Người Việt ở Berlin
và bức tường h́nh trụ |
Thực
ra, sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác. Theo
ước đoán của chính quyền Đức,
số người Việt hiện nay ở Tiểu
bang Berlin xấp xỉ trên 40 ngàn , trong đó, số
người có đăng kư nhân khẩu chính thức
là khoảng 12 ngàn (Tây Berlin khoảng 4 ngàn, Đông Berlin
khoảng 8 ngàn), kể cả gần 3 ngàn người
đă nhập quốc tịch Đức. Như vậy,
gần 3/4 số người Việt ở Berlin không có
giấy tờ hợp lệ - họ là những người
đang xin tỵ nạn (nhưng chưa hoặc không
được công nhận tỵ nạn) tại các
tiểu bang khác dồn về Berlin để t́m cách làm
ăn. Đối với mọi sắc dân xin tỵ
nạn, nhà nước Đức đều có trách
nhiệm lo chỗ ở (tại Berlin nói riêng và các
tiểu bang phía Đông nói chung, là các chung cư trung b́nh
2-3 người một pḥng), với chi phí chỗ
ở khoảng 300-500 € mỗi tháng. Nếu tính
cả phí tổn bảo hiểm y tế b́nh quân 200
€/tháng và các dịch vụ xă hội khác (như
giảm giá tàu xe, miễn phí tư pháp,...) và tiền
ăn mặc 160-200 €/tháng được phát (gọi
là trợ cấp tỵ nạn), th́ chi phí của chính
quyền cho một người xin tỵ nạn là
khoảng xấp xỉ 1000 € mỗi tháng. Tuy nhiên,
phần đa người xin tỵ nạn Việt nam
c̣n rất trẻ, c̣n rất nhiều nhu cầu, nên
gần 200 € tiền mặt đối với họ là
không đủ. Bà Meinbach- nhân viên xă hội một
trại tỵ nạn dành cho thanh thiếu niên ngay
gần trung tâm Berlin "hết sức ngạc nhiên
khi thấy hầu hết các cô cậu tỵ nạn
Việt nam đều xài quần áo mác-mỏ đắt
tiền và hút thuốc lá sang chứ không dùng
thuốc quấn". Lư do đơn giản là
hầu hết dân xin tỵ nạn Việt nam đều
không trông chờ (có nhiều người c̣n "khinh")
trợ cấp tỵ nạn; và họ đều t́m
kế kiếm tiền riêng. Nơi
trú ngụ của dân xin tỵ nạn từ xa đến
ở Berlin là nhà người quen hoặc là những căn
hộ nhỏ nhờ người quen thuê hộ. Điều
kiện ăn ở và sinh hoạt trong những
"tổ hợp chung chạ" bất hợp pháp này
cũng chẳng khá hơn so với ở chung cư
tỵ nạn, có những căn hộ đứng tên
một người thuê, nhưng tối đến là
9-10 người lăn lóc trên những tấm đệm
trải tạm. "Nhưng dù sao, người ḿnh
ở với nhau vẫn cứ vui hơn, và cũng
tiện cho chuyện làm ăn hơn"- một thanh
niên 19 tuổi cho biết như vậy. Hàng xóm người
Đức "không thể tưởng tượng
nổi" và không dễ chấp nhận hiện
trạng "vui vẻ" này, nên chỉ những hăng
nhà chả mấy đàng hoàng mới dám "nhắm
mắt" cho thuê những căn hộ trên. Điều
không may cho con số 3 /4 này là, theo luật tỵ
nạn của Đức, họ chỉ được phép
cư ngụ và di chuyển trong phạm vi địa
phương (quận, huyện, thành phố) mà họ
đă nộp đơn xin tỵ nạn, và trong
thời gian chưa hoặc không được
chấp nhận tỵ nạn này (tỷ lệ người
Việt được công nhận tỵ nạn
tại Đức là 2-3 phần ngàn), việc xin
được giấy phép lao động, đặc
biệt ở các tiểu bang phía Đông, là một điều
không tưởng. V́ vậy, 3 /4 người Việt
ở Berlin phải ở "chui", và ngoài việc
ăn trộm hay bán thuốc lá lậu thuế,
nếu kiếm được việc làm trong một
cơ sở kinh doanh của người Việt nam nào
đó, th́ cũng là làm "lậu". Đối
với số người này, việc bị cảnh sát
bắt giữ và đuổi về vùng quy định
là một nguy cơ luôn lơ lửng trên đầu. Tại
Berlin, cũng có khoảng 2000-3000 người Việt
nam được đăng kư xin tỵ nạn và
tạm dung- phần lớn là thanh thiếu niên
hoặc những người khai bớt tuổi thành
thanh thiếu niên, và cũng có những người
từ nơi xa đến đây không phải để
làm ăn phi pháp. Những người này "chui"
vào Berlin mấy triệu dân này "để có
bạn cho vui" (Nhiều trại tỵ nạn
tại các tiểu bang khác phía Đông được tu
sửa từ những trại lính Liên Xô cũ, ở
tách hẳn khỏi những khu vực dân cư).
