Người Việt Tại Đức |
NGUYỄN QUƯ ĐẠI
Người Việt
Nam đến Đức với nhiều hoàn cảnh
khác nhau: du học, nạn nhân chiến cuộc,
thuyền nhân (boat people), khách thợ (lao động)
từ các nước Đông Âu. Nước Đức
trước đây cũng bị chia đôi như
Việt Nam, nên dễ dàng mở rộng ṿng tay nhân
ái để đón nhận người Việt
đến tỵ nạn tại Đức.
Chúng ta nh́n lại
bối cảnh lịch sử Đức và đời
sống người Việt đă chọn nước
Đức làm quê hương thứ hai.
Đệ Nhị
Thế Chiến:
Adolf Hitler được
sự ủng hộ đa số phiếu của phái
bảo thủ lên cầm quyền từ năm
(1934-1945). Sau thời gian củng cố quyền
lực, chính quyền của Hitler đă tước
quyền của 6 triệu người Do Thái,
đưa họ vào các trại tập trung, ḷ hơi
ngạc giết chết hàng loạt. Hitler ra lệnh
tổng động viên, ngày 01/9/1939 chớp nhoáng
đánh chiếm Poland, tháng 4/1940 chiếm Danmark và
Norway, tháng 5 đến tháng 6 chiếm Holland, Belgium,
France, Luxenbourg, tháng 4 chiếm Yugoslavia, Greece, tháng
6/1940 chiếm các lănh thổ của Nga (Sowjetunion) :
Estonian, Latvia, Lithuania, Stalingrad... khởi đầu cho
thế chiến thứ hai.
Chiến tranh tại
Đức:
Từ 1944-1945 Đức
bị quân đội tứ cường Anh, Mỹ,
Pháp, Nga phản công chiếm đóng, các thành phố
bị ném bom hư hại. Riêng Berlin bị 2643.
tấn bom, làm 70% nhà cửa hư hại, 49600. người
chết. Berlin dù được tái thiết nhưng
hiện c̣n giữ lại ngôi Giáo đường
cụt đầu làm di tích chiến tranh.
Hồng quân Nga trả
thù tàn sát, hăm hiếp, cướp của, giết
người, đốt phá. Hàng trăm ngàn người
Đức phải chạy trốn bằng đường
bộ dưới trời đông tuyết giá,
hoặc dùng tàu, thuyền chạy trốn, bị tàu
ngầm Nga húc ch́m khoảng 9000 người chết.
(1)
Ngày 30/4/1945 Hitler
tự tử. Người kế vị là Karl Doenitz
đă đầu hàng vô điều kiện ngày
9/5/1945. Chiến tranh để lại đau thương,
nghèo đói và đổ nát.
Chiến tranh
lạnh , nước Đức bị chia đôi
Đông và Tây:
Từ năm 1949,
phần đất phía Tây Berlin do quân đội
đồng minh chiếm đóng, thành lập Cộng
Hoà Liên Bang Đức. Thủ tướng đầu
tiên Theodor Hess (1949-1954). Phần đất phía Đông
do Hồng quân Nga cai trị, thành lập Cộng Hoà
Dân Chủ Đức (ĐR) theo chủ nghĩa
cộng sản dưới sự lănh đạo
của chủ tịch Wilhelm Pieck (1949-1960).
Các nước Đông
Âu bị Hồng quân Nga tái chiếm thành lập
khối cộng sản, xây hàng rào ngăn cách, gây
cuộc chiến tranh lạnh từ năm 1946, biên
giới dài 1378.,1 Km, từ biển Đông Hải
(Ostsee) đến cuối biên giới Tiệp
Khắc (Tschecholoslowakei) gồm 1266.,5 km bằng
kẽm gai (MGZ) và 1196.,4 km kiểm soát bằng điện
(SSZ) rộng 10 m, tất cả 621 cḥi canh gác , 595
hầm trú ẩn (2).
