Đầu
Thai và Luân Hồi
Nguyễn Nhân Trí |
Có người hỏi tôi có tin chuyện “đầu
thai” và “luân hồi” hay không. Tôi nghĩ
để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta có
thể xét đến những bằng chứng về
đầu thai và luân hồi. Đầu thai là một khái niệm cho rằng sau khi người
ta chết th́ thể xác bị tan hủy nhưng
phần hồn của họ sẽ tái sinh vào một
cơ thể mới. Theo tín ngưỡng Phật Giáo,
tùy duyên nghiệp của mỗi người, cơ
thể mới nầy có thể là một bào thai
của loài người hay một loài thú nào khác. Đây là một khái niệm đă có mặt trong
nhiều tôn giáo từ ngàn xưa, ngoài Phật Giáo và
Ấn Độ Giáo. Từ Ai Cập cổ đại
cho đến Tây Phương hiện đại cũng
có những hệ thống tín ngưỡng với giáo
điều, truyền thuyết trực tiếp hay gián
tiếp đề cập đến khái niệm tái
sinh. Khái niệm về luân hồi gắn liền với khái
niệm đầu thai. Luân hồi nói về sự tái
diễn vô tận của đầu thai; có nghĩa là
sự luân chuyển sinh ra, sống, rồi chết
đi để rồi tái sinh trở lại, sống,
rồi chết đi nữa ṿng quanh măi không bao
giờ dứt. Theo tín ngưỡng Phật Giáo,
một người vướng vào ṿng luân hồi v́
họ c̣n “nặng nghiệp”. Một ngày nào đó
khi nghiệp nầy đă dứt th́ họ sẽ
được giải thoát khỏi ṿng sinh tử và
vào Niết Bàn. Có thể nói luân hồi là một trường
hợp đặc biệt của đầu thai. Do
đó trong bài nầy tôi chỉ chú trọng về khái
niệm “đầu thai”. Chúng ta thường nghe nhiều chuyện kể, đọc
nhiều sách vở tài liệu nói đến
“bằng chứng về đầu thai”. Tác giả
của những câu chuyện và sách vở tài liệu
nầy đưa ra những trường hợp đă
xảy ra mà theo họ th́ “rơ ràng cho thấy đầu
thai là một hiện tượng có thật”. Nổi bật nhất có lẽ là trường hợp
của những người nhớ được
tiền kiếp của họ, nhiều khi rơ ràng và
chi tiết đến độ có thể xác định
được tiền thân của họ lẫn gia
đ́nh, quê quán, sinh hoạt đời sống mà
họ đă từng trải nghiệm ở kiếp trước. Những mẩu chuyện tiêu biểu nhất về
“nhớ lại tiền kiếp” có dạng như
sau: một đứa bé tên A sinh ra ở địa phương
X một hôm nào đó bắt đầu nằng
nặc cho rằng ḿnh là một đứa bé khác tên
B đă từng sống, và đă chết, ở
một địa phương Y. Sau khi điều tra,
người ta t́m ra một gia đ́nh ở địa
phương Y từng có một đứa bé tên B
đă chết. Và nhiều chi tiết về đời
sống, nguyên nhân chết, thân nhân cũng như gia
đ́nh của đứa bé B đều đúng như
đứa bé A đă diễn tả. Tôi không có giải thích khẳng định nào cho các
câu chuyện dạng trên. Tôi chỉ có thể nói là
tôi chưa có dịp đọc qua bài tường tŕnh
nào có đủ sức thuyết phục tôi hoàn toàn. Đó là v́, trước hết, tôi cho rằng “đầu
thai” không chỉ là nguyên do duy nhất có thể dùng
để giải thích các câu chuyện trên. Thí
dụ như nếu nh́n kỹ lại trường
hợp 2 đứa bé A và B ở trên th́ chúng ta
thấy ở đây dường như có một
sự “truyền tay” về kiến thức từ B
đến A: Đứa bé A v́ lư do ǵ đó mà
sở hữu được những kiến thức
của đứa bé B đă chết từ lâu
rồi. Do đó có vẻ như kiến thức có
thể truyền phát được qua không gian, và
thời gian, giữa cá nhân nầy đến cá nhân
khác. Đây là một nguyên nhân khả dĩ không liên
quan ǵ đến sự tái sinh. Nếu bạn đọc
tin vào hiện tượng được gọi là
“thần giao cách cảm” chẳng hạn th́ giả
thuyết vừa đưa ra không có ǵ đáng
ngạc nhiên lắm. Trong “thần giao cách cảm”,
kiến thức truyền phát qua không gian hầu như
lập tức giữa hai cá nhân khác nhau. Trong “đầu
thai”, kiến thức truyền phát qua không gian
lẫn thời gian. Trên phương diện lư
luận, giả thuyết “kiến thức truyền
phát” không hề kém giá trị ǵ cả so với
quan điểm “đầu thai” (cũng chỉ là
một giả thuyết). Kế đó, và quan trọng nhất, tôi đặt câu
hỏi về mức độ chính xác của
những dữ kiện tường tŕnh (nghĩa là v́
