Ngoại
trừ trường hợp những cái đồng
hồ automatic mà mấy chú bộ đội mua ở
chợ trời Sài G̣n sau ngày “giải phóng”, và
những chiếc xe hơi đang được
thử nghiệm của Google, từ “không người
lái” dùng ở các nơi khác là một nhóm bổ túc
từ trật lất. Những chiếc máy bay drone
của Mỹ không thể được gọi là
“máy bay không người lái”. Chúng vẫn có người
lái đàng hoàng – lái bởi các phi công ngồi dưới
đất ở các căn cứ không quân trên lănh
thổ Mỹ cách chiến trường có khi nửa ṿng
trái đất, ở Thổ Nhĩ Kỳ, ở Các
Tiểu vương quốc Ả rập Thống
nhất (UAE) và nhiều căn cứ bí mật khác.
Họ lái chúng bằng các máy điện toán và sóng
vô tuyến.
Gần đây, chúng được thả lỏng
để tự động hơn một chút nữa,
nhưng vẫn không hoàn toàn “không người lái”.
Chúng được lập tŕnh trước bằng
những mệnh lệnh, phi tŕnh, phóng lên rồi bay
theo phi tŕnh phối hợp với hệ thống định
vị bằng vệ tinh – GPS.
Trong lănh vực hàng không dân dụng cũng không có máy
bay không người lái mà chỉ có những chiếc
máy bay viễn khiển – remotely piloted aircraft (RPA), lái
từ xa bởi một “phi công” trên mặt đất.
Drone có nhiều cỡ. Quân đội Mỹ có từ
những chiếc Raven, mà bộ binh có thể cầm
tay phóng lên để bay thám thính, đến khổng
lồ như chiếc Global Hawk, to bằng một cái
Boeing 737. Hầu hết các drone đều sử
dụng công nghệ cũ thời thế kỷ trước,
bay bằng cánh quạt và bay chậm. Người ta c̣n
kể rằng chiếc Predator đầu tiên được
làm bằng cách gắn một động cơ xe trượt
tuyết – snowmobile, vào một chiếc tàu lượn
điều khiển bằng vô tuyến.
Công nghệ sản xuất drone chẳng có ǵ là ghê
gớm. Hồi năm 2012, Iran “bắt sống”
được một chiếc drone thám thính ScanEagle
của Hải quân Hoa Kỳ, sau đó, Tehran khoe um thành
tích t́nh báo khoa học của ḿnh trên truyền h́nh
bằng cách giới thiệu một mẫu lô can –
made in Iran, của chiếc drone này. Khi đó, Phó Đề
đốc Mark I. Fox, chỉ huy phó hành quân, kế
hoạch và chiến lược của Hải quân
Mỹ, đă nói với báo The New York Times, “Họ
chỉ cần ra RadioShack là đă có thể nắm
được một cái ‘công nghệ bí mật’
đó”. Năng lực điện toán của
chiếc ScanEagle c̣n thấp hơn cả một cái
điện thoại smartphone.
Ngay cả chiếc RQ-170 Sentinel, một chiếc drone tàng
h́nh không vũ khí, loại tinh xảo nhất của
CIA mà Iran vớ được khi nó rớt năm
2011, cũng chỉ c̣n là một cái máy bay đồ
chơi khi rơi vào tay kẻ địch. Mọi
thứ hấp dẫn bên trong của nó đă bị
phá hủy bằng tín hiệu từ xa, trước
đó.

Nói cho chính xác, mỗi chiếc drone chỉ là một
“con đồng”, một đôi mắt trên trời.
Khi bị tách rời khỏi các mạch liên lạc
với vệ tinh, với các bộ vi xử lư, các nhà
phân tích t́nh báo, và phi công ở đầu kia,
chiếc drone sẽ trở thành vô dụng như
một con mắt bị lấy ra khỏi nhăn cầu,
cắt đứt những dây thần kinh dẫn
truyền từ bộ óc.
