Nếu không trong nghề, th́ nói đến
dầu phiến đá chẳng ai biết nó là cái ǵ,
thực ra người ta đă biết dầu này
từ thế kỷ thứ 10, một nhà Khoa học người
Syria đă viết kinh nghiệm chiết xuất
dầu từ phiến sét có chất nhựa đường
để làm chất đốt, đến đầu
thế kỷ 19 mới thành tựu qui mô và được
khai thác nhiều nước trên thế giới,
cuối thế kỷ này sự khai thác đă vững
mạnh trong nền công nghiệp Âu Châu, Hoa kỳ,
Canada. Trung Cộng khởi sự chiết xuất khai
thác dầu phiến đá vào đầu thế
kỷ 20 mà họ gọi là "thủy lực áp
liệt". Hồi đó họ dùng nước, cát,
hóa chất với áp suất cao để làm vỡ
đá và làm sạch đá lấy dầu gọi là
hydrolic fracturing sau gọi tắt là fracking. Thập niên
1920 việc phát hiện dầu thô ở Texas, và Trung
đông, làm kỹ nghệ khai thác dầu phiến
đá ngưng lại, và tất cả hoàn toàn đóng
cửa vào năm 1991.Đến năm 2004, v́ chiến
tranh, sự đầu cơ của OPEC, chính phủ
Mỹ phê chuẩn luật cho khai thác lại, đây là
nguồn dầu rất phong phú, vô tận, nên sẽ
là 1 sự thăng hoa về kinh tế, nhưng đằng
sau cũng là thảm họa lăm le chờ đợi,
v́ trên hai trăm ngàn giếng dầu khoan trên đất
Mỹ, mỗi giếng cần 6 triệu gallon nước
sạch, là thảm họa cho các vùng thường
bị hạn hán, nước mang dầu sau khi tinh
chế xong thải đi đâu? để khỏi ô
nhiễm môi trường, dù có tái sinh cách mấy cũng
không thể dùng lại nước này trong cuộc
sống, những hồ tích tụ nước phế
thải ở Texas (trên 50,000 giếng) hay ở North
Carolina là nguyên nhân gây nên những chấn động
trong ḷng đất gần đây, chưa kể
chất methane tan trong môi trường sẽ gây
họa cho sức khỏe con người, hiện nay
đang khai thác, nhưng dầu phiến đá đang
là bài toán nhức óc cần phải được t́m
hiểu và giải quyết, chứ không thể khai thác
vô trách nhiệm.
Cái
khó ló cái khôn:
Thời
gian gần đây, một loạt các lần trái đất
rung chuyển bất thường và liên tục bên dưới
ḷng đất của khu vực phía Bắc Texas đă
làm chính quyền Tiểu bang không c̣n có thể làm ngơ
trước khả năng về liên hệ giữa
hoạt động địa chấn và trên 8.000
giếng nước thải.
Dầu
đá phiến là loại dầu thô nằm ngầm bên
trong đá phiến. Muốn lấy được
dầu, người ta không chỉ việc đơn
giản đặt giàn khoan, thọc mũi xuống ḷng
đất để hút dầu thô lên, chở tới
các nhà máy lọc như từ trước đến
giờ vẫn làm với loại dầu quy ước.
Ngược lại, người ta phải tẩn
mẩn theo một quá tŕnh mới để t́m cách
chiết xuất dầu. Chữ chuyên môn tiếng Anh
nguyên thủy là hydraulic fracturing, nay đă được
thế giới đồng ư dùng với chữ
mới thu ngắn fracking, c̣n kỹ nghệ dầu khí
Trung Cộng phải chọn chữ thủy lực áp
liệt để gọi theo. Phương pháp chiết
xuất bằng thủy lực nầy được
ông Floyd Farris phát minh, và thí nghiệm lần đầu
năm 1947 tại mỏ dầu Hugoton ở địa
phận quận Grant nằm tại phía Tây nam Tiểu
bang Kansas, bằng cách trộn 1.000 gallon xăng keo (nhiên
liệu để làm bom napalm) với nước hút lên
từ sông Arkansas, rồi phun vào tầng đá vôi có
trữ dầu nằm sâu 730 mét trong ḷng đất, nhưng
không thành công tuyệt đối. Tiếp tục nghiên
cứu thêm hai năm, vào ngày 17/03/1949, hăng Halliburton
tiến hành đồng loạt hai công tŕnh thí
nghiệm khác, vừa ở quận Stephen của
Oklahoma, vừa tại quận Archer của Texas. Kể
từ đó, phương pháp chiết xuất nầy
được áp dụng thành công cho khoảng
một triệu giếng dầu và mỏ hơi đốt
ở các vùng địa lư khác nhau.
