Tưởng
Niệm 30-4: |
Vương
Hồng Anh tổng lược *
T́nh h́nh Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng
3/1975: Như
đă tŕnh bày, từ ngày 21/3 đến 23/3/1975,
Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một
số vị trí pḥng ngự của các đơn
vị VNCH tại Thừa Thiên, trong đó có 1 số xă
thuộc quận Phú Lộc, quận cực nam của
tỉnh Thừa Thiên. Ngày 24/3/1975, đặc công
Cộng quân đột nhập vào Tam Kỳ. Ngày
25/3/1975, các đơn vj VNCH tại pḥngTuyến
Thừa Thiên triệt thoái, rút về Đà Năng. Trong
2 ngày 26/3 và 27/3, Cộng quân mở các đợt pháo
kích vào các vị trí của một số đơn
vị thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh. Tại
Đà Nẵng, sáng ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân
khu 1, mở cuộc họp khẩn với các
đơn vị trưởng tại bộ Tư
lệnh Quân đoàn. Nhiều biện pháp được
đưa ra để văn hồi trật tự và
gấp rút tái tổ chức các đơn vị các
tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín rút
về. Tất cả các quân nhân từ những nơi
khác về Đà Nẵng trong những ngày trước cũng
được tập trung để bổ sung cho các
đơn vị trú pḥng. Tại
khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ
Binh, Trung đoàn 56BB được lệnh rút về
tuyến vàng (Câu Lâu-Thu Bồn). Cộng quân tung
chiến xa đuổi theo, 1 chiếc M 113 của
Thiết đoàn 11 bị bắn cháy. Tại
pḥng tuyến Đại Lộc, Cộng quân đă
chiếm bộ chỉ huy Chi khu quận và lập
hệ thống công sự pḥng thủ ở đây.
Trung đoàn 57BB được lệnh phải
triệt phá các chốt chận của Cộng quân
quanh quận lỵ. 1 giờ trưa, Bộ Chỉ huy
Tiểu khu Quảng Nam mất liên lạc với
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3. Theo
lời Đại tá Phạm Văn Chung, Tỉnh trưởng
kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam, th́ trưa ngày
28/3/1975, ông đă đến Duyên đoàn 15 Hải quân
dùng tàu nhỏ đi quan sát việc bố pḥng quanh
thị xă Hội An. Sau đó ông liên lạc về
Bộ chỉ huy Tiểu khu th́ không có ai trả
lời. Cũng
vào trưa ngày 28-3-1975, Cộng quân tung một tiểu
đoàn thuộc B44 lập các chốt chận tại
Thanh Quít, ngay sau đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn
3 BB điều động 1 tiểu đoàn của
Trung đoàn 2 BB giải tỏa khu vực này, 2
tiểu đoàn c̣n lại và Bộ chỉ huy Trung
đoàn 2BB phụ trách pḥng ngự pḥng tuyến Điện
Bàn-Hội An. Đến
chiều ngày 28/3/1975: ba tiểu đoàn của Liên
đoàn 915 Địa phương quân do Trung tá Vơ Vàng
chỉ huy được điều động pḥng
thủ thị xă Hội An. Sau lưng của 3 trung
đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB, là các đồn Địa
phương quân vàNghĩa quân th́ đă bỏ
ngỏ. Trưa
ngày 28/3/1975, một sự kiện xảy ra tại
trung tâm huấn luyện Ḥa Cầm là binh sĩ các
đơn vị Địa phương quân tỉnh
Quảng Tín phá kho lương thực của trung tâm
này, khóa sinh theo học tại trung tâm đă bỏ
đi, chỉ c̣n lại khoảng đại đội
phụ trách pḥng thủ của trung tâm. Khoảng
2 giờ chiều, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1
nhận được mật điện của Pḥng
2 bộ Tổng Tham Mưu báo tin là Cộng quân sẽ
tấn công vào Đà Nẵng vào khuya ngày 28 rạng ngày
29/3/1975. Cùng
với thông tin t́nh báo của Pḥng 2, Bộ Tổng
Tham Mưu cũng đưa ra thêm một lệnh
nữa là Sư đoàn 1 Không quân phải đưa
hết số trực thăng và phản lực
của Sư đoàn vào căn cứ Không quân tại
Phú Cát hoặc Phan Rang. Trung tướng Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng cho lệnh
báo động đỏ, tất cả các đơn
vị đều được đưa ngay đến
vị trí pḥng thủ. Để ổn định t́nh h́nh