Một cô gái trẻ cho biết: "Mấy đứa
bọn em suốt ngày nằm xem chương tŕnh TVT 4
hoặc băng phim tập Trung quốc, Việt nam.
Thực ra, cũng có đứa thích xem chương tŕnh
Đức, nhưng mù tịt tiếng, nên đành
chịu...C̣n quay trở về Việt nam ư? Về
đó, thần thế không có, chúng em biết làm ǵ?
Mất bao nhiêu tiền mới sang được đến
đây, nay về tay không, biết ăn nói với cha
mẹ và làng nước ra sao? Thôi th́ người ta
cho ở ngày nào th́ biết ngày đó vậy!".
Rồi ở đây, cuộc sống bất ổn
đến mức bấp bênh, khép kín đến
mức bế tắc này sẽ dẫn những chàng
trai, cô gái đó tới đâu? Cảnh sát Đức
cho biết: trong người Việt, nạn nghiện
ma túy đă trở nên trầm trọng và đă có vài
cô gái Việt phải bán thân. So
với số người này, 1 /3 đồng bào c̣n
lại (mà bà con tỵ nạn gọi gộp lại là
"kiều", Việt kiều- để chỉ
những đồng hương ở phía Tây, hay là
"dân có Pass", dân có hộ chiếu - giấy
tờ với dấu của Đức cho phép thường
trú, dùng để chỉ dân "cựu lao động
hợp tác" phía Đông ), có những quan tâm hoàn toàn
khác. Tại nhà thờ đă kể trên, câu chuyện
giữa những người được gọi là
"dân Tây Berlin" chủ yếu xoay quanh chuyện xă
hội Đức, chuyện công sở, hội họp,
chuyện tổ chức dạ hội Party,... Đến nước
Đức từ trước 30.4.1975 (phần đa là
sinh viên du học) hoặc sau đó (là thuyền nhân),
họ đă được chính quyền sở
tại ưu ái khá nhiều. Hoàn toàn không phải lo
đến chuyện quy chế lưu trú, họ dễ
dàng được tham gia các chương tŕnh học
tập, đào tạo và nhanh chóng ḥa đồng vào
xă hội Đức. Phần đông những người
này thạo tiếng Đức, có công ăn việc làm
ổn định, và ở ngay cái đất nước
c̣n khá là "quốc gia chủ nghĩa" này,
nhiều người trong họ vẫn có vị trí
nhất định trong xă hội, có người là
giáo sư viện trưởng y khoa, có người là
chuyên viên cao cấp của công ty lớn,...Vậy nên
chẳng có ǵ làm lạ khi nỗi đắn đo
của họ khi hè đến là đi nghỉ mát
ở Hy lạp hay ở Hoa kỳ, hoặc là cuối
tuần này đi khiêu vũ ở đâu. Nếu ai
trong họ không may bị thất nghiệp quá lâu, th́
việc nhận trợ cấp xă hội đảm
bảo cuộc sống cũng rất nhẹ nhàng.