Sau
khi đạt kết quả mong muốn, phương
pháp fracking đă nhanh chóng lan tràn khắp Tiểu bang
Texas, kéo theo sự gia tăng nhu cầu nước
để làm sạch dầu đá phiến, làm
xuất hiện theo hàng hà sa số giếng nước,
để có đủ nước phun xuống các
tầng đá phiến trữ dầu. Khi hút trở lên
mặt đất, nước thải là thành phần
hỗn hợp chất lỏng sau quá tŕnh làm găy
vỡ (fractured) gồm dầu và nước nén cao áp
phun xuống, trộn với số nước nằm
sẵn với dầu và khí đốt từ xưa
nay. Để có lời, các giàn khoan chủ trương
lấy nước giếng phun xuống và chỉ dùng
một lần rồi bỏ, nhưng chính quyền
Texas đang áp dụng các luật mới buộc giàn
khoan phải tái sinh số nước thải ra,
thay v́ tiếp tục rút nước mới từ ḷng
đất, sau khi lượng nước tiêu thụ
ở mức 46 triệu thùng hồi năm 2005 đă lên
tới 3.5 tỉ thùng vào năm 2011, theo số liệu
thống kê của Hội đồng Thiết lộ
Texas, là cơ quan có trách nhiệm phân phối xăng
dầu và khí đốt của Tiểu bang.
Để
tuân thủ luật tái sinh, các nhà khai thác phải hút
lại nước thải từ máy chiết xuất,
dùng nhiều đội xe bồn để chở ngược
tới giàn khoan, để phun ngược xuống các
tầng đá phiến trữ dầu mới.
Tới
thăm các khu vực mỏ đá phiến dầu
ở Texas lúc nầy, người qua đường
sẽ dễ dàng bắt gặp dọc các khu đất
mông mênh chạy dọc hai bên xa lộ bụi mù
chứa đầy các bồn khổng lồ chứa nước
thải, và các ống dẫn, hay các ống nối,
để phục vụ khâu tái sinh nước. Các
đoàn xe bồn nối đuôi nhau mỗi đoàn
gồm từ 30 đến 40 chiếc liên tục
chạy đi chạy lại 24 giờ trong ngày, 7 ngày
trong tuần. Chở nước thải trở lại
giàn khoan của đoàn xe là một công đoạn không
đơn giản, nếu tính về mặt tắc
nghẽn giao thông, tai nạn, và ô nhiễm môi trường,
mỗi khi nước thải pha dầu tràn ra mặt
đất. Nước thải nầy là thứ
trộn lẫn giữa nước bẩn với dung
dịch lưu huỳnh và các hóa chất kỹ
nghệ khác, chưa kể độ mặn của nước,
và chất phóng xạ ở mức độ thấp.
Về
tới công trường, nước thải nầy
được trút xuống một hố lớn
với tường và đáy lót bằng cao su, trước
khi dẫn sang một bồn phân thủy, nơi
dầu nổi lên trên mặt được công nhân
vớt đem bán. Mỗi tháng, tất cả các hăng xưởng
ở Texas thải ra 290 triệu thùng nước –
một khối lượng ngang với 18.500 hồ bơi
đúng cỡ thế vận. Trên toàn Tiểu bang
hiện có hơn 8 ngàn giếng nước thải
lớn nhỏ, trong đó một phần mười là
cỡ kỹ nghệ – nhiều hơn các Tiểu bang
chuyên khoan dầu như Pennsylvania hoặc Ohio.
Bên
cạnh chi phí không nhỏ để tái sinh nước
thải, thời gian để một công ty được
cấp giấy phép đào giếng nước là
một thủ tục khó khăn, kéo dài từ tháng
nầy sang tháng khác. Ví dụ hồi cuối tháng
3/2013, ba thành viên của Hội đồng Thiết
lộ chặn đứng việc cấp phép cho
một công ty xin đào ở quận Palo Pinto, nằm
về phía tây, cách Forth Worth một giờ xe, sau khi
hạch hỏi công ty nguyên đơn về khoảng
cách từ giếng nước tới các phụ lưu
của sông Brazos, là con sông cái dài nhất Tiểu
bang, vừa là nguồn nước chính để cung
cấp cho dân chúng. Hồ sơ của hội đồng
nầy cho thấy năm ngoái chỉ có 72% trên
tổng số đơn xin đào giếng được
cấp giấy phép. Theo giải thích của ông Barry
Smitherman, Chủ tịch hội đồng, tỉ
lệ ấy đă là nhiều, v́ “nếu không
cấp phép, đoàn xe bồn sẽ phải đi
khứ về hồi xa hơn, làm đường sá
xuống cấp nhanh hơn, và gây tai nạn nhiều hơn”.
