Nhân 513 năm ngày sinh
danh nhân văn hóa
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn
Bỉnh Khiêm là danh sĩ đời Mạc, tự
Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, c̣n có tên
khác là Văn Đạt, con vị cư sĩ
Nguyễn Văn Định, đạo hiệu Cù Xuyên.
Ông quê ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lợi (sau
đổi là Vĩnh Bảo), ngoại thành Hải Pḥng.
Năm Ất Mùi 1535, ông đỗ Nhất giáp
tiến sĩ đệ nhất danh (Trạng nguyên).
Các kỳ thi Hương, Hội, Đ́nh ông đều
đỗ đầu, làm quan đến Tả thị
lang Bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ.
Làm quan trường 8 năm, rồi xin về trí sĩ
(1542), làm nhà ở làng gọi là Bạch Vân am do
đấy có hiệu Bạch Vân cư sĩ. Rồi
mở trường dạy học bên cạnh sông Hàn
chảy qua làng. Hàn Giang c̣n có tên là Tuyết Giang, v́
thế học tṛ tôn xưng ông là Tuyết Giang Phu
tử.
Tương truyền thuở trẻ ông có học
với Lương Đắc Bằng, được
truyền cho quyển Thái ất thần kinh, nên ông
rất tinh thông lư học và tướng số. Dù là
ẩn sĩ, nhưng vua Mạc luôn tỏ ḷng kính
trọng ông, phong ông tước Tŕnh Tuyền
hầu. Không lâu sau lại thăng ông là Thượng
Thư Bộ Lại, tước Tŕnh Quốc công. Do
đấy, đời gọi ông là Trạng Tŕnh.
Để chấn hưng đạo đức và
cảnh tỉnh ḷng người đừng quá quay
cuồng trong vật dục, ông cùng người làng
dựng nên ngôi nhà gọi là "Trung tân quán",
cứu giúp người nghèo khổ, khuyên nhủ
kẻ giàu sang phải biết điều nhân nghĩa,
nêu cao t́nh người.
Đau xót thời loạn lạc, thơ văn ông
đầy đạo nghĩa, nhất là bài văn
bia ghi ở quán Trung Tân rất đặc sắc.
Học tṛ ông có nhiều người nổi
tiếng như Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc
Hoan, Nguyễn Dữ, Đinh Th́ Trung, Trương Th́
Cử... Trong số đó có người làm quan to, có
người đi ở ẩn.
Năm Ất Dậu 1585, ông mất, hưởng dương
95 tuổi. Nhiều người học tṛ ông đă
có những bài văn tế ông rất thống
thiết. Ôn Đ́nh hầu Vơ Khâm Lân viết bài kư
"Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn
Đạt phổ kỹ", có những lời tán
tụng: "... Tuy nhiên, đời dùng th́ làm, đời
bỏ th́ ẩn, đối với tiên sinh dù
chẳng đắc dụng cũng có hề chi. Ta
rất hâm mộ tiên sinh về chỗ đó (...)Nay
ta đọc những văn chương c̣n lại,
khác chi nghe thấy những tiếng ném ngọc gieo vàng
rực rỡ như mây muôn sắc, sáng sủa như
vầng thái dương (...) Bởi v́ tiên sinh
chẳng những tinh thâm môn lư học, biết rơ dĩ
văng cũng như tương lai, mà sự thật th́
trăm đời sau cũng chưa thấy có ai hơn
được vậy (...)". La Sơn Phu tử
Nguyễn Thiếp cũng có thơ cảm niệm:
"Trạng nguyên xưa đời Mạc
Nay đến bến Tuyết Kim
Rêu xanh trùm bia quán
Mây trắng nhắc lều am..."