Trong con số hơn 4 ngàn người Việt ở Tây
Berlin đă có khoảng gần 3 ngàn người là công
dân Đức, và nước Đức luôn phải có trách
nhiệm đối với họ. Cũng
may, nhờ tháo vát, chịu khó, người bên Đông
đă dần dần ổn định cuộc
sống, thu nhập kinh tế của họ đă khá
cao tuy sức lực bỏ ra quá lớn. Nhiều người
trong họ tâm niệm: "Hy sinh đời bố,
củng cố đời con", dồn sức cho
sự học hành của con cái. Tỷ lệ học
sinh Việt nam học giỏi, được vào Đại
học rất cao, âu cũng là một nét đặc
biệt của những người di dân gốc
Việt từ trước tới nay. Có điều,
khi vào được Đại học, sự vượt
trội của người Việt không c̣n, rất
hiếm có sinh viên Việt nam nào học Đại
học một cách xuất sắc. Có người lư
giải hiện tượng này bằng thực tế
những sinh viên đó nói chung là sinh ra, lớn lên
ở Việt nam, và đă sang Đức vào những năm
thân nhân c̣n chưa ổn định. Vậy là,
về mặt học hành và sự nghiệp, người
Việt ḿnh lại phải kiên tâm hy vọng vào thế
hệ sau - vào những đứa con sinh ra và lớn lên
ở Đức. Nhưng
thực tế, điều này h́nh như cũng chỉ
là một kỳ vọng. Một số thăm ḍ xă
hội cho thấy, với cách nuôi dậy con em c̣n ít
nhiều nặng tính Khổng giáo, với khả năng
tiếng Đức khá yếu, với sự thiếu
hụt về kiến thức và ư thức xă hội nói
chung, người Việt dường như đang chỉ
có khả năng đóng góp cho cộng đồng
một giới trẻ chăm chỉ nhưng ít sáng
tạo và hầu như chưa có đầu óc phê phán
- một trong những động lực của xă
hội phương Tây. Chị T., một người
Việt rất hăng say hoạt động xă
hội và chính trị tại Berlin, khi t́m kiếm
thiếu niên người Việt cho Kinderparlament (Nghị
viện Trẻ em-một h́nh thức của chính
quyền, tụ hợp những thiếu niên có quan tâm
và có năng khiếu về chính trị, xă hội
để luyện tập việc tŕnh bày và đề
xuất phương án giải quyết các vấn
đề địa phương và quốc gia), đă
rất buồn bă và thất vọng: "Theo tiêu
chuẩn của Berlin, th́ chỉ thiếu niên từ 12
đến 16 tuổi mới được tham gia Nghị
viện trẻ em. Từ 16 tuổi trở lên, thanh niên
đă phải có ư thức và hoạt động chính
trị rơ ràng. Nhưng, thanh thiếu niên Việt nam th́
cho đến 18 tuổi, vẫn hết sức thơ
ngây trong chính trị và xă hội. Có một số
thanh niên Việt nam bắt đầu quan tâm đến
các vấn đề trên, th́ họ đă ở
lứa tuổi 19-20, tức là không đủ tiêu
chuẩn vào Nghị viện Trẻ em". Nghĩa là,
về tầm vóc xă hội, người Việt ḿnh
ít nhất cũng "trẻ em" hơn người
Đức từ 3 đến 4 tuổi. Nh́n
kỹ, thực trạng "tụt hậu" trên
đây không phải chỉ có ở phía Đông, mà cũng
là một điều phổ cập cả ở phía Tây.
Mặc dù cuộc sống coi như ổn định
đă lâu, nhưng sự học hỏi của
giới trẻ Việt nam ở Tây Berlin nói riêng và Tây
Đức nói chung không hề hơn giới trẻ phía
Đông và họ cũng không vượt trội cả
về ư thức xă hội. Đó là một sự
giống nhau, một sự "thống nhất"
của người Việt Đông- Tây; và đáng
buồn là ở chỗ "chưa thể bằng người".
Dù sao, một điều dễ nhận thấy là
thanh niên Việt nam phía Tây đă hội nhập sâu hơn
vào cuộc sống nước Đức - họ tự
tin hơn, hồn nhiên hơn. Trong khi nhiều sinh viên
Việt nam bên Tây đă theo học, đă tốt
nghiệp những ngành "bay bổng" như vũ
trụ hàng không, nghệ thuật biểu diễn,...th́
sinh viên bên Đông chủ yếu vẫn theo các ngành
"truyền thống", "ăn chắc mặc
bền" như tin học, kinh tế, kinh doanh,...