Từ năm 1952
đến 1961 hơn 3,5 triệu người bỏ
Đông Đức ( ĐR) không chấp nhận chế
độ cộng sản độc tài, sang Tây Đức
t́m tự do. Chủ tịch đảng Walter Ulbricht
(1960-1973) ra lệnh xây bức tường ngăn cách
Đông và Tây Đức vào đêm 12 rạng ngày
13/08/1961 dài 168,8 km, chia thành nhiều đoạn, 107km
bằng beton, 60 km hàng rào kẽm gai. Tại Berlin tường
cao từ 3,50 đến 4,20 m dày 50 cm. Việc xây tường
làm 10 ngàn căn nhà bị phá huỷ, 1233. cửa
sổ các nhà lân cận xây kín, từ tường
ra 100m là băi ḿn, có đặt súng bắn tự
động (295 cḥi kiểm soát 43 pháo đài).
Bức tường
ô nhục chỉ tồn tại được 10315.
ngày (22 năm). Đêm 09/11/1989 Brandenburger Tor mở
cửa, kế tiếp ngày 01/12/1989 mở toàn bộ
22 cửa thông thương. Bức tường ô
nhục bị đập bỏ, chỉ c̣n lại vài
nơi lưu dấu tích lịch sử và tưởng
nhớ 201 người bị bắn chết khi vượt
tường t́m tự do.
Đức Thống
Nhất:
Ngày 03/10/1990 nước
Đức thống nhất có 16 tiểu bang, diện
tích 357022. km2 dân số 81,8 triệu trong đó có 7,3
triệu người ngoại quốc. Quân đội
tứ cường có mặt từ ngày 5/6/1945
chấm dứt nhiệm vụ đóng quân tại
Berlin và Liên Bang Đức ngày 12/09/1990.
Đệ nhị thế
chiến chấm dứt, nhưng Việt Nam vẫn
tiếp tục cuộc nội chiến (quốc
cộng). Ngày 30/04/1975 kết thúc chiến tranh,
thống nhất hai miền, nhưng hoàn toàn không chủ
trương như Chính phủ Đức thi hành
tự do dân chủ.
Cộng sản
Việt Nam áp dụng chính sách độc tài, người
dân miền Nam bị trả thù. Hàng trăm ngàn sĩ
quan, công chức, các chuyên gia của chế độ
cũ bị đưa vào trại tập trung cải
tạo trong rừng sâu nước độc, đánh
tư sản đuổi họ đi vùng kinh tế
mới, đổi tiền làm suy thoái kinh tế
miền Nam.
Từ đó làn sóng
người đi t́m tự do, băng rừng vượt
núi sang Campuchia t́m đường đến Thái,
hoặc thuê mướn ghe thuyền đánh cá
chạy trốn trên Thái B́nh Dương, đôi khi
bị lường gạt mất hết vàng bạc,
bị bắt đánh đập tàn bạo, nhưng
không làm dừng bước người vượt
biển dù sóng to gió lớn, gặp hải tặc Thái
Lan hăm hiếp cướp của giết người,
để rồi không biết bao nhiêu người
bị chôn vùi dưới ḷng đại dương.
Thảm trạng
của người vượt biển làm chấn
động lương tâm thế giới. Cao Uỷ
Tỵ Nạn UNHCR (United Nations High Commissioner for Refugees)
kêu gọi các quốc gia tự do trên thế
giới hăy mở ṿng tay nhân đạo để
đón nhận người Việt tỵ nạn.
Ḷng nhân đạo:
Tại hội nghị
Genevè vào tháng 6 năm 1979 tổng thư kư Guenter van
Well thay mặt chính phủ Đức đồng ư
thâu nhận 10000. người tị nạn Việt
Nam, (số người của tàu Hải Hồng và
các trại tị nạn Á Châu), các tàu buôn mang
cờ Đức được phép cứu vớt
thuyền nhân trên biển.