Nhận xét về những sự trầm trồ, ca
tụng của những kẻ ngoại đạo,
James Poss, một thiếu tá không quân đă về hưu,
người từng tham gia chương tŕnh phát
triển những chiếc Predator, đă ngán ngẩm,
“Đồ ngu, cái quan trọng nhất là kết
nối dữ liệu”.
Với quân đội, drone có giá trị v́ là một
công cụ thám thính và theo dơi tương đối
rẻ tiền, và không nguy hiểm đến sinh
mạng binh sĩ. Một chiếc drone có thể bám
một mục tiêu hằng giờ, hằng ngày,
hằng tuần, thậm chí hằng tháng. Việc
gắn phi đạn lên drone chỉ là để
giảm bớt thời gian gián đoạn, chuyển
thông tin, mệnh lệnh đến cho các phương
tiện tấn công quy ước khác – như máy bay,
bộ binh, phi đạn bắn từ đất hay
từ biển. Với drone, không có khoảng trống
này. Người điều khiển drone có thể
khai hỏa ngay khi trông thấy địch thủ. Anh
ta cũng có thể chọn lựa lúc để ra tay,
khi mục tiêu đứng đơn lẻ, di
chuyển trên xe, để tránh gây tổn thất phát
sinh ngoài ư muốn.
Lịch
sử drone của Hoa Kỳ:
Thực
ra th́ những chiếc máy bay điều khiển
từ xa đă hiện diện trong quân đội
Mỹ từ thời xa xưa lắm. Có thể
tạm lấy cái mốc gần nhất là sau Thế
chiến thứ II, sau khi Không quân Hoa Kỳ mất
đến gần 40 ngàn máy bay và hơn 80 ngàn nhân viên
phi hành. Một không lực không người sẽ
rẻ hơn, an toàn hơn. Thế là ngành “Phi cơ
Không Phi công” – Pilotless Aircraft Branch – của không quân
Mỹ ra đời năm 1946.
Trong số các phi cơ viễn khiển được
sản xuất để làm nhiệm vụ thám thính
của ngành này có chiếc Đom đóm (Lightning Bug)
do công ty Ryan Aeronautical Company sản xuất, bay bằng
động cơ phản lực. Chúng được
phóng đi từ cánh của những chiếc vận
tải cơ Lockheed DC-130 Hercules, hoạt động như
tàu mẹ điều khiển lũ drone con. Những
chiếc Lightning Bug được lập tŕnh trước
hay được các người lái – Airborne Remote
Control Officer – điều khiển từ tàu mẹ.
Sau khi hoàn thành sứ mạng thám thính, các con Đom
đóm bung dù hạ cánh và được trực thăng
bay đến thu hồi.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các con đom
đóm này âm thầm bay trên không phận Cuba, Bắc
Hàn, Trung Cộng. Trong chiến tranh Việt Nam, sau khi
chiến dịch oanh tạc miền Bắc Rolling Thunder
kết thúc năm 1968, các Lightning Bug là những máy bay
duy nhất của Hoa Kỳ bay trên không phận
miền Bắc. Từ năm 1964 đến 1975, hơn
1,000 Đom đóm đă bay hơn 34,000 phi vụ thám
thính trên vùng trời Đông Nam Á. Điều tức
cười là các báo Mỹ đă không biết
rằng hầu hết các bức không ảnh chụp
khu vực này được họ đăng tải
trong thời gian đó là do Đom đóm chụp
được.
Tuy nhiên, những chiếc drone hiện đại
được cho là con đẻ của ba người:
James Neal và Linden Blue, chủ công ty General Atomics, nhà
thầu trong lănh vực nguyên tử năng và quốc
pḥng, và Abe Karem, người Do Thái, chủ công ty
Leading Systems ở Los Angeles.