Ở đây, tác động của những ông
bố, bà mẹ phía Đông "đă một thời
khốn khó" đóng một vai tṛ không nhỏ. H́nh
như, để bù lại sự cực nhọc và
thiệt tḥi, bà con bên Đông có một chốn đi
về khá thuận tiện và rẻ tiền là Đất
Việt - nơi quê nhà cũ. Từ vài năm gần
đây, khi chính sách đối với "kiều bào"
của chính quyền trong nước thay đổi, người
bên Đông (tuyệt đại đa số vẫn dùng
hộ chiếu Việt nam) có thể qua lại
Việt nam bất cứ lúc nào mà không cần
phải xin thị thực tại Ṭa Đại sứ.
Hầu hết số bà con này c̣n cha mẹ, anh chị
em trong nước nên sự đi lại thuận
lợi này càng thiết chặt hơn mối quan
hệ của họ đối với Việt nam.
Nhiều người trở thành chỗ dựa kinh
tế quan trọng cho thân nhân trong nước, có người
mang tiền về mua nhà cửa, khách sạn cho thuê,
ngoài thu nhập tại Đức c̣n có lợi tức hàng
ngàn đô la mỗi tháng trong nước; người
ít tiền hơn th́ chí ít cũng c̣n một góc nhà,
một miếng đất cha mẹ, ông bà chờ
đợi. Rơ ràng, sự gắn bó này, ngoài mặt t́nh
cảm c̣n có một mặt không kém phần sắc
đậm là vật chất. Theo một thống kê không
chính thức, gần 80% người Việt tại
Đông Berlin nói riêng và tại Đông Đức nói chung có
một số vốn nào đó c̣n "cắm"
ở Việt nam. Cùng
với "truyền thống lá rụng về cội",
cái vốn rất vật chất này cũng là một
trong những nguyên nhân sự ḥa nhập rất
yếu của người Việt bên Đông vào xă
hội Đức. Cô Jane Chang- một nhà xă hội
học người Hoa kỳ gốc Trung quốc, sau
khi t́m hiểu người Việt tại Đông Đức
đă than văn: "Quả thật là tôi rất khó
chịu khi thấy người Việt các anh ở
đây luôn mong muốn b́nh đẳng và đ̣i
hỏi mọi quyền lợi như người Đức
trong khi các anh chưa bao giờ coi đất này là quê
hương của ḿnh, các anh nguyền rủa nó và
chưa bao giờ tự hỏi rằng ḿnh có nghĩa
vụ ǵ với nó hay không?" Khi ở Việt nam có
lũ lụt, trong ṿng vài ngày, một hội đoàn
Việt nam ở Đông Berlin quyên góp ngay được
vài ngàn Euro gửi về trong nước. Lúc cơn lũ
thế kỷ tràn qua nước Đức, khi quân đội
Đức cùng hàng chục ngàn người t́nh
nguyện dầm ḿnh dưới nước đắp
đê và chạy lụt cho cả những kho hàng và
cửa hiệu Việt nam th́ cũng hội đoàn này,
sau vài tuần suy tính đă phải khá chật
vật mới quyên được một số
tiền khiêm tốn, c̣n trong ḍng người t́nh
nguyện tham gia chống lũ, h́nh như chẳng
thấy đâu một gương mặt Việt nam.