Phần ḿnh, cơ quan nầy hiện đang bị
khiếu nại trong nhiều vụ v́ hoa màu và cây trái
bị chết do nước thải ứa ra từ các
máy bơm bị ṛ rỉ, hay từ các hố
chứa, nhất là ở ngoại ô Dallas-Ft. Worth nơi
có các sinh hoạt khoan dầu đá phiến ở
mỏ Barnett, các Khoa học gia kết luận rằng:
các giếng nước thải là thủ phạm
của những đợt động đất
từ 2 đến 3.6 độ. Trong các vụ
khiếu nại có một vụ được xem là
nhức nhối: thành viên hội đồng Christi
Craddick cho rằng giếng nước thải đă làm
ô nhiễm tầng nước ngầm của Tiểu
bang. Bà nầy nói một nhân viên vận hành đă
tắc trách, và sự cẩu thả của anh ta
dẫn tới một hậu quả trầm trọng,
để nước thải thoát ra hồi năm
2005, làm nhiễm bẩn trầm tích của tầng nước
ngầm sông Pecos. Kết quả là chính quyền
phải thâu hồi giấy phép, làm công ty ấy phá
sản.
Một
lo ngại khác nữa là nước thải phun
xuống ḷng đất có thể tràn tới các
giếng dầu bỏ hoang không c̣n khai thác. Trong ngôn
ngữ địa phương của dân Texas có
chữ wildcat, nghĩa đen là mèo hoang, tiếng lóng là
danh từ và động từ để gọi các
chuyến khoan dầu không được chuẩn
bị bằng thăm ḍ hay khảo sát khoa học trong
thời điểm tính tới năm 1838, là những
cuộc phiêu lưu t́m dầu đầy bất
trắc, và mạo hiểm; nếu được
dầu th́ khoan tiếp, nếu thất bại th́
cứ lẳng lặng bỏ giếng khoan cuốn gói
đi. Hiện trên lănh thổ Texas đất rộng
người thưa c̣n hàng ngàn giếng hoang như
thế, bỏ phế vô trách nhiệm, nay hội đồng
đang t́m ngân sách để lấp lại. Theo yêu
cầu khoa học tân tiến, các giếng khoan nước
thải phải thực hiện bằng cách chừa
lại một lớp đệm bằng đá hay
đất sét dày tối thiểu 80 mét để ngăn
nước thấm tới khu vực lân cận. Trên
đơn xin giấy phép khoan giếng, nguyên đơn
phải hứa sẽ tiến hành khảo sát tất
cả các giếng khác trong bán kính một phần tư
dặm. Tuy nhiên, nhiều giếng cũ bỏ hoang không
nằm trong thư tịch nhà nước, nên việc
khảo sát đă hứa hẹn khó được xúc
tiến vẹn toàn. Rồi khi phun hóa chất và nước
cao áp xuống ḷng đất, ai sẽ ngăn mũi
dung dịch ấy không đi xa hơn một phần tư
dặm quy định, để làm nhiễm bẩn các
nguồn nước khác lân cận?
Chiết
tách dầu đá phiến:
Theo
định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế (OECD: Organization for Economic
Co-operation and Development) – cơ quan chuyên môn chung
của 34 quốc gia trên thế giới – dầu
lửa quy ước (conventional oil) là loại dầu
thô, và khí đốt ở dạng ngưng tụ, c̣n
dầu không quy ước gồm nhiều dạng khác
như dầu cát, dầu nặng cân, hơi đốt,
và chất lỏng. Tuy nhiên, theo Bộ Năng lượng
Hoa Kỳ, dầu lửa không quy ước đến
nay vẫn chưa chính thức được phân
định. Do đó, cứ dựa theo cách khai thác, người
ta gọi dầu thô lấy lên từ các giếng
dầu là dầu lửa quy ước, c̣n dầu
lấy được từ những phương pháp
khác là dầu không quy ước.
Theo
cách định nghĩa tạm bợ kể trên,
chiết tách dầu đá phiến là một quy tŕnh
nhiều bước để lấy được
dầu lửa bất quy ước, gồm việc
chuyển kerogen tẩm trong đá phiến thành dầu
thông qua phương pháp nhiệt phân, khinh hóa hay
thủy phân. Khi thành phẩm, dầu đá phiến
được dùng như nhiên liệu, hay được
nâng cấp bằng cách phụ gia hydro song song với
việc loại bỏ tạp chất nitrogen và lưu
huỳnh.
