cuộc xâm lăng miền Nam
. Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay
tiền đồn. Nhưng v́ nằm gần biên
giới và giáp ranh Đường Số 9 --trục
lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt,
Bắc Việt, Lào-- nên Khe Sanh đă nghiễm nhiên
trở thành một trong những cứ điểm quan
trọng nhất trên bản đồ của cuộc
chiến Việt Nam.
Đến 1967, các hoạt động của Cộng
quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó
khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân
số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe
Sanh để trở thành một tiền đồn kiên
cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào,
cạnh bên Quốc Lộ 9, án ngữ cửa ngơ xâm
nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở
tỉnh Quảng Trị. Khi Hoa Kỳ tăng cường
lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh,
tướng Vơ Nguyên Giáp của Bắc Việt đă
có kế hoạch bao vây để biến nơi này
thành Điện Biên Phủ của người Mỹ.
Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh
nổi tiếng nhất nh́ thế giớị Nhưng
đó chẳng phải v́ nổi tiếng qua phong
cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành
nhất, hoặc có du khách ngoại quốc đến
thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đă
nổi tiếng v́ có nhiều trận đánh lớn
xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968.
Một Ngh́n Chín Trăm Sáu Mươi Tám là thời
điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở
đến nhiều nhất. Đó là thời điểm
của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt
Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên
toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥạ Trong
chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc
Việt đă được huy động để
bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng
200 tay súng Biệt Đ���ng Quân miền
Nam. Nhưng Khe Sanh đă chẳng thất thủ.
Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng
quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất.
o O o
Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao
quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp,
Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan
trọng ở tỉnh Quảng Trị. Năm 1962, căn
cứ này được Lực Lượng Đặc
Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng
đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám
thính đi sâu vào vùng đất Làọ Vị trí
chiến lược của Khe Sanh do đó đă gây
nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm lăng
miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. Năm
966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ
bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng
trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa
Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn
chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản
Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm
1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra
quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận
chiến lớn dành giật những ngọn đồi
được kéo dài đến gần cuối tháng
1 năm 1968 th́ chiến trường bùng nổ dữ
dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao
vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến
đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ Như đă nhắc
đến ở phần trên, quân Bắc Việt
bị đại bại với từ 10,000 đến
13,000 cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And
Campaigns In Vietnam, tr.130). Trong khi đó, lực lượng
trú pḥng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ.
Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị
thương. Về phía Việt Nam Cộng Ḥa, tổn
thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương
binh (Nguyễn Đức Phương: Những Trận
Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam,
1963-75, tr.175).
MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967
Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được
pḥng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại
đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc
đầu, hỏa lực tại đây chỉ
gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng
2 súng cối loại 4.2 inch. Lực lượng
yểm trợ gồm một đại đội
Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC
Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng
tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3.5
km). Và tất cả đều được yểm
trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở
hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần
đó.
Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng
độ với bộ đội Bắc Việt
ở một địa điểm về phía Bắc
của Đồi 861. Sau đó tinh t́nh báo cho biết
quân chính quy Bắc Việt đă tập trung đông
đảo quân số về vùng nàỵ Các đơn
vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức
được lệnh tăng cường cho Khe Sanh.
Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu
Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3") TQLC Hoa Kỳ
đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3
TQLC lập tức tăng cường. Sang đến
ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo
Binh có mặt tại căn cứ.
Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh
yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ
tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu
Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi
881. Đây là những cụm đồi nằm
gần Khe Sanh, và đă đư
ợc quân đội Hoa Kỳ chọn làm những
tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong
những ngày tiếp đến, lực lượng
Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm
hết những cao điểm lân cận: đó là các
ngon đồi 861, 881-Bắc, và 881-Nam.
Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm
chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh,
thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng
pḥng thủ được tăng cường thêm 3
tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để
thay thế cho Trung Đoàn 3. Trong khi ấy, từ 24 tháng
4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc
Việt tiếp tục công kích với nhiều màn
chạm súng lẻ tẻ. Các vụ đụng độ
này đă gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa
Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt
hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng.
Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong
một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến
giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng
các hoạt động. Áp lực quân sự quanh vùng
Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967,
Đại Tá Lownds được chỉ định
thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh. V́ t́nh h́nh lúc
đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn
TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép
rút khỏi căn cứ. Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn
3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh. Tinh t́nh
báo cho biết hoạt động của các lực lượng
Cộng Sản đă bắt đầu gia tăng quanh
vùng nàỵ
TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968
Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào pḥng thủ phía Tây
Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ đă phục kích và bắn hạ 5 cán bộ
Cộng Sản. Giấy tờ tịch thu cho b
iết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc
Việt, trong đó có cả một người
giữ chức trung đoàn trưởng. C̣n hai người
kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành
quân. T́nh báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng
hùng hậu của Bắc Việt đă có mặt
tại vùng nàỵ Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC
tại Khe Sanh lập tức được lệnh
phải bổ sung quân số.
Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh
dữ dội đă xảy ra trên Đồi 881-Nam (Ghi
Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881",
một ngọn nằm về hướng Bắc
của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng
Nam. Xem bản đồ). Ngọn đồi này
được pḥng thủ bởi một cánh quân
của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ
Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội
bảo vệ, và toàn thể lực lượng
của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam,
Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại
đội trưởng Đại Đội I) cho
biết đại đội của ông chỉ huy có
vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và
hai súng không-giật 106 lỵ.
Lúc trời vừa sáng c̣n dầy đặc sương
mù, một toán quân của Đại Đội I
lục soát ṿng quanh khu vực. Mọi vật trong không
gian và thời gian đang lắng đọng yên lành.
Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến.
Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động
giữ dộị Hai trung đội đi đầu
lọt vào ổ phục kích của địch quân.
Một rừng đạn đủ loại từ súng
cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay
veo véọ Trong ṿng chưa đến một phút mà
đă có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngă gục. Những người
c̣n lại nằm rạp xuống tránh đạn.
Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy
truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp
cứụ
Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức
đáp lờị. Những khẩu đại bác
được quay ṇng về hướng Đồi
881-Nam rồi ́ ầm tác xạ. Một rừng đạn
pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom
Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản
được đợt xung phong của Cộng quân.
Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng.
Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam.
Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục
Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc
là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn
3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng
vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này
chuẩn bị hợp sức với Đại Đội
I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát
về hướng Đồi 881-Bắc. Theo tài
liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này
đưa đến một vụ đụng độ
ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc
ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không
yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại
Úy Dabney đă đánh cho một tiểu đoàn
Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ
mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe Sanh
Veterans Home Page, Time Line).
Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng
bất ngờ xảy rạ Lúc 2 giờ chiều,
một viên trung úy Bắc Việt tên Lă Thanh Ṭng
thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu
thú. Trung Úy Ṭng cho biết đêm nay Bắc quân
sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi
861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng
tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C
của Bắc Việt đă vạch sẵn kế
hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh.
Đúng như lời khai của Trung Úy Ṭng, lúc 12
giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng
đại bác bắn vào Đồi 861. Trước
hết, kho chứa đạn của Thủy Quân
Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn
pháo kích rồi nổ tan. Kế đến, lực lượng
Cộng Sản gôm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên
đồị. Nhưng Đại Đội K/3/26
biết trước. Họ gờm súng chờ đợị.
Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng,
Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên
Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ tử
trận.
Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú pḥng
luôn chú tâm theo dơi các diễn biến trên Đồi
861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng,
họ nghe nhiều tiếng "depart" từ xa
vọng lạị Bầu trời đột nhiên
đổ cơn mưạ. Những hạt mưa to
bằng sắt thép với đường kính từ
81 đến 130 lỵ
Khi quả đạn đầu tiên lao vào căn
cứ, những người lính tại Khe Sanh lập
tức xuống hầm. Một số khác co lại
trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và
miệng đếm theo tiếng nổ của đạn
pháo binh. Trong phút chốc, kho chứa đạn
khổng lồ trong căn cứ với 1,500 tấn
đă phát nổ tan tành. Phi đạo ở Khe Sanh
với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới
lung tung, bị rút ngắn lại chỉ c̣n 2,000 feet
(609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc
vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống
phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ
ở Khe Sanh.
Ngày 22 tháng 1/1968, t́nh h́nh nguy ngập. Tiểu Đoàn
1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh.
Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn
9. Họ đă nổi danh trong trận đánh tại
Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào
năm 1967 vừa quạ
Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác
được không vận vào Khe Sanh. Đó là
Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại
Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị
bộ chiến già dặn, đầy gan ĺ và kinh
nghiệm của Việt Nam Cộng Ḥạ. Trách
nhiệm của họ là tạo ṿng đai pḥng thủ
tại khu vực ở hướng Đông ở căn
cứ Khe Sanh.
CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN
CHIẾN TẠI KHE SANH
20 tháng 1: Đụng độ mạnh giữa
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội
Bắc Việt trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều
thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy
Bắc Việt ra đầu thú và đă cho biết
kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn
cứ Khe Sanh.
