Văn
hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một
trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế
giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu
hỏi ngã Thật thế, dấu hỏi ngã trong
tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng.
Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược
và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn
hóa Việt Nam.
Chúng tôi xin đơn cử một vài trường
hợp như sau : Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ
phải được viết bằng dấu ngã
để mô tả một vị chính khách có kiến
thức văn hóa chính tri... , nhưng nếu vô tình chúng
ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu
hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ
sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ
sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ
và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn.
Một chữ thông thường khác như là hai
chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu
hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa
chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã)
tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư
hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng
nếu cho dấu ngã vào thành chữ sữa và dấu
hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là
sữa của những người đàn bà có thai
nghén.
Người sai lỗi nhiều nhất về viết
sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung
(người viết bài này là người miền
Trung).May mắn nhất là người thuộc
miền Bắc khi sinh ra là nói và viết dấu
hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng
khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này
viết dấu hỏi chữ kia lại đánh
dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa
được mà chỉ nở một nụ cười
trên môi...
Bài viết này nhằm mục đích đóng góp
một vài qui luật về dấu hỏi ngã của
tiếng mẹ đẻ Việt Nam chúng ta.
Dấu
hỏi ngã được căn cứ vào ba qui
luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ
Hán Việt và các qui luật ngoại lệ.
A.
LUẬT BẰNG TRẮC
Qui
luật bằng trắc phải được
hiểu theo ba qui ước sau.
1.
Luật lập láy
Danh
từ lập láy tức là một chữ có nghĩa
nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa
gì cả. Thí dụ: vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà
chữ vẻ lại không nghĩa, chữ mạnh
mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ
mẽ lại không hề mang một ý nghĩa nào
hết, hoặc chữ lặng lẽ, vẻ vang...
2. Luật trắc
Không
dấu và dấu sắc đi theo với danh từ
lập láy thì chữ đó viết bằng dấu
hỏi (ngang sắc hỏi). Thí dụ:
Hớn
hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ
hở phải là dấu hỏi.
Vui
vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ vẻ
đương nhiên phải dấu hỏi.
Hỏi han: chữ han không dấu, như thế
chữ hỏi phải có dấu hỏi.
Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì
chữ vẩn phải có dấu hỏi.
Tương tự như mắng mỏ, ngớ
ngẩn, hở hang...
3. Luật bằng
Dấu huyền và dấu nặng đi theo một danh
từ lập láy thì được viết bằng
dấu ngã (huyền nặng ngã).
Thí dụ:
Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì chữ
sẵn phải là dấu ngã.
Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền thì
chữ ngỡ phải để dấu ngã.
Mạnh mẽ: chữ mãnh có dấu nặng, do đó
chữ mẽ phải viết dấu ngã. Tương
tự như các trường hợp lặng lẽ,
vững vàng,...
B. CHỮ HÁN VIỆT
Văn chương Việt Nam sử dụng rất
nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng
ngày nên cứ xem như là tiếng Việt hoàn toàn.
Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng
du, viễn xứ,... tất cả đều do chữ
Hán mà ra.
Đối với chữ Hán Việt được
sử dụng trong văn chương Việt Nam,
luật về đánh dấu hỏi ngã được
qui định như sau:
Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt
đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều
viết bằng dấu ngã, các chữ Hán Việt khác
không bắt đầu bằng năm mẫu tự này
sẽ được viết bằng dấu hỏi.
Thí dụ:
Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì
dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt
đầu bằng chữ D và V.
Vĩ đại: vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ
bắt đầu với mẫu tự V.
Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng
qui luật Hán Việt nói trên.
Lẽ phải: lẽ dấu ngã vì chữ L, phải
dấu hỏi vì có chữ P.
Tư tưởng: chữ tưởng phải viết
dấu hỏi vì vần T đứng đầu.
Tương tự như: lữ hành, vĩnh
viễn,...
Để có thể nhớ luật Hán tự dễ dàng,
chúng tôi đặt một câu châm ngôn như thế này:
"Dân Là Vận Mệnh Nước"
để dễ nhớ mỗi khi muốn sử
dụng qui luật Hán tự nói trên.
C. CÁC QUI ƯỚC KHÁC
1. Trạng từ (adverb) Các chữ về
trạng từ thường viết bằng dấu ngã.
Thí dụ:
Thôi thế cũng được.Trạng từ cũng
viết với dấu ngã.
Xin anh đừng trách em nữa.Trạng tự nữa
viết với dấu ngã.
Chắc anh đã mệt lắm rồi.Trạng từ
đã viết với dấu ngã.
2. Tên họ cá nhân và quốc gia
Các họ của mỗi người và tên của
một quốc gia thường được viết
bằng dấu ngã.
Thí dụ:
Đỗ đình Tuân, Lữ đình Thông, Nguyễn
ngọc Yến...
Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn đều
viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng
họ hàng.
Nước Mỹ, A phú Hãn,...
Các chữ Mỹ và Hãn phải viết bằng
dấu ngã vì đây là tên của một quốc gia.
3. Thừa trừ
Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là
đoán nghĩa để áp dụng theo luật
lập láy và bằng trắc nói trên.
Thí dụ:
Anh bỏ em đi lẻ một mình.Chữ lẻ
viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra,
chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết
với dấu hỏi.
Anh này trông thật khỏe mạnh, chữ khỏe
ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe
khoắn mà ra, khoắn dấu sắc thì khỏe
phải dấu hỏi.
D. KẾT LUẬN
Văn chương là linh hồn của nền văn
hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai
lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến
nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và
người khác cũng như các việc trọng
đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc
một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi ngã
không được chỉnh tề.
Một ký giả người miền Nam trong câu
chuyện thân mật tại một quán phở
thuộc vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã
thành thật công nhận điều thiếu sót và
tầm quan trọng của dấu hỏi ngã trong văn
chương Việt Nam.Và cũng chính vị ký
giả lão thành nói trên đã khuyến khích chúng tôi
viết bài này trong mục đích làm sống lại
sự phong phú của nền văn chương, văn
hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với
những thế hệ trẻ hiện đang lưu
lạc trên xứ người.
|