Karem là một kỹ sư hàng không của không quân
Israel, cũng từng cầm đầu một nhóm nhà
sáng chế ở công ty quốc doanh Israel Aircraft
Industries. Sau khi ra khỏi quân đội, ông đưa
gia đ́nh sang California, mở một công ty phát
triển hệ thống UAV. Những mẫu drone đầu
tiên của Karem được lắp ráp trong cái ga-ra
của ông ta.
James Neal và Linden Blue, từ năm 1979, đă nghĩ
đến một phương tiện tấn công vào
hệ thống hạ tầng xăng dầu của
Nicaragua mà không cần có sự tham dự của quân
đội. Nhà độc tài Somoszas bạn của
họ ở xứ này vừa bị nhóm Sandinistas
lật đổ. Họ đặt tên kế hoạch
này là Predator, sử dụng các phi cơ viễn
khiển cho các phi vụ tự sát.
Karem lănh được một hợp đồng bí
mật với Ngũ Giác Đài, và hai mẫu drone nguyên
thủy của ông ta sản xuất được
đặt tên là Amber và Gnat bay thành công lần đầu
tiên năm 1986. Nhưng ông ta gặp xui, nguồn ngân sách
của Pentagon cạn v́ các cắt giảm sau khi
chiến tranh lạnh kết thúc. Leading Systems vỡ
nợ.
Như định mệnh, James Neal và Linden Blue lúc
đó đang t́m mua một công ty chuyên về UAV.
Họ gặp nhau năm 1991 và dự án Predator hồi
sinh.
Những chiếc Predator, hậu thân của mẫu
Gnat, sau đó đă tung hoành trên bầu trời các
quốc gia vùng bán đảo Balkan trong cuộc
chiến tranh Serbia – Bosnia trong những chuyến bay thám
thính do cả CIA lẫn Pentagon tổ chức. Tuy nhiên,
chúng có khá nhiều nhược điểm, như bay
chậm dễ bị pḥng không Serbia bắn hạ, hay
rớt v́ trời lạnh quá!
Nhưng chính Osama bin Laden mới là nguyên nhân thúc đẩy
chương tŕnh phát triển drone quân sự của
Hoa Kỳ.
Drone
và cuộc chiến chống khủng bố
Năm
1998, hai vụ tấn công bằng bom tự sát vào các
ṭa đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya và
Dar-es-Salaam, Tanzania được FBI khẳng định
bin Laden và phó tướng Ayman al-Zawahiri đỡ đầu.
Hoa Kỳ quyết định “giải quyết” bin
Laden, nhưng muốn thế, phải t́m ra hắn.
Thoạt đầu, Ngũ Giác Đài định kín
đáo đặt một viễn vọng kính khổng
lồ trên một ngọn núi ở Afghanistan để
t́m thủ lănh al-Qaeda. Nhưng sau đó, mấy cái
đầu bớt ngớ ngẩn hơn trong giới lănh
đạo Hoa Kỳ đă chủ trương dùng
drone. Những chiếc phi cơ này chẳng những
sẽ t́m ra tên chỉ huy râu dài của al-Qaeda mà
lại c̣n có thể đánh dấu mục tiêu
bằng laser để cho tàu ngầm Mỹ trong vùng
Vịnh Ba Tư phóng phi đạn Tomahawk triệt
hạ.
Ngày 25 tháng 9, 2000, một chiếc Predator quần trên
bầu trời Tarnak Farms gần Kandahar đă truyền
về bộ chỉ huy một h́nh ảnh thật rơ
của một người cao ráo, mặc áo chùng
trắng, đừng giữa một toán vệ sĩ.
Theo một viên chức cao cấp của Ngũ Giác
Đài, nhiều phi vụ drone của CIA đă theo dơi
sát thủ lănh của al-Qaeda tổng cộng 4 giờ
23 phút.