Tuy đă có hàng trăm người nộp đơn
xin nhập quốc tịch Đức sau khi Luật
nhập tịch được nới lỏng cách
đây gần bốn năm, nhưng trong tiềm
thức, đa số người Việt bên Đông
vẫn coi nước Đức là một chốn "ăn
đậu, ở nhờ", hoặc là một "khu
chợ" buôn bán nhất thời. T́nh trạng làm
việc hết sức, nhưng ăn ở lại
tạm bợ, để "áo gấm về Việt
nam" tiêu tiền như rác ("ở Tây th́
sống như Ta, về Ta th́ sống như Tây"!)
vẫn c̣n khá phổ biến. Hệ thống bảo
hiểm - một trong những cột trụ của xă
hội Đức, vẫn là một điều đáng
ghét đối với bà con Việt nam luôn sợ
thiệt. Do tâm thức "đóng vào th́ phải
lấy được ra" (và có lăi th́ càng tốt),
đă có người về nước ăn chơi
30 ngày vụ hè, khi sang Đức khai bị tai nạn
giao thông phải nằm viện 28 ngày, kèm theo "giấy
chứng nhận" dởm của bác sỹ Việt
nam nhằm mục đích đ̣i tiền bảo
hiểm. Có người muốn cho con trai nhập
tịch Đức để "mọi chuyện
được thuận lợi như người Đức",
nhưng phải vắt óc t́m cách "tránh cho cháu
phải đi lính nghĩa vụ". Nh́n chung, người
Việt bên Đông Đức vẫn coi đây là "cơi
tạm", là một quăng chặng làm ăn, trong
đó người ta trông mong và phấn đấu cho
mọi lợi ích có thể có, người ta gạt
đẩy mọi trách nhiệm và hầu như không
có sự gắn bó t́nh cảm. Sự này, đối
với Việt nam, chẳng biết có nên vui? Có
vẻ như, niềm hy vọng vẫn c̣n khá lớn,
nên mặc dù v́ những lư do khác nhau, nhưng chính
ở Tây Berlin mới là nơi hay diễn ra những
buổi gặp gỡ xoay quanh những vấn đề
của Việt nam, chứ không phải bên Đông - trừ
những buổi họp của Ṭa Đại sứ
được "đóng đô" cũng ở phía
Đông. Có điều, thời gian bao giờ cũng là vô
địch. Với người Việt tại Tây
Berlin, thời gian không ngừng xói ṃn sự gắn bó
và hy vọng đối với quê hương. Anh S.,
một chuyên viên tạo mẫu xe hơi, tâm sự:
"Do tham gia một hội đoàn hải ngọai nên
đă rất lâu tôi không được về nhà, nhớ
lắm! Giờ đă 55 tuổi rồi, nếu có
điều kiện th́ c̣n có thể đóng góp cho
đất nước 5-7 năm nữa. Sau thời gian
này, nếu có được phép, th́ cũng chỉ
về Việt nam để tĩnh già, hay để thăm
thú "cưỡi ngựa xe hoa" thôi. Nỗi "chia
ĺa" chầm chậm này, ở bên Đông cũng
diễn ra, nhưng với bên Tây, nó đau đớn
hơn, v́ ít nhiều là một sự bắt buộc
khách quan . Bức tường h́nh trụ Trên
toàn nước Đức, tất cả những khác
biệt đặc thù trên đây chỉ là bề
nổi, chỉ là hiện tượng. Điều đáng
nói hơn là những dị biệt ngầm sâu,
dị biệt tư duy. Bê tông cốt thép của
bức tường ngăn cách Đông-Tây Berlin vỡ
vụn từ 13 năm hầu như vẫn để
lại nguyên vẹn sự cách chia trong suy nghĩ, trong
tư tưởng giữa người Việt Đông-Tây;
và, buồn hơn cả thân phận người Đức,
dân Việt ḿnh c̣n bị níu kéo thêm bởi sự phân
tuyến tinh thần được "di tản"
từ Việt nam qua. Vào
những ngày bức tường Berlin mới sụp,
nhiều bà con bên Tây hân hoan, tận t́nh chào đón
những người đồng hương "mới
thoát cũi, sổ lồng". Thế rồi,
tiếp theo vài tháng mặn nồng t́nh nghĩa đồng
bào, là một cảm nhận thất vọng bẽ bàng.