lư do nào đó chúng có bị thêm thắt, thêu dệt
hay không). Theo tôi th́ có rất nhiều lư do để
điều nầy có thể xảy ra (và v́ vậy có
xác suất rất cao). Nhiều câu chuyện ban đầu
nghe có vẻ rất đáng giá trị, tuy nhiên sau khi
nh́n kỹ vào th́ có nhiều chi tiết cho thấy
sự kém toàn hảo của những ǵ gọi là
“bằng chứng”. Ngay cả những bài tường
tŕnh của các tác giả được xem là “khoa
học” nhất cũng không ngoại lệ. Lấy thí dụ về Giáo Sư Ian Stevenson (1918-2007),
một nhà tâm thần học tài giỏi đă
từng giữ chức vụ Trưởng Khoa Tâm
Thần của Đại Học Virginia từ khi
mới 38 tuổi. Tuy vậy, sở thích chính trong
đời ông là nghiên cứu về sự sống bên
ngoài sự chết. Đến năm 1968, ông có cơ
hội đầu tư hoàn toàn thời giờ vào
việc nghiên cứu về lănh vực siêu nhiên
nầy. Ông đă dành hết tâm trí trong 40 năm sau
đó thu thập dữ kiện của hàng ngàn trường
hợp liên quan đến hiện tượng đầu
thai. Bất cứ tin đồn hay tài liệu báo chí
nào trên thế giới nói về một trường
hợp có vẻ như liên quan đến sự tái
sinh đều được Steveson điều tra. Có
thể nói, Stevenson là một trong các nghiên cứu gia hàng
đầu về lănh vực nầy. Một tác phẩm nghiên cứu nổi tiếng của
Ian Stevenson là quyển “Những ĐứaTrẻ
Nhớ Được Kiếp Trước của Chúng
– Một Câu Hỏi về Đầu Thai” (“Children
Who Remember Previous Lives – A Question of Reincarnation”) ấn hành
năm 2000. Trong quyển sách nầy, Stevenson nói về
14 trường hợp được xem là chứng
cớ đáng kể nhất cho hiện tượng
đầu thai. Cũng cần nói là các câu chuyện trong quyển sách
nầy, cũng như hầu hết các câu chuyện
khác mà ông đă có dịp nghiên cứu, chứa đầy
đủ tất cả những chi tiết ông có
thể thu lượm được. Đây là
một đặc điểm của Stevenson, ông là
một nghiên cứu gia rất tận tụy, chu đáo
và chân thật. Ông ghi chú lại mọi thứ và không
loại bỏ bất cứ chi tiết nào, ngay cả
những chi tiết có thể không có lợi cho
mục đích nghiên cứu của ông. Nhờ
vậy, sau khi xem xét kỹ về phương cách
điều hành quá tŕnh nghiên cứu và phân tích tài
liệu của Stevenson, một số b́nh luận gia
nhận thấy có nhiều vấn đề cần
được lưu ư. Nhận xét đầu tiên đập vào mắt các b́nh
luận gia là cách lựa chọn đối tượng
nghiên cứu của ông. Để bảo đảm
sự khách quan, đáng lẽ ra ông phải bắt
đầu bằng cách phỏng vấn nhiều đứa
trẻ khác nhau để dần dần t́m ra những
đứa có vẻ như đă từng được
đầu thai để làm đối tượng
nghiên cứu. Và đáng lẽ ông rồi phải
tiếp tục theo dơi và khảo sát đời
sống trước đó và sau nầy của
những đối tượng để so sánh
những ǵ chúng kể và những ǵ thật sự
xảy ra. Tuy nhiên, thay v́ vậy, theo chính lời
kể của ông, Stevenson đă chỉ t́m đến
những đứa trẻ sau khi chúng đă được
nhiều người biết đến rồi về
những mẩu chuyện “đầu thai” của chúng.
Có nghĩa là, các đứa bé đối tượng
nghiên cứu của ông đă được thân nhân
của chúng xác định rằng chúng là bằng
chứng của sự đầu thai. Và đó có nghĩa
rằng các đứa bé nầy đă có sẵn định
kiến về vấn đề đầu thai, cũng
như mọi người khác sống chung quanh chúng, và
cũng như chính bản thân ông. Nói cách khác,
rất có thể mọi người liên quan đến
các đối tượng nghiên cứu (kể cả
người điều hành cuộc nghiên cứu là ông)
đều đă có sẵn những quan điểm và
ư tưởng thuận lợi cho việc dẫn đến
một kết quả xác định sự hiện
hữu của hiện tượng đầu thai. Hơn nữa, cuộc nghiên cứu của Stevenson không
bao gồm các quá tŕnh theo dơi, quan sát đời
sống của các đối tượng và những
nhân vật liên quan đến chúng. Nói chung, phạm
vi nghiên cứu của ông chỉ bao gồm những
cuộc phỏng vấn để thu thập dữ
kiện. Nói cách khác, những nhận xét và kết
luận của ông chỉ dựa vào những câu
chuyện kể lại từ những người khác.