Nhưng chẳng có ǵ bảo đảm là phi đạn
từ tàu ngầm bắn lên sẽ rơi ngay trúng
đầu bin Laden vào thời điểm sau khi
mệnh lệnh được ban ra, tọa độ
được đưa vào lập tŕnh, luật sư
được tham khảo và phi đạn bay đến
nơi. Trong lúc đó, một chiếc Predator mang phi
đạn có thể nhận ra bin Laden và phóng phi đạn
xuống đầu hắn ta một giây sau đó.
Viên chức vừa kể nói, “Chúng tôi tŕnh đoạn
video (của bin Laden) cho bộ trưởng Không quân,
tham mưu trưởng không quân và phụ tá phó tham mưu
trưởng xem, một người nói, “Để tôi
dùng Hellfire – một loại phi đạn chống
chiến xe dùng laser để bám mục tiêu – “nhanh
chóng, kín đáo và bẩn thỉu”. Lệnh này
được ban ra, chúng tôi rót tiền và thông báo
cho Quốc hội”.

Chiếc Predator được CIA phát triển dùng vào
việc thám thính nay được hối hả
chuyển đổi sang chức năng sát hại.
Điều khiển drone có thể là những phi công
không quân, hải quân Mỹ đă dạn dày kinh
nghiệm chiến đấu,vận tải hay
những chú nhóc mới được huấn
luyện. Trung tâm điều khiển có thể là
một căn cứ quân sự ở Mỹ – như
Nevada, hoặc một căn cứ tiền phương
trên đất bạn, như Dubai.
Quan sát con em, hay chính ḿnh, chơi các video game có
nội dung chiến tranh, một khu vực đang phát
triển của kỹ nghệ viết, sản xuất
và cung cấp game trên mạng được gọi là
“mili-tainment”, bằng computer có thể cho bạn
một h́nh ảnh không xa mấy với những ǵ mà
các phi công drone đang làm dưới các bunker gắn
máy lạnh ở các căn cứ không quân Mỹ.
Ở Creech Air Force Base, cách Las Vegas chừng 45 mile, có
3,325 nhân viên quân sự và dân sự làm việc.
Tất cả đều hằng ngày lái xe đến
sở và về sau khi tan ca, không có ai sống trong căn
cứ cả. Các drone ở đây, dùng vào mục
đích huấn luyện, lên xuống ồn ào thường
xuyên trong cái nắng nung người của sa mạc.
Creech AFB là tụ điểm của đội drone ngày
càng phát triển của Hoa Kỳ triển khai quanh
thế giới. Các phi công ở Creech hằng ngày phóng
phi đạn xuống đầu các chiến binh Nhà nước
Hồi giáo ở Syria và Iraq, hộ vệ các cuộc
tấn công đặc biệt của lực lượng
đặc biệt Mỹ ở Afghanistan, và tuần tra
vùng Sừng của Phi châu cùng nhiều nơi khác
để truy lùng các phần tử nằm trong danh sách
cần tiêu diệt.
Pilot
lái drone ở Creech AFB làm việc trong những trailer
thấp lè tè trong sa mạc. Họ ngồi trong bóng
tối, mắt dán vào các màn h́nh, tay đặt trên
cần điều khiển – joystick, để lái các
máy bay ở một nơi nào đó trên thế
giới. Bên cạnh viên phi công là một nhân viên
kỹ thuật – được gọi là operator, trách
nhiệm điều khiển các máy ghi h́nh (camera) và
cảm biến (sensor).
Có tất cả 6 màn h́nh cho mỗi phi công và nhân viên
điều khiển, cho phép họ trao đổi
với các quan sát viên trên mặt đất (spotter),
thấy vị trí của họ trên các bản đồ,
và xem các dữ liệu bay của chiếc drone. Họ
cũng có một đường dây điện
thoại được mă hóa.
Thành
tích – và tai tiếng của drone Mỹ
Thời gian: Đêm 7 tháng Mười, 2001, chưa
đầy một tháng sau ngày những chiếc máy bay
bị cướp lao xuống ṭa Tháp đôi ở New
York.