DrRuppert. Neudeck (**)
vận động các nhà văn , nhà báo, chính trị
gia... như Heinrich Boell (1917-1985) giải thưởng
văn chương Nobel 1972, Martin Walser, Gunter Grass (giải
Nobel 1999), Hilde Domin, Dieter Wellershoff, Carl Amerychử
tịch Hội văn bút 1989-1891) Franz Alte , Matthias
Walden, Wener Hofer, Carola Stern, Akfred Biolek và Kabarettisten,
Dieter Hildebrandt, Helga Schuchardt (FDP), Norbert Blum (cựu
bộ trưởng lao động), Elmar Pieroth, Matthias
Wissmann (CDU), Volker Neumann, Ootergetelo (SPD) vv.(3.)
Ngày 24/07/1979, trong chương
tŕnh truyền h́nh " Report Baden Baden" do ông Franz
Alte điều khiển , các ông Walter Bargatzky,
tổng thư kư của Hồng Thập tự Đức
và Dr. Rupert Neudeck nói về tŕnh trạng thuyền nhân
Việt Nam và kêu gọi thành lập "Một Con Tàu
Cho Việt Nam". Tính đến ngày đến ngày
27/07/1979 chương tŕnh này nhận được
1 triệu 2 Đức Mă ủng hộ vào trương
mục của Hội Hồng Thập Tự. "Hiệp
Hội Bác Sĩ Không Biên Gioi"+' gởi các bác sĩ
và y tá theo giúp con tàu hoàn toàn thiện nguyện.
"Một Con Tàu
Cho Việt Nam" ra khơi:
Cap Anamur chính
thức ra đời ngày 09/08/1979 khi con tàu mang tên
"Port de Lumiere"` từ hải cảng Kobe
Nhật Bản ra khơi trên đường hướng
về biển đông.
Tàu Cap Anamur hoạt
động đến 26/6/1982, cứu vớt 8572. người,
đưa vào các trại tị nạn Sem bawang (Singapore),
trại Palawan (Phi luật Tân), trại Galăng
Indonesia) tạm trú một thời gian ngắn chờ
định cư Tây Đức hoặc đến các
đệ tam quốc gia trên thế giới. Tàu Cap
Anamur hoạt động 22 tháng, mỗi tháng tốn
400 ngàn Đức Mă, theo tuần báo Stern tính,
cứu một thuyền nhân tốn khoảng 1075.
Đức Mă (4).
Con tàu ra khơi kéo
dài cả tháng, hay vài tuần lênh đênh trên
biển, chạy dọc theo hải phận quốc
tế hay vào hải phận Việt Nam để
cứu vớt người, có trực thăng bay t́m
ghe vượt biên, chụp h́nh và cảnh cáo
hải tặc Thái đánh cướp thuyền nhân,
ném người xuống biển. Cap Anamur 1 vớt hơn
22 chuyến (được tính thứ tự từ
Cap Anamur 1 đến 5 vào cảng Singapore), Cap Anamur 6 vào
Galang. Cap Anamur ngưng hoạt động, về
lại Hamburg lúc 1230. ngày 26/7/1982 trên tàu có 287
thuyền nhân được hàng ngàn người
Việt-Đức đón tiếp, quốc ca Việt
Nam được hát dưới rừng cờ vàng.
Bốn năm sau con
tàu ( Cap Anamur 2) tiếp tục ra khơi, dù không
được tiếp tục ủng hộ như
lần đầu. Bởi v́ "nhiều người
ra đi không phải v́ lư do chính trị, gởi trẻ
em vượt biên mong được bảo lănh
cả gia đ́nh đoàn tụ... định cư
thời gian ngắn du lịch Việt Nam"
nhiều người bị pḥng ngoại kiều
cảnh cáo hay thu hồi quyền tị nạn.
Trong 5 tuần lễ
hoạt động từ 03/3/1986, tàu Cap Anamur đă
cứu được 88 ghe, sau đó tàu chạy qua
kinh đào Suez, biển Địa Trung Hải, mang
theo 357 người về cảng Hamburg. Số người
này được phân phối cho các tiểu bang.