Và như đă nói, những người nầy
rất có thể đă có sẵn những định
kiến ủng hộ quan niệm đầu thai. Các sự kiện trên lập tức tạo ra một môi
trường rất chủ quan cho toàn thể cuộc
nghiên cứu của Stevenson. Điều nầy, các b́nh
luận gia cho rằng, có thể đưa đến
những kết quả hoàn toàn thiên vị. Tuy vậy, tạm gạt bỏ hai vấn đề trên
qua một bên, chúng ta hăy nh́n tiếp đến 14 câu
chuyện ông sử dụng cho quyển sách trên. Trong
14 câu chuyện nầy có: · 3 câu chuyện được kết luận là “không
đủ dữ liệu để có thể xác định
được nhân vật trong tiền kiếp của
đối tượng là ai”. · 9 câu chuyện được kết luận là “có
đủ dữ liệu để xác định
được nhân vật tiền kiếp”. Tuy nhiên
các nhân vật trong tiền kiếp đó đă
(hoặc rất có thể đă) có những liên
lạc trực tiếp hay gián tiếp với gia đ́nh
của các đứa bé đối tượng. · 2 câu chuyện được kết luận là “có
đủ dữ liệu để xác định
được nhân vật tiền kiếp”, và các nhân
vật trong tiền kiếp không hề có liên lạc
ǵ với gia đ́nh đối tượng. Theo các b́nh luận gia, 3 trường hợp “không
đủ dữ liệu để xác định nhân
vật tiền kiếp” không đáng được
kể là bằng chứng. Những đứa trẻ
nầy có thể đă để trí tưởng tượng
của chúng phối hợp với những ǵ chúng
đă vô t́nh nghe thấy chung quanh và tạo dựng ra
những câu chuyện của chúng. Hoặc có thể v́
lư do ǵ khác không liên quan đến việc đầu
thai. Không có ǵ để kiểm chứng được. Nên nhớ rằng trí nhớ con người làm
việc một cách rất đặc biệt. Mỗi
lần trí óc chúng ta ghi nhớ một sự kiện ǵ
th́ toàn thể sự kiện đó không được
lưu trữ lại nguyên vẹn từ đầu
đến cuối. Thay v́ vậy, mỗi sự
kiện được “bẻ gẫy” ra thành
nhiều chi tiết nhỏ rồi mỗi chi tiết
nầy được “ghi chép” lại dưới h́nh
thức hóa chất và điện từ trong các
tế bào năo. Rồi mỗi khi chúng ta muốn nhớ
lại sự kiện đó th́ các chi tiết nhỏ
bé trên (chứa đựng trong tri thức, và trong
tiềm thức) sẽ được “đem ra”
để ráp ghép lại thành một câu chuyện
diễn tả sự kiện ban đầu. Nhiều
khi quá tŕnh “ráp ghép lại” nầy không hoàn
hảo. V́ vậy có những khi chúng ta không nhớ
lại một cách chính xác mọi chi tiết. Có
nhiều khi câu chuyện kể lại của chúng ta
được ráp ghép lại bởi chi tiết
của vài sự kiện khác nhau. Cũng có những
khi chúng ta không nhớ rơ nguồn gốc của
một số trí nhớ. Do đó có những sự
kiện, những câu chuyện chúng ta tưởng là
đă nhớ lại rất rơ ràng nhưng đă
bị lệch lạc đi ít nhiều mà chúng ta không
hay biết. Về 9 trường hợp “có đủ dữ
liệu xác định nhân vật tiền kiếp –
nhưng đă có sự liên lạc với gia đ́nh
đối tượng” th́ cũng không có ǵ bảo
đảm các đối tượng đă không
bằng cách nào đó vô t́nh thu lượm được
các chi tiết mật thiết nhất của các nhân
vật tiền kiếp qua trung gian của gia đ́nh chúng.