Địa điểm: Thành phố Kandahar, trung tâm
quyền lực của Taliban ở miền nam A phú hăn.
Một phi đạn Hellfire từ trên không lao
xuống một khu nhà được tin là nơi tên
chỉ huy tối cao của Taliban vừa bước vào.
Thay v́ giết chết Mullah Omar, chiếc phi đạn
chỉ làm nổ tung một chiếc xe đậu bên
ngoài. Thừa dịp náo loạn đó, kẻ thù
số 1 của nước Mỹ trốn thoát.
Chiếc phi đạn vừa kể được phóng
đi từ một chiếc Predator.
“Thằng
c.c. nào làm chuyện đó vậy?”
Không phải là lời khen ngợi, những nhận xét
đầu tiên về cuộc tấn công đầu tiên
của drone là câu chửi thề vừa rồi
của tướng Chuck Wald. Ông là người chỉ
huy việc phối trí toàn bộ các chi tiết
của các cuộc tấn công từ trên không trong ngày
đầu của của chiến dịch Operation
Enduring Freedom tại Combined Air Operations Center (CAOC) – trung
tâm kết hợp điều hành các hoạt động
trên không ở Saudi Arabia.
Đêm đó, theo kế hoạch, là màn phối
hợp giữa vũ khí dẫn đường
bằng laser từ trên không và phi đạn Tomahawk
từ biển.
Các phi công lái drone của Không quân được các
nhà phân tích của CIA hướng dẫn từ
trụ sở của CIA ở Langlaey, Virginia lái
chiếc Predator trên trời Kandahar. Theo Tướng
Tommy Franks, chỉ huy trưởng trên chiến trường
Afghanistan, CENTCOM có quyền ra lệnh bắn và F16
của CAOC đang chực sẵn cách đó 20 dặm
với các quả bom 1000 pound. Nhưng Bộ Chỉ huy
trung tâm chiến trường Afghansitan – US Central
Command (CENTCOM) cùng với CIA đă quyết định
dùng vũ khí Predator chưa qua thực nghiệm để
dẫn đến thất bại này! (Chiếc drone
“thiện xạ” đó, số in trên đuôi 3034,
nay đang được treo ở Bảo tàng Hàng không
và Không gian Smithsonian Air and Space Museum ở Washington, D.C.)
Để rồi măi đến ngày 4 tháng Mười
Một năm 2002 việc sử dụng drone mới
dẫn đến sự tiêu diệt một thủ lănh
al-Qaeda tầm cỡ ở Yemen. Hôm đó, phi đạn
Hellfire bắn đi từ một chiếc Predator đă
làm nổ tung một chiếc xe. Trên xe có Abu Ali
al-Harithi, một trong các thủ lănh al-Qaeda chịu trách
nhiệm về vụ đánh bom chiếc USS Cole.
Theo Pete W. Singer, chiến lược gia của tổ
chức New American Foundation, trong năm đầu tiên
được sử dụng vào các chiến dịch
ở Afghanistan, những chiếc Predator có vũ trang
“xóa sổ” khoảng 115 mục tiêu.
Sự hữu hiệu của drone được ca
ngợi, bởi quân đội Mỹ và CIA, nhưng
bị đặt vấn đề, bởi nhiều
tổ chức quan sát quốc tế và giới thông
tấn.
Điển h́nh như cuộc truy diệt thủ lănh
al-Qaeda Ayman Zawahiri, phó tướng của bin Laden.
Chiếc drone đầu tiên bắn lên đầu
hắn ta ngày 13 tháng Giêng 2006 ở Damadola, Pakistan. Mười
tháng sau, chúng lại phóng phi đạn xuống đầu
hắn ta, lần này ở Bajaur. Tám năm sau đó,
hắn vẫn c̣n sống. Có 76 trẻ em và 29 người
lớn thiệt mạng trong 2 cuộc không kích đó.