Tháng 4 năm 1987 Cap
Anamur 3 lại ra khơi, cứu 14 thuyền tổng
số 905 người, được Pháp và các
quốc gia khác thâu nhận. Cap Anamur chấm dứt
mọi hoạt động vào ngày 22/7/1987. Tổng
kết thuyền nhân được vớt 9507. người.
Con tàu mang tên
"Mary Kingstown" mang cờ vương quốc
Monaco, được xem là (Cap Anamur 4) hoạt động
trên biển đông, chỉ cấp nước,
thực phẩm, thuốc men, ngăn ngừa bớt
nạn hải tặc Thái Lan.
Thuyền nhân
hội nhập:
Thuyền nhân tị
nạn được phân chia định cư theo
từng tiểu bang, học Đức ngữ từ
8 đến 10 tháng, được hướng
dẫn t́m việc làm hoặc tiếp tục học
nghề, muốn thi vào các đại học,
được hội Otto Benecke Stiftung cấp
tiền học thêm khoá Đức ngữ.
Người tị
nạn kể cả đoàn tụ gia đ́nh (vợ
chồng, trẻ em dưới 18 tuổi làm thủ
tục bảo lănh gia đ́nh, thời gian chờ
đợi khoảng 2 năm). Bộ ngoại giao can
thiệp với chính quyền Việt Nam cho phép
số người đoàn tụ gia đ́nh, tiền
vé máy bay ăn học được chính phủ giúp
đỡ.
Nhiều hội
đoàn ra đời sinh hoạt, những năm
đầu các báo được xuất bản như
Độc Lập, Viên Giác, Dân Chúa, Nhịp Cầu,
Giao Điểm, Vượt Sóng, Sinh Hoạt Cộng
Đồng vv.... và sau đó ra đời nhiều
bản tin, báo của các hội đoàn, luôn nêu cao
tinh thần đấu tranh chống cộng, tranh
đấu tự do cho Việt Nam.
Hằng năm vào ngày
30 tháng 4, người tị nạn thường
về Bonn biểu t́nh tham dự đêm không ngủ,
thảo luận và tưởng nhớ quê hương
do các hội đoàn tổ chức.
Người tị
nạn tích cực ủng hộ các phong trào đấu
tranh để ước mong có ngày quang phục quê
hương, nhưng không tránh khỏi vài trường
hợp chia rẽ thiếu đoàn kết làm mất
niềm tin. Sau này khi có phong trào du lịch Việt
Nam, người Việt tại Đức trở
về thăm gia đ́nh và thân nhân nên tinh thần
đấu tranh có vẻ sút giảm nhiều.
Ngoài ra, người
Việt hay người ngoại quốc đă
sống 7 năm ở Đức, có công việc, thông
hiểu ngôn ngữ được phép nộp
đơn xin nhập tịch, và phải thi hỏi
về luật căn bản, viết chính tả...
(tuỳ theo tiểu bang).
Muốn nhập
tịch phải từ bỏ quốc tịch gốc.
Đây là vấn nạn của Việt, người
tỵ nạn Việt Nam phải liên lạc sứ quán
cộng sản. Thời gian chờ đợi
giấy từ bỏ quốc tịch thường kéo
dài đến 14 tháng hay lâu hơn, phải trả
12% tiền lương đă trừ thuế. Đôi
khi gặp khó khăn, người tỵ nạn
phải đến sứ quán xếp hàng chờ
đợi trả tiền nhận giấy.
Bằng cấp
phải dịch ra tiếng Đức kèm theo bản
chính, gởi đến cơ quan công nhận
(Zeugnisanerkennungsstelle) sắp loại (văn bằng không
gởi công nhận, th́ không có giá trị). Tú tài trước
1975 tưng đương tú tài Pháp, phải qua
kỳ thi Đức ngữ và toán, học dự
bị đại học, sau đó chọn các phân
khoa (tuỳ theo mỗi tiểu bang), bằng phổ thông
sau 1975 được xem tŕnh độ lớp 10,
phải vào trung học, học thi tú tài nhanh lắm
phải mất 3 năm (nếu đă học đại
học được xem như tú tài trước
75).