Anh B., một kỹ sư tin học ở Tây Berlin
từ 1972, đă đứng liền hàng tuần
lễ bên những chỗ tường đổ t́m
gặp và mời về nhà ḿnh những người bà
con từ bên Đông, để sau khi tay bắt mặt
mừng mới nhận thấy rằng "họ không
thể nói chuyện được với nhau,
nhất là những vấn đề về đất
nước. H́nh như, đầu óc những người
bên Đông c̣n đặc sệt ư thức hệ
cộng sản". Anh C., cựu đội trưởng
một đội "hợp tác lao động",
không nhận vé máy bay về Việt nam cùng 3000 DM
tiền nước Đức bồi thường do
hủy bỏ hợp đồng, kiên quyết ở
lại Berlin, sau thời gian choáng ngợp với
sự huy hoàng của Tây Berlin, lại quay về
ngụ tại bên Đông với một niềm tâm
sự: "Dân bên đó -tức người Việt
nam ở Tây Berlin, chẳng hiểu biết ǵ về chúng
tôi. Chuyện chính trị của họ sặc mùi
phản động". Những định kiến
về nhau như vậy, cho đến nay, hầu như
vẫn không hề phai nhạt. Vậy cho nên mỗi
khi đến Tết Nguyên đán, Rằm Trung thu,...bà
con hai bên đều phải tổ chức riêng. Ai
đó "dũng cảm" đi thăm ḍ "phía
bên kia", thường phải trải qua những
kinh nghiệm không dễ chịu, để "một
lần đi rồi không bao giờ quay trở lại".
Thực ra, vài năm sau khi nước Đức
thống nhất, đă bắt đầu có sự
"giao thoa" nhân khẩu: một số người
bên Đông thuê nhà ở bên Tây, và ngược lại;
nhưng để vui vẻ, ḥa đồng với
bạn bè, họ bao giờ cũng t́m về chốn cũ.
Phần
đa xuất thân từ miền Bắc, mang gốc gác
"xă hội chủ nghĩa", người bên Đông
cảm thấy ngỡ ngàng, khó chịu khi phải
đứng chào cờ vàng ba sọc của chế
độ Việt nam Cộng ḥa thuở trước
để rồi sau đó được nghe những
câu "quốc hận", "nhà tù quỷ đỏ"
trong nhiều buổi hội họp bên Tây. Phần
lớn ra đi từ miền Nam, nhiều người
bên Tây đă phải chịu cưỡng bách, tù
đầy, đă mất đi cả một cơ
nghiệp, tương lai, cả một cuộc đời
nhiều người hy vọng, và đă không ít người
mất cả vợ con trên đường vượt
biển. Họ sẽ có cảm giác bị làm nhục
khi phải vỗ tay rào rạt lúc ai đó tặng hoa
cảm ơn ông Đại sứ Hà nội đă đến
dự một lễ hội bên Đông. Tại đó,
họ sẽ phải âm thầm choáng váng khi được
nghe hát vang "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại
thắng". Sẽ chẳng có ǵ là phóng đại
khi thấy rằng: Người Việt tại đây
chưa được chữa lành vết thương
chia cắt Đông-Tây, và cũng chẳng có ai giúp
họ lấp rănh đào ngăn cách Bắc- Nam ngày trước.
Vĩ tuyến 17 đă được người ḿnh
mang ra nước ngoài và vẫn lù lù một cách vô h́nh
tại đất Berlin. Anh
C., xưa kia là Đại úy "Quân đội nhân dân
Việt nam", nay cả vợ chồng con cái đang
cặm cụi trong một "Quán Tầu" nhỏ
tại Đông Berlin, sau khi bị cô con gái kéo sang dự
một buổi dạ hội sinh viên tại Tây Berlin,
về nhà tức tối: "Đù mẹ (một câu
chửi anh học được trong những ngày
"chiến đấu" tại miền Nam), dạ
hội ǵ mà chúng nó treo cờ ngụy. Ngồi
cạnh tôi là một thằng trước kia là
sỹ quan cộng ḥa, bị cải tạo 2 năm
rồi di tản sang đây. Tôi bảo nó: Sao chúng mày
ngoan cố thế? Mày có biết ngồi cạnh mày là
một kẻ chiến thắng không...?". C̣n đối
với câu hỏi: "Sao chiến thắng mà ông