Quy
tŕnh chiết tách dầu đá phiến có thể
tiến hành bằng cách hút các chất quặng lên
mặt đất để chế biến trong nhà máy,
hay tái tạo ngay trong giếng dầu dưới ḷng
đất bằng cách dùng nhiệt lượng,
rồi hút dầu lên bằng giếng dầu. Con người
đă nghĩ ra quy tŕnh lấy dầu đá phiến
vào thế kỷ thứ 10, nhưng phải đợi
tới năm 1684, nước Anh mới cấp tấm
giấy chứng nhận bản quyền về phát
minh cho ba người đầu tiên. Hai thế kỷ
sau, phong trào chiết tách dầu cũng như các bước
cải tiến đă được nhân loại
rầm rộ ứng dụng, cho đến giữa
thế kỷ 20 mới ch́m lắng xuống, khi con người
t́m được các mỏ dầu quy ước
khổng lồ – chỉ trừ các quốc gia Estonia,
Brazil và Tàu Cộng. Qua đầu thế kỷ 21
nầy, do giá dầu tăng vọt dữ dội, nên
chuyện khai thác dầu đá phiến mới
được hâm nóng trở lại, cũng như
được canh tân bằng các kỹ thuật tân
kỳ hơn. Cạnh các ưu điểm, là
những điểm bất lợi không nhỏ trong lănh
vực quản lư môi trường, như giải
quyết nước thải, lượng nước dùng
hết sức khổng lồ, vấn đề
quản lư nước thải và vấn đề ô
nhiễm không khí, hay nạn động đất
nhẹ, và liên tục đang xẩy ra ở phía
bắc Texas.
Lược
sử Nghệ thuật Chưng cất:
Theo tác giả Robert Forbes
trong cuốn Lược sử Nghệ thuật Chưng
cất ấn hành năm 1948, nhà Vật lư học kiêm
thầy thuốc người Syria tên Masawaih al-Mardini
trong thế kỷ thứ 10 đă viết về kinh
nghiệm bản thân về chiết xuất dầu
từ một thứ đá phiến sét có chất
nhựa trải đường. Nhưng phải
tới năm 1838, thành tựu chiết xuất dầu
ở qui mô kỹ nghệ và tân tiến mới
được phát minh bởi Alexander Selligue tại Pháp,
trước khi kỹ thuật nầy được
James Young cải thiện sau một thập niên,
tại Tô Cách Lan. Qua đến cuối thế kỷ
thứ 19 th́ các công trường khai thác dầu đá
phiến đă tràn ngập ở Úc, Brazil, Canada và Hoa
Kỳ. Riêng Tàu Cộng, Estonia, Tân Tây Lan, Nam Phi, Tây
Ban Nha, Thụy Sĩ, và Thụy Điển đă
khởi sự chiết xuất thứ dầu lửa
nầy vào đầu thế kỷ 20. Sản lượng
chung của ba nước Trung Cộng, Brazil và Estonia
trong năm 2008 lên tới 17.700 thùng dầu đá
phiến mỗi ngày. Đến thập niên 1920,
việc phát hiện dầu thô ở Texas, và tại
Trung Đông vào giữa thế kỷ 20 đă làm
kỹ nghệ khai thác dầu đá phiến đứng
sững lại; cơ sở chưng cất dầu
đá phiến của hăng Unocal đóng cửa hẳn
vào năm 1991. Nước Mỹ ngừng hẳn
kỹ nghệ dầu đá phiến suốt một
thời gian 14 năm, cho đến 2005, khi chính phủ
có luật mới cho tư nhân thuê để chiết
xuất dầu đá phiến và dầu cát bên dưới
mặt bằng đất do Liên bang quản lư, theo
tinh thần Luật Năng lượng được
Quốc hội phê chuẩn ngày 29/07/2005.
Chiết
xuất dầu đá phiến và nạn động
đất :
Bản
thân quy tŕnh phun hàng triệu gallon hỗn hợp nước,
cát và hóa chất được nén với áp
suất lớn xuống giếng dầu để làm
vỡ đá nhằm tống cho dầu và hơi đốt
thiên nhiên thoát ra từ trước đến nay
những tưởng là an toàn và có hiệu quả,
nay đang được các Khoa học gia cho là có liên
quan chặt chẽ tới nạn động đất.
Tại khu vực mỏ dầu đá phiến Barnett
quanh Dallas-Fort Worth, t́nh trạng địa chấn
đang được ghi nhận liên tục, cả
về nhịp độ lẫn cường độ.