Chẳng hạn như khi xét đến 4 câu chuyện
sau đây trong 9 trường nầy nầy, các b́nh
luận gia nhận thấy các dấu hiệu rất
đáng nghi ngờ về giá trị của chúng. 1. Câu chuyện của Corliss Chotkin Jr: Một ông lăo
sống trong một cộng đồng tin vào hiện
tượng đầu thai. Ông nói với cháu gái
của ông rằng sau khi chết ông sẽ đầu
thai thành con trai của cô ấy. Và quả thật sau
khi ông chết, cô sinh ra một đứa con trai. Cô
cho rằng nó là hiện thân của chú cô v́ nó có
những vết bớt trên người trùng hợp
với những vết sẹo mà chú cô đă có. Tuy
nhiên khi Stevenson t́m đến phỏng vấn (lúc
đứa bé đă 6, 7 tuổi) th́ cô ấy cho
biết là những vết bớt trên thân thể
đứa bé đă “tự dời chỗ” đi các
nơi khác! Có nghĩa là các vết bớt trên người
đứa bé bấy giờ không c̣n trùng hợp
với những vết sẹo của người chú
nữa. Các b́nh luận gia than phiền về việc
Stevenson quá dễ tin khi ông chấp nhận lời người
mẹ rằng các vết bớt của đứa bé
đă “tự dời chỗ đi”. 2. Câu chuyện của Gillian và Jennifer Pollock: Hai đứa
bé gái 6 và 7 tuổi bị tai nạn cùng chết
một lúc. Người cha là một người
rất tin vào đầu thai. Ông cho rằng hai đứa
con gái đó sẽ đầu thai trở lại thành
những đứa con sau nầy của ông. Vợ ông
sau đó sanh được hai đứa con gái song
sinh. Trong khoảng thời gian các đứa bé song sinh
bắt đầu 2 tuổi cho đến lúc 4
tuổi, chúng thường nói đến những chi
tiết rất chính xác về 2 người chị
đă qua đời của chúng. Các b́nh luận gia
cho rằng v́ lư do ǵ đó Stevenson đă không
nhận thấy rằng rất có thể chỉ v́ người
cha rất tin vào đầu thai, và v́ sự đau
đớn đă mất 2 đứa con ban đầu,
nên ông (cũng như gia đ́nh) đă vô t́nh thường
xuyên nhắc đến 2 đứa con đă qua đời
trước mặt 2 đứa bé song sinh. V́ thế,
rất có thể khi bắt đầu biết nói th́
tiềm thức của chúng đă chứa đựng
sẵn nhiều chi tiết chính xác về 2 người
chị đă chết. 3. Câu chuyện của Michael Wright: Một cô gái trẻ
sắp cưới người yêu của ḿnh nhưng
anh chàng bị tai nạn chết th́nh ĺnh. Cô gái
rồi lập gia đ́nh với người khác và
sinh ra một đứa bé trai mà cô cho là hiện thân
của người yêu cũ đă qua đời
của cô. Cô kể với Stevenson cô đă nằm mơ
thấy anh ta đúng một năm sau ngày anh chết.
Stevenson tin rằng đây là một “dấu hiệu báo
trước” anh ta sẽ trở lại. Cô gái, và
cả gia đ́nh cô, rất tin vào hiện tượng
đầu thai. Các b́nh luận gia cho rằng rất có
thể đây chỉ là một hiện tượng tâm
lư chớ không liên quan ǵ đến tâm linh: V́ thương
tiếc (dù chỉ trong tiềm thức) người yêu
cũ và v́ niềm tin mạnh mẽ về đầu
thai nên cô gái đă có những ấn tượng
vừa kể. 4. Câu chuyện của Hanumant Saxena: Một người
đàn bà Ấn Độ nằm mơ thấy
một người đàn ông cùng làng vừa bị
bắn chết hiện về nói rằng “Tôi sẽ
đến với cô”. Bà nầy sinh ra một đứa
bé trai có một vết bớt trên ḿnh ngay đúng
chỗ người đàn ông bị bắn. Bà và
mọi người trong làng cho rằng đứa bé là
hiện thân của người đàn ông đó. Khi
đứa trẻ bắt đầu biết nói, nó thường
nhắc đến những câu chuyện về
cuộc đời của người đàn ông
được xem là tiền thân của nó. Các b́nh
luận gia cho rằng rất có thể trong suốt
thời gian chưa biết nói, đứa bé đă
nhiều lần nghe người ta bàn luận trước
mặt nó về mối liên hệ tiền/hậu
kiếp họ nghĩ giữa nó và người đàn
ông đă chết. Do đó, tương tự như câu
chuyện thứ 2 vừa kể trên, khi đứa bé
biết nói th́ trong đầu nó đă có sẵn
nhiều chi tiết chính xác về cuộc đời
của người đàn ông trên. Trong câu chuyện
nầy, đặc biệt là ngay cả Stevenson cũng
đồng ư phần nào với nhận xét trên
của các b́nh luận gia. Do đó Stevenson bị
chỉ trích rằng nếu chính ông cũng đă
nhận xét như vậy th́ câu chuyện nầy hoàn
toàn không đáng được xếp vào hàng
“chứng cớ” (mặc dù chỉ là khả dĩ)
của hiện tượng đầu thai. Nếu 4 câu chuyện vừa kể trên đă làm các b́nh
luận gia đặt câu hỏi về tính dễ tin
của Stevenson th́ 2 trường hợp đáng tin
nhất của ông (v́ “có đủ dữ liệu xác
định được nhân vật tiền kiếp
– và không có liên lạc giữa nhân vật tiền
kiếp và gia đ́nh đối tượng”) cũng
xem ra không có ǵ tuyệt đối hay chắc chắn
lắm. Trước hết, tôi xin tóm lược 2 câu
chuyện đó. Câu chuyện thứ nhất xảy ra ở Ấn Độ
về một đứa bé tên Gopal Gupta lúc 2 tuổi
bắt đầu nhớ lại tiền kiếp
của nó ở một ngôi làng gần bên. Một
điều lạ lùng là đứa bé nầy từ
nhỏ đă có cung cách của một người
thuộc giai cấp xă hội cao hơn giai cấp gia
đ́nh hiện tại của nó. Và sau nầy khi
lớn lên nó cũng kể ra nhiều chi tiết chính
xác về gia đ́nh tiền kiếp của nó. Câu chuyện thứ hai xảy ra ở Lebanon về
một đứa bé trai tên Suleyman Andary nằm mơ
thấy về tiền kiếp của ḿnh. Đứa
bé nầy cho rằng ḿnh đă từng là một người
đàn ông đă có con và kể chuyện về các
đứa con nầy. Có nhiều chi tiết dẫn
đến việc xác định được người
đàn ông đó là ai. Tuy nhiên khi nó được
đưa đến ngôi làng nó đă từng
sống th́ nó lại đột nhiên trở thành nhút
nhát e dè và đặc biệt là không nh́n ra được
mặt những đứa con và thân nhân trong tiền
kiếp của nó. Sau khi đọc kỹ phần tường tŕnh của
2 câu chuyện trên, người ta nhận thấy
một vài điểm cần chú ư sau đây. · Thứ nhất, các đứa bé và gia đ́nh cũng
như thân nhân chúng sống trong những cộng đồng
có niềm tin truyền thống về đầu thai.