trật tự trong thành phố, Trung tướng Ngô
Quang Trưởng cử Chuẩn tướng Nguyễn
Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ
binh, làm quân trấn trưởng quân trấn Đà
Nẵng. Các đại đội Quân Cảnh
được điều động tuần tra quanh
thị xă và kiểm soát quân nhân đi lẻ tẻ
trên đường phố. Màn
đêm vừa buông xuống th́ Cộng quân bắt
đầu pháo kích vào phi trường và căn
cứ Hải quân. Bộ
Tư lệnh Quân đoàn 1 và nhiều căn cứ quân
sự khác cũng bị pháo kích. Cộng quân đă kéo
pháo 130 ly từ đèo Mũi Trâu để bắn vào
phi trường, một thành phần pháo binh khác
từ hướng thung lủng Phước Tường
cũng pháo kích dồn dập vào khu vực Đà
Nẵng.Hai khẩu đội đại bác 175 mm
của Pháo binh Quân đoàn 1 liền phản pháo và
được phi cơ quan sát điều chỉnh
tọa độ nhưng kết quả không mấy
khả quan. Cộng quân vẫn gia tăng nhịp độ
pháo kích. Trung
tướng Ngô QuangTrưởng báo cáo t́nh h́nh cho Đại
tướng Cao Văn Viên và Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời của Đại tướng
Cao Văn Viên th́ khi nhận được báo cáo
của Trung tướng Trưởng, Tổng thống
Nguyễn VănThiệu không có lệnh nào dứt khoát,
không cho Trung tướng Trưởng biết là nên rút
hay nên cố thủ. Tổng thống chỉ hỏi
Trungtướng Trưởng là nếu di tản th́ có
bao nhiêu người có thể đi được an
toàn. Tổng thống Thiệu không hài ḷng với
những diễn biến đang xảy ra, ông không
muốn ra lệnh nữa để phảichịu thêm
một nỗi đau thứ hai. *
10 giờ đêm 28/3/1975: Lực lượng VNCH
tại Quân khu 1 được lệnh triệt thoái
Đà Nẵng. 7
giờ 30 tối ngày 28/3/1998, Trung tướng Tư
lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng và vài sĩ
quan tham mưu Quân đoàn 1 đến Bộ Tư
lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh tại căn cứ
Ḥa Khánh. Ông bắt tay thật chặt từng sĩ
quan tham mưu Sư đoàn 3BB dàn chào ông ở sân
chờ bộ Tư lệnh. Một vị trưởng
pḥng kể lại là Trung tướng Trưởng
đă nh́n thẳng vào mặt từng người như
muốn nói với họ một điều ǵ đó.
Không ai nghĩ rằngđó là cái bắt tay vĩnh
biệt của vị tư lệnh Quân đoàn. Theo
nhật kư hành quânù của Thiếu tướng
Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ
Binh, th́ trong nửa giờ họp riêng tại văn
pḥng tư lệnh Sư đoàn,Trung tướng Trưởng
đă bàn với Tướng Hinh cả hai kế
hoạch: pḥngthủ và rút lui nếu áp lực
Cộng quân quá mạnh. 8 giờ tối cùngngày, Trung
tướng Trưởng rời căn cứ Ḥa Khánh
và bay một ṿng quan sát thành phố Đà Nẵng trong
khi Cộng quân tiếp tục pháo kích vào thành
phố. 9
giờ 30 tối, Trung tướng Tư lệnh Quân
đoàn 1 Ngô Quang Trưởng bay đến Bộ tư
lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải và triệu
tập một cuộc họp với các tướng và
tư lệnhcác đại đơn vị ngay
tại văn pḥng của Phó Đề đốc Hồ
Văn Kỳ Thoại (phó đề đốc: tương
đương cấp chuẩn tướng). Tham
dự cuộc họp có Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư
lệnh Tiền phương Quân đoàn 1, Thiếu tướng
Nguyễn Duy Hinh, Thiếu tướng Bùi Thế Lân và
Phó đề đốc Hồ Văn KỳThoại. Trước
khi bắt đầu cuộc họp, Tướng Trưởng
gọi điện thoại xin quyết định
của Đại tướng Viên và Tổng thống
Thiệu. Các vị tướng ngồi chờ kết
quả. Theo lời kể của Thiếu tướng Bùi Thế Lân th́ chỉ sau vài phút nói chuyện với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, đôi mắt Trung tướng Trưởng đỏ ngầu, khuôn mặt buồn bă. Rời điện thoại, Trungtướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng tiến về các vị tướng đang chờ lệnh của ông và giọng nghẹn ngào: Lệnh bỏ Đà Nẵng. Bấy giờ là 10 đêm ngày 28/3/1998.
|