Thủ
phạm của các cơn địa chấn gần các
điểm khai thác dầu đá phiến không do
bản thân động tác khoan hay quy tŕnh làm vỡ
đá phiến, mà là do các giếng nước
thải, tức các ổ chứa số nước pha
trộn đă dùng để khoan t́m dầu. Các
giếng nầy nằm sâu hàng ngàn feet trong ḷng đất,
được bao bọc bởi nhiều lớp bê tông,
đủ lớn để chứa nước
thải của nhiều giàn khoan gộp chung lại. Trên
phần đất Texas hiện có hơn 50.000 giếng
như thế để chứa nước thải ra
từ hơn 216.000 địa điểm khoan dầu.
Mỗi giếng sử dụng khoảng 4 triệu rưỡi
gallon nước có pha hóa chất. Chuyên gia Cliff Frohlich
của Pḥng Địa Vật Lư thuộc Viện
Đại học Texas tại Austin cho rằng: “bên
trong các phay địa lư, nếu chúng ta bơm nước
vào, vị trí phay sẽ bị trượt, để
tạo thành địa chấn. Các Khoa học gia làm
việc chung với tôi đồng ư rằng: nước
phun vào ḷng đất đôi lúc tạo cho đất
rung chuyển”. Kết luận của giới chuyên môn
cho rằng các trận động đất nhân
tạo xuất phát bởi kỹ nghệ dầu và khí
đốt chẳng có ǵ mới lạ. Theo tiến sĩ
William Ellsworth của Trung tâm Nghiên cứu Địa
chấn thuộc Sở Quan trắc Địa lư
Quốc gia Hoa Kỳ, “nhiều thập niên trước
đây, các nhà Nghiên cứu đă nhận ra rằng:
họ có thể tắt, hay khởi động một
cơn địa chấn chỉ bằng cách phun
mạnh chất lỏng vào đất”. Tiếp theo,
các nghiên cứu mới nhất cũng đă xác
nhận mạch liên hệ giữa các giếng
chứa nước thải và địa chấn,
đặc biệt là tại Tiểu bang Texas. Các
trận động đất nhẹ ghi nhận
được tại Barnett, là mỏ dầu đá
phiến nằm ngay bên dưới phần lănh thổ
của các quận Johnson, Tarrant và các quận huyện
khác ở phía tây Dallas, ở độ sâu khoảng
một dặm rưỡi trong ḷng đất. Mỏ
Barnett chứa phỏng chừng 40 ngàn tỉ feet
khối hơi đốt tự nhiên, là mỏ dầu
bên trong lục địa lớn nhất ở Texas, và
không chừng lớn nhất của cả nước
Mỹ. Ngoài kết luận của Viện Đại
học Texas tại Austin vào mùa hè vừa qua cho
rằng: dứt khoát các giếng nước thải
trong vùng mỏ đá phiến Barnett và các trận
động đất quanh Dallas-Fort Worth có liên quan
với nhau, một công tŕnh nghiên cứu khác của
Đại học SMU (Southern Methodist) chung với đại
học UT cũng đă t́m thấy bằng chứng
về gạch nối trực tiếp giữa các
giếng thải và các trận địa chấn trong
vùng hồi năm 2008 và 2009. Công tŕnh nầy đặc
biệt theo dơi hai giếng mới đào năm 2008, không
quá bảy tuần sau, động đất đă
xảy ra. Sau đợt ấy, họ c̣n ghi nhận thêm
hơn 50 cơn địa chấn khác nữa, mặc
dù tất cả đều có độ rung 3.5 trở
xuống, trong khi động đất phải từ
4 độ trở lên mới gây nên thiệt hại
hiển nhiên. Tiến sĩ Cliff Frohlich phân tích:
“Phần lớn các cú địa chấn nầy không
xảy ra ngay tại giếng nước thải, nhưng
rơ ràng cơn rung có thể làm tổn thất
giếng chứa nước. Điều quan trọng là
chúng ta cần lưu ư rằng ở Texas có hàng
chục ngàn giếng thải, nhưng hiện tượng
động đất chỉ xảy ra tại một
vài nơi. Những ǵ đang xảy ra hiện nay là v́
phong trào chiết xuất dầu đá phiến lên
cao, làm số lượng giếng chứa nước
thải càng tăng, nhất là khi những giếng
thải ấy nằm gần khu tập trung dân cư
cao, sống bằng nguồn nước ngầm dưới
đất”.