(Đây cũng là một đặc điểm
của hầu như tất cả mọi câu
chuyện về đầu thai của Stevenson). Đối
với họ, đầu thai là một sự kiện
có thật, đương nhiên và hiển nhiên. Điều
nầy chắc chắn có ảnh hưởng đến
những quan sát, cảm nghĩ và suy luận của
họ trong vấn đề nầy. · Thứ hai, lần đầu tiên Stevenson t́m đến
gặp các đứa bé là lúc chúng đă 13 tuổi
trong câu chuyện thứ nhất và 14 tuổi trong câu
chuyện thứ hai. Có nghĩa là trong câu chuyện
thứ nhất đă 11 năm trôi qua, và trong câu
chuyện thứ hai đă khoảng 6 hay 7 năm sau khi
các đứa bé nhớ lại tiền kiếp
của chúng. Trong suốt thời gian đó, trước
khi Stevenson đến phỏng vấn, chúng đă liên
tục bị ảnh hưởng bởi những
nhận xét và định kiến của những người
lớn chung quanh về vấn đề “đầu
thai” của chúng. Do đó những ǵ hai đứa
trẻ kể lại trong cuộc phỏng vấn
với Stevenson rất có thể chỉ là những
nhận xét và quan điểm chủ quan của
những người lớn chung quanh chúng. · Thứ ba, cộng đồng bản xứ Lebanon
của Suleyman Andary (đứa bé trong câu chuyện
thứ hai) tin rằng sau khi một người
chết đi th́ họ sẽ đầu thai lập
tức. Tuy nhiên theo chi tiết thu thập được
th́ người tiền thân của Suleyman đă
chết 12 năm trước khi nó được “tái
sinh”. Có nghĩa là có một khoảng trống 12 năm.
Nếu theo niềm tín ngưỡng địa phương
th́ Suleyman đă phải có tái sinh một lần
rồi và chết đi trước khi nó được
tái sinh một lần nữa vào kiếp sống
hiện tại. Khi được hỏi về
việc nầy th́ Suleyman tuy xác nhận là đă có tái
sinh một lần nhưng không nhớ chi tiết ǵ
về lần tái sinh đó cả. Đây là một
điều bất thường khi một đứa bé
không nhớ ǵ về tiền kiếp gần đây
nhất mà lại nhớ rơ về tiền kiếp trước
đó nữa của nó. Việc nầy làm các b́nh
luận gia nghi ngờ rằng v́ lư do ǵ đó (không
liên quan đến tái sinh) cậu bé Suleyman đă thu
thập được dữ liệu về người
đàn ông đă chết rồi tự nghĩ rằng
ḿnh là hậu thân của người đó; sau đó
cậu bé đă chế đặt ra lần tái sinh
“trung gian” để làm câu chuyện của cậu
phù hợp với tín ngưỡng địa phương. Các điểm trên cho thấy ngay cả 2 trường
hợp có vẻ đáng tin nhất của Stevenson
vẫn có những chi tiết làm giảm giá trị
của chúng rất nhiều. Một nhận xét khác nữa là 13 trong số 14 câu
chuyện trong quyển sách nầy cho thấy các đứa
bé đối tượng trong cuộc thí nghiệm
của Stevenson đều cư ngụ trong cùng một
cộng đồng với những tiền thân
của chúng. Có nghĩa là một đứa bé Ấn
Độ nhớ lại tiền thân của nó cũng
là một người Ấn Độ, một đứa
bé Âu Châu nhớ lại tiền thân của nó cũng
là một người Âu Châu, v.v. Và đáng kể hơn
nữa là các đứa bé và người tiền thân
của chúng sống ở những địa phương
cách nhau không xa lắm. Điều nầy tuy tự nó
không phủ nhận câu chuyện đầu thai nhưng
cũng không khỏi làm các b́nh luận gia tự
hỏi “Trong thế giới huyền bí, tại sao
linh hồn có vẻ như chỉ có thể di
chuyển những khoảng cách khá ngắn ngủi và
quay trở về tái sinh trong cùng cộng đồng?”