Các Linh Mục
được phép tiếp tục làm việc, ngoài
ra dù tốt nghiệp kỹ sư, bác sĩ, luật
sư đều không được công nhận,
phải học lại một số học tŕnh.
So sánh với hệ
thống giáo dục tại Hoa kỳ, Úc và các
quốc gia khác, người tị nạn lớn
tuổi có các nghề như trên may mắn hơn người
tị nạn tại Đức.
Cộng đồng
người Việt định cư tương
đối khá ổn định và hoà nhập vào
cuộc sống, thường kinh doanh về nhà hàng,
các quán ăn nhanh, thực phẩm Á châu. Thế
hệ thứ hai trưởng thành theo học các
đại học nổi tiếng ra trường
với học vị cao xuất sắc, hoặc theo
học các ngành nghề trở thành những chuyên viên
kỹ thuật giỏi như người bản
xứ, trong gia đ́nh cha mẹ nói tiếng Việt
với con cái. Tiếng Việt được
tồn tại thật đáng hănh diện.
Cựu sinh viên
Việt Nam:
Khoảng 2000. sinh viên
du học từ thời Việt Nam Cộng Hoà,
nếu tính đến 30/4/75, phần nhiều chưa
xong học tŕnh, được ở lại tiếp
tục học. Một số sinh viên, trước
đây nghe cộng sản Hà Nội tuyên truyền
gia nhập "Hội Đoàn Ket"^', được
sứ quán (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) giúp
đỡ. Thành phần này sau ngày 30/4/75 về thăm
quê "mừng ngày giải phong"' trong lúc người
miền Nam liều mạng sống chạy trốn
khỏi "thiên đuờng"+ cộng sản.
Tờ báo Đất Nước cơ quan tuyên
tuyền cho đảng cộng sản của
những kẻ "ăn cơm quốc gia thờ ma
cộng san"?.
Khi về Sài G̣n
những người này lại bị chính quyền
giữ lại học tập chính trị 3 ngày để
đả thông tư tưởng "cách mang"..
Đối diện xă hội thực tế nghèo khó
và t́nh trạng đàn áp phũ phàng tại quê nhà,
mà trong đó đôi khi gia đ́nh cũng bị
đánh tư sản, bà con thân tộc bị tập
trung cải tạo, nên khi trở lại Đức có
người quay về với cộng đồng người
Việt tỵ nạn...
Trước 75 thành
phần nầy thuộc tiểu tư sản, hưởng
quyền lợi của miền Nam, được hoăn
dịch đi du học. Trong lúc thanh niên cùng thế
hệ phải cống hiến tuổi thanh xuân và
hạnh phúc gia đ́nh, tham gia chiến đấu
bảo vệ tự do miền Nam....
Thành phần trong
"Hội Đoàn Ket"^' sống riêng rẽ, nhưng
vẫn tiếp tục hoạt động cho CS.
Họ tổ chức sinh nhựt ông Hồ, hay tổ
chức những buổi văn nghệ giao lưu văn
hoá nhằm tuyên truyền đánh bóng cho chế
độ cộng sản, đều bị người
tị nạn chống đối. Người
Việt tị nạn (boat people) luôn nêu cao lư tưởng
chống cộng, tẩy chay thành phần thân
cộng sản.
Hồi chính
quyền Việt Cộng c̣n bế môn toả
cảng, thành phần thân cộng nầy thường
về nước, cơ hội tốt kiếm
tiền buôn bán, chuyển tiền ăn lời, móc
nối mang đồ cổ ra bán nước ngoài
hoặc làm thông dịch cho các phái đoàn của
cộng sản...