Hay với Qari Hussain, chỉ huy phó nhóm Taliban ở
Pakistan, nhóm chiến binh liên kết với al-Qaeda đă
huấn luyện Faisal Shahzad, kẻ âm mưu đánh
bom quảng trường Times Square vào năm 2010. Drone
Mỹ “thăm” Hussain lần đầu tiên tháng Giêng
năm 2008, rồi tháng Sáu 2009, tháng Giêng 2010, hai
lần trong tháng Mười 2010. Măi đến lần
thứ ba trong tháng Mười 2010, một phi đạn
bắn từ drone đă hạ được Hussain,
nhưng trong tất cả các lần tấn công
hắn, đă có 128 người, trong đó có 13
trẻ em vô tội, bỏ mạng.
Như tất cả các loại vũ khí, drone cũng
có thể bắn trật như thường, không như
cựu giám đốc John Brennan của CIA nói năm
2011, rằng họ đè nặng “áp lực chính xác
nhắm thẳng vào mục tiêu vào các nhóm đe
dọa chúng tôi”.
Ngoại trưởng John Kerry cũng từng khẳng
định trên một diễn đàn của BBC
hồi năm 2013 rằng, “Chúng tôi chỉ bắn
drone lên những người là các mục tiêu
khủng bố ở cấp cao nhất đă
được xác nhận qua một quá tŕnh xét
chuẩn nhận dài dặc. Chúng tôi không bắn drone
khơi khơi vào một người và nghĩ
rằng người này là khủng bố”.
Báo The Guadrian tính ra rằng cho 33 mục tiêu bị tiêu
diệt – xác định tên tuổi đàng hoàng,
đă có thêm 947 người chết trong quá tŕnh tiêu
diệt.
Bên cạnh đó, các tiếng nói phản đối
cũng phê phán cách chính phủ Mỹ giữ bí
mật thông tin, dữ liệu về các cuộc
tấn công bằng drone. Đa phần, giới thông
tấn chỉ nhận các thông tin qua các nguồn
giới chức xin được “giữ kín tên
tuổi” của Mỹ, Yemen hay Pakistan, và chỉ xác
nhận rằng cuộc tấn công đă xảy ra,
hoặc nhắm vào mục tiêu tên A, B, C nào đó.
Giống
như chơi game?
Đại tá James R. Cluff, chỉ huy trưởng Creech
AFB, đánh tan mọi ngộ nhận về công
việc coi có vẻ “giải trí” của các phi công
“Căn cứ này ngày nào cũng là ngày trên mặt
trận”. Ông nói với phóng viên W.J. Hennigancủa báo
Los Angeles Time khi ông này đến làm phóng sự
hồi tháng 6 năm nay, “Lũ trẻ ở đây không
phải là đang chơi video game dưới basement
ở nhà của mẹ chúng”.
Từ tháng Tám năm 2014 đến tháng 6 năm 2015,
các phi công của Không đoàn thứ 432 và Không đoàn
Viễn chinh thứ 432 ở căn cứ Creech AFB đă
bay hơn 3,300 phi vụ chống Nhà nước Hồi
giáo – thả bom, bắn phi đạn, hướng
dẫn các phản lực chiến đấu cơ
đến các mục tiêu, cung cấp thông tin t́nh báo
cho lực lượng liên quân trên mặt đất.
Họ làm việc ba ca, mỗi ca tám tiếng để
duy tŕ các drone 24 giờ một ngày trên bầu
trời.
Đại úy Krsiti, một phi công drone ở căn
cứ Creech, là phi công với ba năm lái phi cơ
chiến đấu. Nay, bà “bay” ca tám tiếng
một ngày, sáng đi chiều về. Việc lái máy
bay bằng joystick tuy không rêm ḿnh như bay phản
lực chiến đấu nhưng căng thẳng và
mệt mỏi, thậm chí hồi hộp hơn
nhiều.