Tháng
10/2011, Tiểu bang Texas có trận động đất
mạnh 4.8 độ gần mỏ đá phiến Eagle
Ford gần San Antonio, nơi tập trung hơn 550
giếng. Riêng vùng cận lân Dallas-Fort Worth đă có hơn
50 lần từ năm 2008 đến nay; trước
đó, vùng nầy không hề có nạn đất
rung chuyển. Trận mới nhất vừa xẩy ra
hôm 22/01/2014 mạnh 3 độ, ngay bên ngoài ṿng rào
phi trường quốc tế DFW. Động đất
do khai thác dầu đá phiến không chỉ dành riêng
cho Texas. Tiểu bang Ohio vừa mới trải qua cơn
địa chấn mạnh 4 độ gần thị
trấn Youngstown. Đó là lần đất rung
thứ 11 của thị trấn nầy từ năm
2011 đến nay, do hậu quả của các giếng
nước thải, Ohio là nơi có nhiều giếng
chứa nước thải từ các mỏ khai thác
dầu đá phiến bên Tiểu bang Pennsylvania chở
qua.
Nói
chuyện với Phóng viên của StateImpact Texas,
Tiến sĩ Cliff Frohlich thú thực rằng:
chỉ mới cách đây một năm, ông không
hề nghĩ rằng bản thân quy tŕnh chiết
xuất dầu có dự phần gây ra nạn động
đất. Nay th́ ông nghĩ ngược lại.
StateImpact Texas là tổ hợp phóng viên của hai đài
phát thanh KUT ở Austin và KUHF ở Houston, chuyên về
các vấn đề năng lượng, và môi trường
tác động vào cuộc sống người dân.
Dưới
áp lực của người dân sau các kết
luận của Khoa học gia chuyên ngành, ngày 28/10
vừa qua, Hội đồng Thiết lộ Texas đă
thắt chặt thêm các điều luật về
đào giếng chứa nước thải từ các
mỏ dầu đá phiến. Dự luật mới
đưa ra buộc người đứng đơn
xin giấy phép phải đệ tŕnh bản liệt
kê các cơn địa chấn trong khu vực họ
muốn đào giếng. Sau khi giếng đă đi vào
sử dụng, nếu có vấn đề về khoa
học, hội đồng có quyền treo giấy phép,
hay tŕ hoăn nhịp độ sử dụng giếng,
đồng thời yêu cầu chủ giếng tiết
lộ hồ sơ ở một nhịp độ thường
xuyên hơn về khối lượng cũng như áp
lực dùng để nén nước khi phun xuống ḷng
đất. Ông Barry Smitherman, một thành viên trong
hội đồng, tuyên bố rằng đây là
cuốn sách chỉ nam cho cơ quan ông hành động,
mà không cần phán quyết của chính phủ Liên
bang. Hiện Texas đă có trên 3.600 giếng thải
cỡ kỹ nghệ. Trong năm 2013, chính quyền
vừa cấp phép cho đào thêm 668 giếng, là con
số gấp đôi số giấp phép cấp năm
2009.
Chạy
đua với Texas :
Cho
đến năm 2004, vùng đất c̣ bay thẳng cánh
ở miền Bắc Tiểu bang North Dakota vẫn c̣n
được xem là miền hoang vu trầm mặc, nơi
khách ngồi xe hơi chạy giờ nầy sang
giờ khác mà vẫn không thấy bóng dáng con người.
Các tiếng động nơi đây phần lớn là
tiếng gió hú. Hỏi bất cứ người dân
địa phương nào về tương quan
giữa con người với cái bao la trầm
lắng, và tĩnh mịch muôn thủa của thiên nhiên,
bạn sẽ nghe họ nói về tiếng gọi dũng
mănh đầy cảm xúc dành cho những con người
yêu thích tự do.
Những
cái đó nay không c̣n nữa. North Dakota đang thay
đổi từ ngọn xuống đến gốc. Lư
do chính: dầu đá phiến.
Trên
mặt xa lộ cao tốc cách đây vài năm
thảng hoặc mới có một bóng xe chạy qua,
nay hằng ngày nối đuôi nhau hàng chục ngàn xe
vận tải ầm ĩ. Ban đêm, ngồi trong xe
từ đỉnh đồi theo con đường
ngoằn ngoèo chạy xuống phóng tầm mắt nh́n
ra chân trời, khách có thể thấy ngọn lửa
cao hàng mét sáng rực cả một khoảng trời.
Đó là hơi đốt tự nhiên thoát ra từ ḷng
đất, chiếu sáng giàn khoan dầu kế
cận. Cơn bùng nổ của dầu khí đă khoác
lên địa danh North Dakota một biệt danh mới,
“Xứ Kuwait Trên Thảo Nguyên”.
Thật
không sai. Cũng như đất nước Kuwait giàu
dầu, miền đất mang tên tắt “ND”
nầy rất gần trong tương lai sẽ đóng
một vai tṛ chủ yếu trong kỹ nghệ dầu
xăng thế giới. Cơ quan năng lượng
Tiểu bang đă dự đoán rằng North Dakota
sẽ qua mặt Texas để dẫn đầu nước
Mỹ về sản lượng dầu khí. Sâu
khoảng 3 km bên dưới thảo nguyên xanh ŕ kia là
vựa khổng lồ chứa từ 500 đến 900
tỉ thùng dầu mỏ.