Cộng sản đổi
mới theo kiểu Liên Sô, cơ hội ngàn năm
một thuở, họ bắt tay hoạt động
muốn về nước đầu tư, làm
cố vấn mong "ăn trên ngồi troc"^' nhưng
lại không chen chân được với đám tư
bản đỏ (thành phần nầy được
xem như nhân vật Lă Bố trong truyện Tam
Quốc Chí).
Những cựu sinh
viên không theo cộng sản, có nhiều người
thành công, là giáo sư đại học, bác sĩ,
kỹ sư trưởng các ngành chuyên khoa... sinh
hoạt gắn bó với cộng đồng người
Việt tị nan.
Nạn nhân chiến
cuộc:
Trước 1975
Đức thu nhận số nạn nhân chiến
cuộc, những người bị thương trong
chiến tranh, được điều trị
tại các bệnh viện từ Việt Nam, và
chuyển sang điều trị tại các bệnh
viện Đức, được bảo trợ cho
học nghề và hưởng ưu tiên như người
Đức tàn tật, đời sống họ
được tôn trọng. Ngoài ra một số
thiếu nữ tŕnh độ trung học được
(bộ Cựu Chiến Binh) gởi sang học ngành y
tá, nhân viên ngoại giao, thương măi, tu sĩ, tu
nghiệp, du lịch... Sau 30/4/75 đều ở
lại Đức.
Người Việt
tị nạn ( khách thợ) từ Đông Âu:
Từ năm 1990 khi
chủ tịch Gorbatschow thay đổi chính sách cai trị
Glasnost (cởi mở), Perestrojka (tái phối trí) th́
Liên Bang Nga Sô đổi mới toàn bộ. Ngày
02/05/1989 Ungarn mở cửa biên giới thông thương
với Tây phương. Hàng ngàn người Đông
Đức hướng về Budapest của Ungarn,
chạy vào toà Đại sứ Tây Đức để
xin tị nạn... Các nước Đông Âu thay
đổi chính sách cai trị, kéo theo sự sụp
đổ thiên đường cộng sản.
Đông và Tây Đức
thông thương từ ngày 09/11/98 hơn 11 triệu
người từ Đông (ĐR) sang Tây thăm
viếng, chính phủ (CHLBĐ) cho mỗi đầu
người 100 Đức Mă. Các siêu thị bán
sạch hàng tồn kho, đi tay không nhưng về
tay xách, vai mang trĩu nặng hàng hoá. Sau ngày
thống nhất, Đức thêm gánh nặng kinh
tế, các hăng xưởng bên Đông lỗi
thời, đưa đến bế tắc việc
sản xuất, số người thất nghiệp
gia tăng, người đi làm phải đóng
tiền thuế "đoàn ket"^' để xây
dựng lại miền đất phía Đông .
Người Việt
theo diện "lao động nghĩa vụ quốc
te"^' tức là đi làm lao động trả
nợ chiến tranh của Việt Cộng, dưới
thời cộng sản Đông Đức (ĐR)
bị bóc lột tận xương tuỷ, họ không
được học Đức ngữ đi làm
tại các hăng xưởng, đều có thông
dịch viên hay các đội trưởng (cai) do
đảng viên cộng sản người Việt
chỉ huy, lương tháng bị khấu trừ
nợ nần .. c̣n lại hơn 100 Mỹ Kim.
Dân Đông Đức
(ĐR) sang Tây thăm viếng. Người Việt
lợi dụng cơ hội lúc giao thời bỏ
trốn sang Tây, được người Việt
tị nạn (boat people) giúp đỡ hướng
dẫn các thủ tục xin tị nạn. Các nước
Đông Âu đều có người Việt lao động
hoặc du học sinh, t́m đường sang Đức
tị nạn.
60 ngàn công nhân lao
động xuất khẩu c̣n hợp đồng làm
việc bên Đông (ĐR) đứng trước
hai ngả đường về hay ở? Chính phủ
bồi thường, mỗi đầu người
3000. Đức Mă để hồi hương.