21 tháng 1: Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn
trong căn cứ nổ tung, phi đạo bị hư
hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các
binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy lui
cuộc tấn công của bộ đội Bắc
Việt.
22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng
viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ.
26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH
của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe Sanh.
Đây là lực lượng tăng viện sau cùng
trong khoảng thời gian căn cứ bị bao vâỵ
30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng
Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lănh
thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xă bị tấn
công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố
xảy ra những vụ đụng độ lớn
nhất.
6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và
chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực Lượng
Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10
km) về hướng Tâỵ Ngày hôm sau, Làng Vei
thất thủ.
9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên
Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134
xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử
thương.
11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống
Khe Sanh. Một chiếc nổ tung v́ trúng đạn pháo
kích. Chiếc c̣n lại gấp rút được
sửa chữa rồi bay "khập khễnh"
về phi trường Đà Nẵng b́nh an.
21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào ṿng đai pḥng
thủ tại khu vực hướng Đông ở Khe
Sanh. Nhưng không chọc thủng được
bức tường pḥng thủ kiên cố của
Biệt Động Quân VNCH.
Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường
độ pháo kích của Cộng quân tại Khe Sanh quá
ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất
là móc các kiện hàng vào những cánh dù rồi
thả xuống từ các vận tải cơ trên ṿm
trờị
23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn
đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo kéo dài
8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân
Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người khác
bị thương.
29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở
cuộc tấn công ác liệt vào ṿng đai pḥng
thủ ở phía Đông căn cứ, nhưng gặp
phải mức kháng cự mănh liệt của Tiểu
Đoàn 37 Biệt Độ
ng Quâ n. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân
bị đẩy luị Họ để lại 70 xác
chết trên trận địạ
1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân
PEGASUS (của quân đội Mỹ) và LAM SƠN 207 (của
quân đội VNCH) được tiến hành.
Chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 4/1968. Căn
cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải
tỏạ
.
Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600
bị thương, Việt Nam Cộng Ḥa: 34 tử thương,
184 bị thương, Cộng Sản Bắc Việt:
10,000 đến 13,000 tử thương.
Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu
đoàn thiện chiến Biệt Động Quân
Việt Nam, Khe Sanh lại được pḥng thủ
bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm
một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội
đại bác 105 ly, và một pháo đội đại
bác 155 lỵ Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng
loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos
với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi
chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng,
Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội
đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo
đội 175 ly từ căn cứ Carroll.
Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng
hùng hậu không kém. Tướng Vơ Nguyên Giáp lúc
ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài
ra, ông c̣n có thêm một số đơn vị
biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị
Cộng Sản được ghi nhận như sau:
Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc
của Đồi 881 Bắc
Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng
quân về phía Tây Nam của Khe Sanh
Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang
có mặt ở gần vùng phi quân sự, cách Khe Sanh
15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc
Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía
Bắc của căn c
ứ hỏ a lực Rock Pile
Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm một
đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng
hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh
Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động
chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa
(thường được gọi là cuộc
Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lănh
thổ miền Nam Việt Nam. Tại những thành
phố lớn, các đơn vị Việt Cộng
cố các trận đánh lớn để gây
tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, t́nh h́nh tương
đối yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh
chỉ kéo dài được 6 ngàỵ
Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên
đồi 861Ạ Một tiểu đoàn Việt
Cộng (thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc
tấn công. Địch quân chiếm một phần
tại ṿng đai phía Bắc trong khu vực trách
nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau
đó, Bắc quân bị đánh bật trở ra trong
m�
��t cuộ c phản công quyết liệt
của các binh sĩ Cọp Biển. Tổng kết
trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía
bên kia Cộng quân thiệt mất 109 cán binh (Khe Sanh
Veterans Home Page: Time Line).
Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào
trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng
Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng
Tâỵ Quân Bắc Việt có cả chiến xa PT-76. Và
đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp
Bắc Việt trực tiếp lâm chiến tại
miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho
Cộng Sản miền Bắc, các xe PT-76 chạy trên
xích sắt, được trang bị ṇng súng 76 ly, và
có khả năng lội nước. Tuy vỏ bọc
bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ
cứng của thép cũng đủ để ngăn
chận các loại đạn trung liên từ 7.62 ly
trở xuống.
Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng
quân dẫn đầu. Theo sau là một tiểu đoàn
bộ đội yểm trợ. Đây là một
đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới
quyền điều động của Sư Đoàn
304. Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ
một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị tiêu
diệt, nhưng quân trú pḥng không ngăn nổi
trận biển người của đối phương.
Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân
Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong số
24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ.
Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc
Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung
Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do
Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn
giữ. Các vị trí pḥng thủ trên đồi
bị Bắc quân tràn ngập. Trong t́nh huống nguy
cập, các binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm
trợ. Không chút chậm trễ, các khẩu đại
bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi
64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC
khác được lệnh phải đến tiếp
viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ
máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt
chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.
Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc
Việt tạm ngưng các hoạt động để
bổ sung quân số. Chiến trường lắng
dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn
cứ Khe Sanh lại bị tấn công. Lần này,
một đại đội địch quân gây áp
lực tại pḥng tuyến của Tiểu Đoàn 37
Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu
VNCH đă vững vàng cố thủ. Trận này
kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của
đối phương đă bị Biệt Động
Quân bẻ gảỵ
Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo
binh để phục hận. Một ngh́n ba trăm
(1,300) quả đạn đủ loại đă
được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart: Battles And
Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8
tiếng đồng hồ này đă làm nổ tung
một kho tồn trữ đạn trong căn cứ,
gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người
khác bị thương.
Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hăm Khe Sanh chợt
bùng nổ với một trận bộ chiến sau cùng.
Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng
quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào
mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách
nhiệm của các binh sĩ Biệt Động Quân
VNCH.
Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường,
và sau ba lần trận biển-người xung phong,
tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá
được pḥng tuyến thép của lính "rằn
rị" Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt
Động Quân b́nh tĩnh chiến đấụ
Họ đợi đối phương xung phong đến
thật gần rồi mới khai hỏạ
Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón
sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng. Súng trường
M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet).
Lựu đạn đeo ở bụng, trước
ngực, hoặc choàng vaị Băng đạn sát bên
người, ở hông và đầy trong túị Khi
Bắc quân tấn công, tiểu đoàn Biệt Động
Quân chống tră mănh liệt. Kinh nghiệm chiến
đấu và sự gan dạ của họ chính là
một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy
lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm
sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng
rào kiểm điểm t́nh h́nh. Họ đếm
được 70 xác chết địch quân trên
trận địạ
Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có
ghi lại một cách ngắn gọn về trận
đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động
Quân như sau: "Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi
tấn công duy nhất được nhắm vào ṿng
đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt
Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến
gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón
họ bằng một rừng Claymore (ḿn chống cá nhân),
lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân
chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng
chịt bên ngoàị Bảy mươi (70) xác chết
của họ v́ vậy đă được xem như
như một công cuộc bại thảm nặng
nề."
Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận
chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và
kư giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu
đựng bền bỉ của người lính
Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng ít ai biết
đến hoặc nhắc nhở ǵ về sứ
mạng pḥng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt
Động Quân. May mắn thay, công trạng của
họ đă được Trung Tướng Phillip
Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War,
The History 1946-75": ".. .[Tướng] Giáp tưởng
tấn công vào tuyến pḥng thủ của Biệt
Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh
vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể
gọi là dễ dàng được bởi v́
đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là
một đơn vị thiện chiến rất
giỏị"
Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến
rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng
của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng
4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt
đầụ Cuộc hành quân mệnh danh
"PEGASUS" (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của
Việt Nam Cộng Ḥa) được khởi động
với sự tham dự của nhiều đơn
vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và
Nhảy Dù Nam Việt Nam . Trục tiến quân giải
tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc
theo Quốc Lộ 9.
Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn
được giải tỏạ Giấc mộng
tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai
của Vơ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh
đoàn dưới quyền chỉ huy của ông
bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị
Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới
hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không
yểm.
Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam
đều có nhiều nhận xét khác nhau về
chiến thuật của đôi bên. Một lập
luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa
Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng
Sản có thể rănh tay tấn công các vùng khác.
Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp
bao vây Khe Sanh với lư do muốn tạo dựng
một chiến thắng như Điện Biên để
buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi
đầu hàng. Trong khi đó, một số tài
liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ
rằng tướng Westmoreland đă "tương
kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ
tập trung nhiều binh đo
àn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa
lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt.
Nhưng lịch sử đă không theo vết xe lăn
của Điện Biên Phủ 14 năm về trước.
Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương
tiện để pḥng thủ, yểm trợ, và
tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn
nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đă
không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại c̣n bị
thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị
Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương
diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng
ngàn thương binh.
|