Các
chương tŕnh phát triển tại North Dakota không
chỉ mang ư nghĩa quyết định cho Tiểu
bang, mà c̣n cho cả nước Mỹ. Các kỹ
thuật, các hăng xưởng, các Khoa học gia đang
thử nghiệm tại đây có khả năng
dẫn tới một đợt bùng nổ mới
về dầu khí trên qui mô toàn cầu. Bởi v́
từ độ 10 năm nay, các doanh nghiệp Tiểu
bang xúm lại để quảng cáo một loại
quặng thô lấy ra từ một khu vực h́nh thành
địa chất có tên Bakken, rộng hơn gấp rưỡi
diện tích toàn nước Việt Nam, bao gồm
phần đất của hai Tiểu bang Montana và North
Dakota của Hoa Kỳ cũng như ăn thông qua
tới tỉnh bang Saskatchewan và Manitoba bên Canada – nơi
mà Sở Địa dư Quốc gia Mỹ trong
bản kết quả quan trắc mới nhất
của tháng 4/2013 ghi rằng có trữ lượng
tới 7.4 tỉ thùng dầu.
Theo
bản kết luận của Viện nghiên cứu
chiến lược HIS th́ trên thế giới có
chừng 146 vùng h́nh thành đá phiến tương
tự trên khắp bề mặt trái đất
nằm ở bên ngoài Hoa Kỳ với trữ lượng
khoảng 300 tỉ thùng dầu có thể khai thác
được, đủ để cho cả thế
giới tiêu thụ suốt mười năm với
tốc độ hiện nay. Riêng vùng đá phiến
tại North Dakota, với kỹ thuật hiện đang
áp dụng, người ta sẽ khai thác được
từ ḷng đất từ 25 đến 45 tỉ thùng.
Như thế, nếu tính toán của Tiểu bang
nầy chính xác, th́ kỹ nghệ dầu khí của
họ sẽ vượt qua cả Texas, để
trở thành cuộc bùng nổ dầu hỏa hơn
nhất trong lịch sử cận đại, trong khi
đó, mặc nhiên North Dakota sẽ là “pḥng thí
nghiệm chung” cho ngành dầu lửa toàn thế
giới, nơi các kỹ thuật cao cấp nhất
sẽ trở thành khuôn mẫu cho mọi nơi. Như
thế, tác động của việc chiết
xuất dầu không qui ước vào môi trường
và khí hậu rơ ràng cũng phải được xem
xét tại đây.
Nhưng sự bùng nổ dầu khí
tại North Dakota hiện nay có nguồn gốc từ
chín năm về trước, từ đôi bàn tay
của ông Wayne Biberdorf, một cư dân của thị
trấn Williston từ năm 1980. Ông Biberdorf làm
việc cho hăng Hess trong cương vị Quản đốc,
và Kỹ sư trong 30 năm liền, trước khi
nghỉ hưu vào năm 2012. Ông từng tham gia
tiến hành hàng trăm mũi khoan cắm vào ḷng
đất để t́m dầu, trong đó có mũi
khoan vào mùa thu năm 2004, khi ông đang ngồi bên máy
sưởi của công ty, bên ngoài trời lạnh
thấu xương, để điều khiển máy
khoan mỗi ngày 12 tiếng đồng hồ, trong ba tháng
liền. Mười năm sau, những người
kế nghiệp ông ngày nay không c̣n ngồi đồng
như thế, mà dùng 10 ngón tay trên cần điều
khiển máy điện toán. Một số khác th́ làm
Phi công, ngồi tại bản doanh Houston để
điều khiển máy bay drone ḍ t́m dầu trên không
phận North Dakota; người lái và chiếc máy bay cách
xa nhau 2.500 cây số. Rồi thay v́ cắm mũi khoan
xuống đất suốt 90 ngày như ông Biberdorf,
hậu duệ của ông nay rút ngắn lại c̣n 20
ngày cho mỗi mũi, để c̣n nhanh chóng tháo
rời giàn máy khoan chất lên xe tải, chở
tới một địa điểm khoan khác.