Và đây là các cộng đồng có niềm tin
truyền thống về đầu thai. Phải chăng
đây là dấu hiệu cho thấy rất có thể
có những lư do ǵ khác (ngoài lư do đầu thai)
đàng sau các câu chuyện trên? Nói cách khác, những phân tích ở trên cho thấy sau
40 năm nghiên cứu th́ Giáo Sư tâm thần học
Ian Stevenson với những câu chuyện “đáng
kể” nhất của ông vẫn chưa đem
lại chứng cớ nào có giá trị thuyết
phục tuyệt đối về đầu thai. Như
đă nói, Stevenson là một trong những nghiên cứu
gia hàng đầu về vấn đề đầu
thai, tái sinh. Các bài tường tŕnh của những
nghiên cứu gia khác tôi đă đọc qua cũng
nằm trong trạng thái tương tự: những cái
gọi là bằng chứng đưa ra đều
đầy lỗ hổng. Ngoài ra khái niệm đầu thai cũng thường
được dùng để giải thích hiện tượng
thần đồng. Người ta cho rằng đây là
trường hợp mà những tài năng thường
cần phải có cả đời người
khổ luyện mới thành đạt đă
được tích tụ và chuyển theo từ
một kiếp trước sang qua đến các đứa
bé thần đồng ở kiếp nầy. Do đó
theo họ, hiện tượng thần đồng
“chứng minh” là đầu thai có thật sự
xảy ra. Theo tôi, khoa học ngày nay vẫn chưa hiểu rơ
tận cùng về cách hoạt động của trí
óc, và tâm thức, con người. Trí óc và tâm
thức chúng ta, nhất là trong các trường
hợp đặc biệt, có thể có những
khả năng học hỏi, thu nhận và phát
triển với tầm mức và tốc độ siêu
phàm. Hiện tượng thần đồng rất có
thể chỉ là một vài trường hợp
nầy và không liên quan ǵ đến sự tái sinh
cả. Có người cũng dùng những dữ kiện trùng
hợp có vẻ kỳ lạ giữa hai nhân vật
sống ở hai thời đại khác nhau để
cho rằng người nầy là tái sinh của người
kia. Thí dụ như trong một bài viết mang đề
tựa “Lư Giải Khoa Học về sự Đầu
Thai Chuyển Kiếp”, tác giả đă đưa ra
so sánh những trùng lặp “thú vị” giữa
Napoleon và Hitler như sau: “Napoléon sinh năm 1760, Hitler
sinh năm 1889 chênh nhau 129 năm. Đặc biệt,
rất nhiều sự kiện trùng và chênh nhau đúng
129 năm như: Napoléon nắm quyền năm 1804,
Hitler năm 1933 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Viên (Áo)
năm 1809, Hitler năm 1938 chênh 129 năm. Napoléon
chiếm Nga năm 1912, Hitler chiếm Nga 1941; Napoléon thua
Nga 1816, Hitler thua Liên Xô 1945. Napoléon và Hitler đều
nắm quyền binh năm 44 tuổi, đánh chiếm
Vienna năm 49 tuổi, đánh chiếm Nga năm 52
tuổi và đều vỡ mộng bá chủ ở
tuổi 56…” với hàm ư Hitler là hiện thân
hậu kiếp của Napoleon. Tôi chưa hề kiểm chứng các dữ kiện trên.
Nhưng theo tôi, nếu có những sự trùng hợp
có vẻ kỳ lạ trên đi nữa th́ chúng
chỉ là những ngẫu nhiên hiếm có mà thôi. Chúng
không bất khả dĩ đến nỗi chỉ có
khái niệm “đầu thai” mới có thể
giải thích được. Hơn nữa, đây là
một cái nh́n rất gượng ép đến độ
ngây ngô của một bài tường thuật
mệnh danh “khoa học” như theo tựa đề
của nó. Cái gọi là “lư giải” trong bài
nầy chỉ là tập hợp một số dữ
kiện (hay đúng ra là “chuyện nghe kể
lại”) có vẻ lạ lỳ. Tác giả không
đưa ra một chứng cớ hay phân tích ǵ
cả. Đáng tiếc thay trong đề tài “đầu
thai”, cũng như hầu hết các đề tài
huyền bí khác, chúng ta luôn luôn có thể t́m thấy
những bài tường thuật thô sơ đội
lốt khoa học một cách bôi bác như vậy. Tóm lại, những dạng “bằng chứng” như
trên làm giảm mất hết giá trị của các bài
tường tŕnh và các cuộc khảo nghiệm liên
quan đến chúng. Chúng cũng làm tôi có khuynh hướng
thiếu tin tưởng ở sự chính xác của
những câu chuyện về “đầu thai” khác mà
tôi chưa có dịp đọc qua. Bây giờ tôi muốn thử nh́n từ một góc
cạnh khác vào vài cơ cấu khả dĩ cho
việc tái sinh có thể xảy ra. Tôi muốn nói sơ
qua khái niệm “linh hồn”. Đó là v́ phải có
linh hồn trước hết th́ mới có đầu
thai. Để giải thích về khái niệm linh hồn, người
ta thường dùng một số giả thuyết
dựa theo Định Luật Thứ Nhất của
nhiệt động học (c̣n thường được
gọi là “nguyên lư bảo toàn năng lượng”).