Phần lớn họ không muốn về. Có một
số người ở lại bán thuốc lá
nhập lậu từ Đông Âu qua các đường
dây mafia. Tại các thành phố bên Đông như
Berlin, Leipzig, Đresen bán thuốc lá kiếm khá
nhiều tiền, mỗi ngày vài ba trăm Mỹ Kim,
nhiều người trở thành "chủ nhân ong"^
tạo nên nhiều băng đảng, thanh toán
giết nhau.
Báo chí, truyền h́nh
đều loan tin về việc trên, gây ấn tượng
xấu cho người Việt Nam nói chung. Sau một
thời gian ngắn các băng đảng này cũng
bị dẹp tan. Các tội phạm giết người
bị truy lùng, bị kết án chung thân khổ sai
hay bị trục xuất. Một số khác chạy
trốn sang các nước Đông Âu...
Những người
không được hưởng qui chế tị
nạn, nhưng được chính phủ cho phép
ở lại, dùng thông hành VN "hộ chiếu
Việt Nam", sinh sống theo luật ngoại
kiều dành cho khách thợ. Sau đó khi hội đủ
điều kiện về thời gian qui định,
không phạm luật họ có thể làm đơn
nhập tịch. Người Việt ở lại
phần lớn trưởng thành, từng sống dưới
xă hội cộng sản bị bóc lột, nên trên
xứ tự do họ siêng năng làm việc. An cư
lạc nghiệp, hàng năm họ trở về thăm
nhà, bảo lănh cho thân nhân qua Đức du lịch.
Hoặc chính thức hoặc trả tiền cho các
đường dây buôn người (mua vé từ Hà
Nội sang các nước Đông Âu) hoặc kết
hôn để ở lại.
Số người hưởng
quyền tị nạn theo điều 51, trong thông hành
Reiseausweis (Travel Document convention of 28 July 1951) có thể
đi khắp nơi ngoại trừ đi Việt Nam,
con cái sinh tại Đức mang Fremdenpass/Aliens passport,
hai năm gia hạn một lần.
Người Việt
định cư nói chung tăng khoảng trên 100 ngàn
người. Nhiều báo chí ra đời, các cơ
quan ngôn luận Việt ngữ hoàn toàn tự do, không
bị ai kiểm duyệt đục bỏ. Cái khó chỉ
lương tâm người cầm bút, tự
giới hạn những ǵ ḿnh viết với tính cách
xây dựng, nhằm phát huy và bảo toàn Văn Hoá
Việt Nam, không dùng ngoài bút để bêu xấu
mạ lỵ, hay núp dưới bóng tự do tuyên
truyền làm lợi cho cộng sản .
Các tờ báo
của anh em đi "lao động, du học sinh",
trong thời gian xin tị nạn, phát hành rất
nhiều loại báo tố Cộng. Viết về
đời sống của xă hội CSVN mà họ dă
từng trải qua tại miền Bắc, góp
tiếng nói với cộng đồng Việt Nam
hải ngoại, không phân biệt Bắc Nam Trung và cùng
đấu tranh đ̣i Tự Do, Dân Chủ cho
Việt Nam. Người tị nạn miền Nam trong
các sinh hoạt đều treo cờ vàng ba sọc
đỏ- một biểu tượng về tự
do.
Các loại
nguyệt san một năm 6 hay 11 số bán hoặc
tặng, được xuất bản phục
vụ sinh hoạt cộng đồng: Dân Chúa Âu Châu,
Viên Giác, Diễn Đàn Việt Nam Vietnam Forum,
Bản Tin Đức Quốc, Dân Văn, Sinh Hoạt
Cộng Đồng, Cánh Én...
Hàng năm vào các
dịp Tết Cộng Đồng Việt Nam , tổ
chức tết mừng xuân hướng về quê hương.