Trong mũi khoan lịch sử năm
2004 ấy, ông Biberdorf cùng các đồng nghiệp
khoan sâu 2km vào ḷng đất, rồi uyển
chuyển xoay mũi theo chiều ngang, để mũi
khoan đi song song với mặt đất, thọc sâu
vài trăm mét vào tầng đá phiến. Chính cái
kỹ thuật khoan ngang theo đường chân
trời ấy đă mở ra một kỷ nguyên
mới cho ngành khai thác dầu đá phiến, và
tạo thành sự bùng nổ dầu khí trên vựa
chứa Bakken. Sau khi các công nhân ấn các ống
dẫn xuống theo mạch khoan, đoàn xe bồn
chở tới khoảng nửa triệu lít dung
dịch hỗn hợp gồm nước, cát và hóa
chất để phun vào ḷng đất sâu 2km theo
lỗ khoan rộng bằng bàn tay; tia nước có
sức ép cực mạnh đă xé toạc các kẽ
đá phiến thành từng đường rănh dài hàng
trăm mét. Lần đầu tiên trong lịch sử
kỹ nghệ dầu khí, người ta đă hút lên
được một chất lỏng màu nâu giống
nước ngọt Coca Cola. Đó là dầu lửa
lấy từ đá phiến, và kể từ hôm
ấy, kỹ thuật làm vỡ đá kể trên
được báo chí Mỹ loan tin cho cả thế
giới loài người, với một chữ rất
Hoa Kỳ: fracking.
Thật ra, từ năm 1952, các nhà
Địa chất đă biết đến sự
hiện diện của dầu lửa trong các tầng
đá phiến. Vấn đề hóc búa là với phương
pháp nào, con người có thể hút dầu trong
kẽ đá lên trên mặt đất để tinh
lọc, loại bỏ các tạp chất, và giữ
lại dầu, để chế biến thành xăng.
Tại North Dakota, hai năm sau biến cố fracking
đầu tiên ấy, sản lượng dầu khai
thác được tại mỏ Bakken đă gia tăng
150 lần, vượt con số 660.000 thùng mỗi ngày,
vượt cả năng suất của Tiểu bang
Alaska, để bám gót Texas. Trước khi treo lên tường
cuốn lịch năm 2006, trừ một số
nhỏ trong ngành có khả năng tính toán được
thành quả và sự bội thu, người ngoài
cuộc vẫn hững hờ. Nhưng vào cuối năm
thứ nh́ sau mũi khoan lịch sử, các con ma
dầu khí thuộc trường phái cơ hội
chủ nghĩa nhảy xổm vào cuộc, đưa
ra các suy luận rằng North Dakota sẽ vượt
qua Texas, với sản lượng 2 triệu thùng
mỗi ngày, và con số mũi khoan có thể leo thang
từ 8 ngàn lên tới 4 hay 5 vạn. Có thể 20 năm
sau, mỗi ngày North Dakota có thể sản xuất 14
tỉ thùng dầu lửa cao cấp thật. Nhưng
chuyện đó c̣n xa. Xa không phải v́ chiều dài
thời gian, mà v́ đa phần số dầu khai thác
được và nước thải c̣n phải
tải bằng xe bồn 18 bánh. Chỉ đến khi nào
con người gỡ xong cái chướng ngại
về giao thông vận tải, và thay vào đó
bằng một hệ thống đường ống
chằng chịt, để chuyển dầu và nước
thải một cách tự động và có hiệu
ứng kinh tế.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Carolina Journal
vào ngày 18/01 năm ngoái, ông Vikram Rao, tác giả
cuốn Dầu Đá Phiến: Hứa hẹn và
Thảm họa, đă nói tới triển vọng
của loại dầu khí nầy như ngọn
thủy triều, thừa khả năng nhấc
bổng lên mọi con thuyền tăng trưởng
kinh tế dù chúng nặng tới cỡ nào, mặc dù
cùng được nâng lên với chúng là những rác
rến hỗn tạp lềnh bềnh. Rồi ông đề
cập tới mặt trái của loại năng lượng
mới, về mặt sử dụng nước.
Mỗi giếng dầu cần tới 6 triệu gallon nước
sạch, như thế, nếu mũi khoan nằm trong vùng
hạn hán, dân chúng sẽ lănh đủ. Ngoài ra, dù nước
sạch cỡ nào, sau khi hút trở lên, nó trở thành
nước mặn, không thể đổ bừa ra
đất, mà phải được giải
quyết. Chưa hết, gần đây, đă
xuất hiện những báo cáo về hiện tượng
khí mêtan lẫn trong nước uống ở các thành
phố gần mỏ dầu đá phiến. Đấy
là chất hóa học dạng khí không màu, không
vị, rất dễ bắt cháy, dễ gây ngạt và
có thể chiếm chỗ trong dưỡng khí trong
điều kiện b́nh thường. Như thế, các
biện pháp siết chặt của Hội đồng
Thiết lộ Texas không phải là chủ trương
quan liêu, mà cần mỗi chúng ta tự đoán xét. |