Các giả thuyết nầy nói chung cho rằng mỗi
người được cấu tạo bởi 2
phần: phần vật chất và phần phi vật
chất. Phần vật chất là thể xác và
phần phi vật chất thường được
gọi là linh hồn. Theo nguyên lư bảo toàn năng lượng
th́ sau khi một người chết đi, phần năng
lượng phi vật chất của họ rất có
thể tuy đă rời thân xác nhưng vẫn c̣n
tồn tại đâu đó. Ngoài định luật bảo toàn năng lượng
vừa nói ở trên, người ta cũng dùng Định
Luật Thứ Hai của nhiệt động học
để gián tiếp xác định việc sự
sống thành tựu rồi tan biến, và do đó cho
thấy sự khả dĩ hiện hữu của linh
hồn. Tôi xin nói rơ hơn một chút về lư
thuyết nầy. Định Luật Thứ Hai của nhiệt động
học cho rằng mọi hệ thống năng lượng
trong vũ trụ, trừ khi đă ở trạng thái
cân b́nh, đều có khuynh hướng tự biến
đổi từ trạng thái có trật tự cao
xuống dần thành có trật tự thấp. Một
con người khi c̣n sống là một hệ
thống (năng lượng) có trật tự cao;
hệ thống nầy có thể nằm ở trạng
thái trật tự cao trong suốt đời sống
của họ là nhờ năng lượng dung nạp
vào dưới dạng thức ăn, nước
uống, v.v. Tuy vậy, trạng thái trật tự cao
nầy không vĩnh viễn. Trạng thái trật
tự cao tạm thời dần dần trở nên
bất ổn định hơn khi các cơ quan trong thân
thể dần dần hư hao đi đến khi toàn
thể hệ thống sụp đổ hoàn toàn. Đó
là khi sự chết xảy ra. Cái tử thi cũng là
một hệ thống năng lượng từ
từ phân hủy và tan ră ra: trật tự cao
biến đổi thành thấp hơn và thấp hơn
nữa cho đến khi toàn bộ tử thi đó không
c̣n ǵ tồn tại nữa. Theo lư thuyết về linh hồn th́ linh hồn của
một người sẽ tách rời khỏi thể xác
họ sau khi chết. Điều nầy phù hợp
với Định Luật Thứ Hai của nhiệt
động học v́ đó là khi một hệ
thống (năng lượng) có trật tự cao hơn
bị tan ră thành một hệ thống có trật
tự thấp hơn. Tuy nhiên theo tôi, các giả thuyết trên có một
số vấn đề rất thiếu hoàn hảo. Thí
dụ như: 1/ Nếu có một khối năng lượng gọi là
“linh hồn” hiện hữu đi nữa th́ cũng
như bao nhiêu hệ thống năng lượng khác,
rồi linh hồn cũng sẽ phải cần có năng
lượng từ bên ngoài cung cấp vào nó để
tồn tại (cũng tương tự như cơ
thể vật chất cần có thức ăn để
sống). Vấn đề cần giải thích ở
đây là nguồn năng lượng cần thiết
đó từ đâu mà có? Và nếu linh hồn là phi
vật chất th́ làm sao nó có thể hấp thụ và
chứa đựng năng lượng đến
từ bên ngoài được? 2/ Ngay cả nếu khối năng lượng gọi là
“linh hồn” có thể thu nhận năng lượng
bên ngoài để tồn tại đi nữa th́ không
có ǵ bảo đảm khối năng lượng
đó vẫn c̣n chứa đầy đủ tri
thức cũng như đặc tính cá nhân của người
đă chết để c̣n nhận biết nó là ai
hay những điều ǵ đang xảy ra chung quanh nó
hay không. Nói cách khác, khối năng lượng đó
có thể hoàn toàn vô cá tính và vô cảm tính. 3/ Và ngay cả nếu cá thể và cá tính có thể
được bảo tồn đi nữa th́ cũng
không có ǵ để xác định rằng khối năng
lượng nầy sẽ bền vững bao nhiêu và
bao lâu. Rất có thể là sau khi rời khỏi thân xác
th́ theo Định Luật Thứ Hai của nhiệt
động học, nó rồi sẽ bị phân tán ra và
tan loăng dần trong vũ trụ; tri thức và
những đặc tính cá nhân của cá thể
nầy do đó cũng bị phai mờ dần và
rồi biến mất. Không ai có thể xác định
khoảng thời gian nầy là bao lâu: ngay tức
khắc sau khi chết hay 3 ngày hay 100 ngày, v.v. sau đó? 4/ Hơn nữa, ngay cả nếu như linh hồn
của một người c̣n tồn tại lâu đủ
sau khi chết đi nữa th́ cũng không có ǵ cho
biết rằng nó có thể có khả năng hay cơ
hội để được tái sinh dưới
một h́nh dạng khác hay chuyển biến sang thành
một cá thể khác. Đó là v́ mọi thay đổi
trên mọi hệ thống trong vũ trụ đều
cần năng lượng. Khi linh hồn “mới”
muốn kết hợp vào một thân xác “mới”,
đó là trường hợp một hệ thống có
trật tự thấp đang biến đổi thành
một hệ thống có trật tự cao; nó cũng
cần năng lượng bổ xung vào để làm