Đại tá Jim Chittenden, từng lái phản lực
chiến đấu, nói bay những chiếc Predator và
Reaper khiến ông thấy “gần gũi chiến trường
hơn” — dù thân thể ông ở xa hàng ngàn dặm.
Yêu cầu giám sát theo dơi 24/24 tức khắc – real
time, các điểm nóng, và v́ vai tṛ của phi cơ
viễn khiển trong quân đội hiện đại
ngày càng phát triển dẫn đến vấn đề
Không quân thiếu phi công lái drone.
Trong tháng 6 năm 2015, mỗi ngày Ngũ Giác Đài
buộc phải bay 65 không tuần chiến đấu.
Một không tuần có từ một đến 4 phi cơ.
Hậu quả là 1,065 phi công ở Creech và
những căn cứ khác không đủ. Có người
phải “bay” 12 giờ một ngày, theo dữ
liệu của Ngũ Giác Đài, có phi công vào sổ
đến 1,100 giờ bay một năm, gấp 4
lần số giờ bay của phi công truyền
thống.
Và nhiều người đă đến mức
sắp sửa suy sụp thần kinh.
Tờ New York Times hồi tháng Sáu vừa rồi đă
báo động 1200 phi công drone hiện nay đang ṃn
mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần, không
chỉ v́ bản chất mệt mỏi của công
việc, mà v́ họ phải làm nhiều quá. Không quân
Mỹ, trong lúc đó, cũng gặp khó khăn trong
việc tuyển mộ tân binh. Mỗi năm trung b́nh
Không quân đào tạo 180 phi công như thế, nhưng
lại mất đi chừng 230 người.
Các nhân viên tuyển mộ của Không quân Hoa Kỳ
đă phải t́m đến những hội chợ
game để tuyển quân, với những khoản thưởng
không nhỏ để hấp dẫn những thanh niên
trẻ, trong lúc nhu cầu này ngày càng tăng. Thêm vào
đó là hiện tượng nhiều phi công drone
đă xin giải ngũ, bỏ cuộc v́ chịu không
nổi những chấn thương tâm lư. Có người
chịu không nổi việc phải hạ sát
những “mục tiêu” mà họ quen thuộc có khi
đến cả tháng trời, biết từng thói
quen. Họ bị cắn rứt v́ ngồi mát ở
một nơi xa ngàn dặm giết những người
xa lạ – người thật, có tội lẫn vô
tội, bằng một cái bấm nút. Gần đây
nhất, và điển h́nh là bài báo, và những
đoạn video về Brandon Bryant, một phi công điều
khiển Predator của không lực Mỹ. Khi Bryant xin
giải ngũ năm 2011 sau 6 năm quân vụ, anh ta
được trao tặng một bảng ghi nhận
thành tích các sứ mệnh của phi đội mà anh
ta phục vụ: 1,626 địch quân bị hạ trên
mặt trận. Trong bài báo “Lời thú tội
của một người điều khiển drone”
trên tạp chí GQ, và trong video phát trên hệ thống
CNN, Bryant nói anh bị ám ảnh bởi thời gian
phục vụ, cho rằng ḿnh đă là một “remote
killer” giết người trong “zombie mode”, ngồi
ở Nevada để lái drone trên vùng trời Afghanistan
và Iraq.
Thế nhưng việc sử dụng drone cho đến
nay vẫn c̣n là một giải pháp tối ưu cho
những cuộc chiến mà chính phủ và quân
lực Hoa Kỳ bị trói tay – đúng ra là trói chân,
v́ không được phép cho binh sĩ đặt gót
giày xuống chiến địa. Biện pháp này cũng
tiết kiệm được xương máu của
quân nhân Hoa Kỳ, tránh cho dân chúng Mỹ những h́nh
ảnh của những chiếc quan tài hồi hương
các tử sĩ – những h́nh ảnh ám ảnh
họ suốt từ cuộc chiến tranh Việt Nam,
qua Iraq, Afghanistan, Somalia…
Đỗ
Quân
|