Quả thực, ông xứng đáng với những
lời ngợi ca như vậy, bởi ông là nhà tư
tưởng lớn, một tác gia lớn của
thời đại bấy giờ, đă có ảnh hưởng
rất lớn đến học phong, văn phong
của cả một thế kỷ. Ông sáng tác
nhiều cả văn Hán lẫn văn Nôm. Hiện c̣n
truyền lại phần văn Hán là "Bạch Vân
Am thi tập" gồm một số bài kư và ngót
một ngh́n bài thơ; phần văn Nôm là tập
"Bạch Vân quốc ngữ thi". Tập "Tŕnh
trạng nguyên sấm kư" tương truyền là
của ông, nhưng cho đến bây giờ vẫn
chưa đủ chứng cớ để khẳng
định điều đó. Trong "Bạch Vân
quốc ngữ thi", một tập thơ Nôm
nổi tiếng làm toát lên thái độ của ông
đối với chế độ phong kiến
đương thời đang bước vào
thời kỳ suy thoái. Chùm thơ mang tính chất phê
phán hiện thực là chùm thơ có giá trị
nhất. Trong đó c̣n có "Thói đời",
một bài thất ngôn bát cú phản ánh sự đen
bạc về "nhân t́nh thế thái"...
những vần thơ c̣n đó với thời gian.
"Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
C̣n bạc, c̣n tiền, c̣n đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi
Xưa, nay đều trọng người chân
thực
Ai nấy đều ưa kẻ đăi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu th́ t́m đến, khó th́ lui".
Thói đời! Ôi thói đời! Trong xă hội
phong kiến suy thoái, lợi lộc được
coi trọng hơn nhân nghĩa. Tai ác thay v́ thế mà
phải trái, trắng đen lẫn lộn ở
đời. T́nh người, t́nh đời,
những ǵ đẹp nhất bị gặm nhấm,
bị tàn phá. Kẻ xấu chạy theo danh lợi mà
chà đạp lên cái nghĩa đạo nhân.
Chẳng lẽ lại để cho kẻ xấu, cái
xấu hoành hành; chẳng lẽ thuần phong mỹ
tục truyền thống lại dần mai một?
Phải ǵn giữ lấy nó, bảo vệ nó.
Phải lấy nhân nghĩa để thắng
bạo tàn. Và "Thói đời" đă thể
hiện một cách sâu sắc thái độ ưu ái
của nhà thơ đối với đời; đă
tỏ thái độ phê phán, kịch liệt lên án
hiện thực xă hội xấu xa đen bạc
ấy.
Có thể thấy được nét tài hoa của
Bạch Vân cư sĩ. 5 thế kỷ trôi qua, thế
gian vật đổi sao dời, thế nhưng đọc
lại những vần thơ của ông, ta như
vẫn c̣n thấy ở đó những giá trị
mang tính thời sự. Tính thời sự lớn
nhất ở bài thơ đâu ở hai câu đề
và cũng đâu ở hai câu thực. Dù rằng
đây đó cũng c̣n có cảnh "C̣n bạc, c̣n
tiền c̣n đệ tử/ Hết cơm, hết rượu,
hết ông tôi", nhưng cái tốt, điều
tốt vẫn luôn là sợi chỉ đỏ đang
xuyên suốt cuộc sống hiện nay. Những Tân
Trường Sanh, những Năm Cam, Lă Thị Kim Oanh...
đều là những minh chứng hùng hồn đó
chăng. Vậy, tính thời sự nó nằm ở
hai câu luận và hai câu kết vậy. Ở đời,
trong cuộc sống của con người, một
thời đă qua, rồi thời hiện tại và
sẽ là măi măi về sau, những con người chân
chất, luôn yêu quư những phẩm chất chân
thực, có nghĩa, có nhân hơn là thói đời
vuốt ve có tính chất giả dối bên ngoài (đăi
bôi). Và nhất định, cuộc đấu tranh
giữa những người chân thực với
những kẻ "đăi bôi", những "người
bạc ác" sẽ luôn là cuộc đấu tranh
không khoan nhượng. Chao ôi, giá trị giáo dục
đạo đức của Bạch Vân cư sĩ
đă xuyên suốt trong 500 năm qua. Vâng, đọc
thơ của Bạch Vân cư sĩ nói chung và "Thói
đời" nói riêng "khác chi nghe thấy
những tiếng ném ngọc, gieo vàng rực rỡ
như mây muôn sắc, sáng sủa như vầng thái
dương...".
NGUYỄN THỊ
THỌ
|