phải kéo cả nhà sang đây?" th́ anh Đại úy
lặng im, chẳng muốn nói ǵ. Khi được
hỏi ư kiến về dự định tổ
chức một buổi hội thảo về sự ngăn
cách Đông-Tây của người Việt, anh M.- kỹ
sư, lănh đạo một hiệp hội của người
Việt ở Tây Berlin, trả lời dứt khoát:
"Phía chúng tôi chẳng có một sự ngăn cách
nào cả. Phá bỏ định kiến hoàn toàn là
chuyện của bà con phía Đông!", và anh vẫn
tiếp tục "rất ngại sang phía Đông",
vẫn hăm hở hy sinh cả thời gian và
tiền của tổ chức mít tinh vào ngày 30 tháng Tư
"quốc hận", c̣n dân "Cộng ḿnh"
[*] phía Đông vẫn hồn nhiên tổ chức "Đêm thơ
nghiệp dư nhân ngày Thương binh, Liệt
sỹ", vẫn kính cẩn mời "Sứ quán
nhà ḿnh" đến nói lời ca ngợi "công
ơn Đảng ta và Bác Hồ vĩ đại". Một
người bên Đông, tham gia vào một tổ chức
đ̣i "Dân chủ cho Việt nam", khi hỏi lư
do không được Sứ quán Việt nam cấp thị
thực về thăm nhà, nhận được trả
lời: "V́ cậu đă đứng hẳn vào
chiến tuyến bên kia..." Đất Việt hết
đạn bom đă được 28 năm, bức tường
Berlin đă không c̣n từ 13 năm, mà chiến
tuyến vẫn c̣n trong đầu quá nhiều người
Việt tại Berlin. Bên này "chiến tuyến"
có những cửa hàng sách báo tràn ngập An ninh thế
giới hay Văn nghệ Quân đội, bên
kia "chiến tuyến" có những buổi
hội thảo "Dân chủ, Nhân quyền" và
những tạp chí chính trị phát không hai, ba tháng
một lần. Nh́n kỹ, sự phân chia "chiến
tuyến" c̣n phức tạp hơn nhiều: Ở
bên này, có không ít người bị chính quyền
trong nước liệt vào hàng "phản bội",
mang "âm mưu chống phá thành quả cách mạng";
ở bên kia, có nhiều người bị nguyền
rủa "ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng
sản". Xem ra, chiếc bánh chưng Việt nam
vẫn được coi là nhân nghĩa ngày xưa,
nay không phải chỉ bị xẻ dọc làm đôi,
mà là bị phân chia nhàu nát bằng vô số những
bức tường vô h́nh nhưng có đầy uy
lực. Lỗ
Tấn - văn hào Trung Hoa, từng nói: "Ngày xưa
làm ǵ có đường. Người ta đi măi th́
thành đường thôi". Nay xin nhại lời ông:
"Nước Việt ta làm ǵ có tường. Người
ta xây măi th́ thành tường thôi". Ở nước
Đức, có câu chuyện cười: Một người
say rượu bí tỷ, mắt nhắm mắt mở
loạng quạng trên đường phố t́m
đường về nhà. Đang lúc ṃ mẫm, người
này đụng phải một cột trụ bê tông tṛn
và lớn được dùng để dán quảng cáo.
Mắt nhắm tịt, tay lần theo mặt bê tông mà
anh ta tưởng là mặt một bức tường.
Lần hàng chục ṿng quanh cột, thấy "bức
tường" vô tận, anh ta gào lên hoảng
lọan: "Trời ơi! Cứu tôi với! Họ
giam kín tôi rồi". Men rượu say sẽ loăng
dần để anh ta mở mắt nhận ra "bức
tường" h́nh trụ. C̣n cái cơn "say chính
ḿnh", liệu đến lúc nào tan?
Berlin 10.2003
( Phạm Việt Vinh sinh
năm 1954, hiện sống tại Berlin.) [*] Trước đây, người Đông Đức thường gọi người Việt nam là "Vietcong" (Việt cộng- do ảnh hưởng của các thông tin phương Tây thời chiến tranh). Dần dần, người Việt tại phía Đông thuận miệng tự gọi nhau là "Cộng", "Dân Cộng ḿnh" một cách hồn nhiên và cũng chẳng cần biết chữ "Cộng" kia xuất thân từ "Cộng sản".
|