Ngoài ra các niệm Phật Đường, chùa Viên
Giác thường tổ chức Tết, Đại
Lễ Phật Đản hay lễ Vu Lan. Đại
Hội Công Giáo trong dịp lễ Hiện xuống thường
tổ chức hằng năm tại Aschaffenburg. Sinh
hoạt của hai tôn giáo lớn của người
Việt tại Đức là Phật Giáo và Thiên Chúa
Giáo, có hàng ngàn người về tham dự .
Dập-d́u tài-tử,
giai-nhân.
Ngựa xe như nước,
áo quần như nêm.
Sinh hoạt Thiên Chúa
Giáo Việt Nam được các Toà Tổng Giám
Mục giúp đỡ, có trung tâm sinh hoạt khang
trang, giáo dân không phải quyên góp tiền (v́ tín
đồ Thiên Chúa đóng thuế nhà Thờ). Thánh
lễ lớn cử hành tại các nhà thờ
bản xứ. Ngược lại tín đồ
Phật Giáo (không bị đóng thuế), muốn có
Chùa hay Niệm Phật Đường phải thuê
nhà, hay xây Chùa. Kinh phí đều do Phật tử
khắp nơi hoan hỉ đóng góp.
Người tỵ
nạn Việt Nam luôn phát huy văn hoá, đấu
tranh tự do dân chủ cho Việt Nam, tham gia các công
tác lạc quyên giúp đỡ đồng bào bên quê
nhà bị thiên tai băo lụt, cứu giúp các thương
phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà...
Thuyền nhân
Việt Nam có cuộc sống tự do hôm nay là nhờ
con tàu nhân đạo Cap Anamur cứu vớt, mong
đừng lăng quên ơn những ân nhân đă góp
tiền, thuê mướn tàu cứu giúp ḿnh trên
biển đông trong những ngày lênh đênh vô
định!!
Cuối cùng chúng ta
cũng đừng quên bổn phận của cha anh là
phải giải thích cho con em biết, tại sao chúng
ta phải đứt ruột rời bỏ quê hương
sau ngày 30/4/ 1975 dù Việt Nam đă thống nhất!!!
Nguyễn Quư Đại
Ghi chú:
**/ Tiến sĩ
Rupert Neudeck sinh 14/5/1939 tại Danzig cùng quê với nhà
văn Guenter Grass và Lech Walesa. Lúc lên 6 tuổi là
nạn nhân cùng mẹ và bốn người em
chạy trốn Hồng quân Nga (cha bị bắt vào
quân đội). Thấy người Việt vượt
biển bằng những thuyền nhỏ để
chạy trốn chế độ cộng sản, làm
ông hồi tưởng lại cuộc đời
đau khổ trải qua.
Dr. Rupert Neudeck là ân
nhân của người Việt Nam, ông không phân
biệt quốc gia, tôn giáo, chính trị, chủng
tộc, nơi đâu có khổ đau, nghèo khó nơi
ấy có sự hiện diện của ông. Năm
1981 thêm chương tŕnh "Reis fuer VietNam" 1000.
tấn gạo được hiệp hội Bác Sĩ
Không Biên Giới (Komitee Not- Aerzte) chở đến
cứu trợ băo lụt vùng Thanh Hoá, giúp trang
bị các bệnh viện. Dr. Neudeck với ḷng bác ái
cao vời vợi, trong sáng như một v́ sao "
1/ Die Flucht Der Spielgel
số 13 trang 36 -60
2/ Das Volkschreibt
Geschichte Tage, die wir nie vergessen( Berlin Illustrirte Sonderausgabe
1989)
3/ Die letzte Fahrt der Cap
Anmur 1 Rupert Neudeck ( Herderbucherei)
4/ Rupert Neudeck Die
Menschenretter von Cap Anamur ( CH.Beck. Munchen)
Universal Lexikon ( Faktum)
Zeitbild Die goldenen
zwanziger Jahre( Ueberreuter)
Berlin mit Potsdam ( Freude
)
|