việc đó. Cũng như ở trên, vấn đề
cần giải thích ở đây là những năng lượng
cần thiết đó từ đâu mà có? Và nếu
linh hồn là phi vật chất th́ làm sao nó có
thể hấp thụ và sử dụng năng lượng
đến từ bên ngoài được? Theo tôi th́ cần phải giải quyết tất
cả những vấn đề thiếu hoàn hảo
trên trước khi có thể xác định rằng
việc "đầu thai" có xảy ra hay không. Tuy vậy, thật t́nh mà nói th́ bất kể những
câu hỏi trên có câu trả lời thỏa đáng
hay không, tôi vẫn có cảm tưởng cách nh́n
nầy có phần đơn giản quá. Đó là v́ nói
chung th́ hầu như bất cứ sự kiện hay
hiện tượng nào trên đời cũng có
thể được giải thích (một phần nào)
bằng một giả thuyết hay định luật
nào đó. Ở đây các lư thuyết nầy đang
dùng những định luật khoa học có phạm
vi rất tổng quát để cố giải thích cho
những hiện tượng không kiểm chứng
được. Một vấn đề theo tôi đáng ghi nhận
nhất là nếu đầu thai là một hiện tượng
tự nhiên xảy ra sau khi một người chết
đi th́ tại sao nó quá hiếm hoi? Trong những trăm
ngàn triệu tỉ người chết xưa nay,
tại sao chỉ có một số rất rất
nhỏ câu chuyện cho thấy hiện tượng
nầy (có vẻ) xảy ra? Nếu là một hiện
tượng tự nhiên th́ nó sẽ xảy ra đồng
nhất, rơ ràng, chắc chắn, liên tục, và có
thể dự đoán trước hầu như không
bao giờ sai chạy mỗi lần, mỗi nơi và
đến tất cả mọi người, mọi
vật. Thí dụ như trọng lực, sự thay
đổi nhiệt độ qua mỗi mùa trong năm,
phản ứng sinh lư của động vật trước
sự thay đổi của môi trường sống,
v.v và v.v. Hiện tượng “đầu thai” không
hề mang những tính chất trên. Tôi có khuynh hướng cho rằng không ít những câu
chuyện về đầu thai phát nguồn từ
niềm mong ước mănh liệt của con người
rằng sự sống vẫn c̣n tiếp diễn sau
khi thân xác họ đă ngừng hoạt động.
Niềm mong ước đó mănh liệt đủ
để tiềm thức họ thuyết phục
họ một cách dễ dàng để nh́n thấy và
đi đến những kết luận về
những sự kiện không hề xảy ra. Kế đó, có rất nhiều trường hợp tôi
không khỏi nghi ngờ rằng toàn bộ những câu
chuyện về đầu thai đă được
tạo dựng ra v́ lư do nầy hay lư do khác. Tôi không
thể cho là tất cả các câu chuyện nầy
đều là giả mạo. Tôi không biết có bao nhiêu
trường hợp giả mạo. Tôi cũng không
biết có phải tất cả mọi câu chuyện
trên đều là giả mạo hay ít nhất
được thêu dệt, thêm thắt ít nhiều hay
không. Tuy vậy, theo tôi không ít những vụ giả mạo
trong vấn đề nầy là để vụ
lợi. Rất nhiều mẩu chuyện dạng
nầy xảy ra ở một vùng quê hẻo lánh hay
một thôn tỉnh vô danh nào đó. Nếu một
sự kiện ly kỳ loại nầy xảy ra ở
những nơi như vậy th́ số du khách ṭ ṃ
đến thăm viếng sẽ mang lại địa
phương và các người trong cuộc những
lợi tức không nhỏ. Ngay cả những câu
chuyện xảy ra ở các tỉnh thành lớn cũng
vậy, tất cả đều dẫn đến các
lợi tức thu nhập trực tiếp hay gián
tiếp liên quan đến những hiện tượng
gọi là “huyền bí” trên. Nói chung cho đến nay không có bằng chứng ǵ khách
quan và rơ ràng đủ để thuyết phục tôi
rằng những chuyện về đầu thai đó
đă có xảy ra. Và ngay cả nếu những câu
chuyện đó đă có thật sự xảy ra đi
nữa th́ cũng không có ǵ chứng minh rằng đây
là một quy luật chung cho tất cả mọi người. V́ các lư do trên, tôi xem chuyện “đầu thai”
chỉ có thể là một “giả thuyết”
chớ không phải là một “định luật”
đáng tin cậy đủ để được
áp dụng vào đời sống thực tế. Có lẽ điều tôi than phiền nhất là việc
các tông phái Phật Giáo giảng dạy về các khái
niệm đầu thai và luân hồi giống như
những sự thật tuyệt đối hoặc
những định luật khoa học tự nhiên
trong khi họ không hề có một bằng cớ khách
quan nào có thể kiểm chứng được. Chú thích: Tài liệu dùng trong bài nầy được sưu
tầm từ những trang mạng thí dụ như: http://skepdic.com/reincarn.html http://www.skepticreport.com/sr/?p=482 http://khoahoc.tv/ly-giai-khoa-hoc-ve-su-dau-thai-chuyen-kiep-47288
|