CUỘC CHIẾN THỜI TRUNG CỔ CỦA CÁC CHỦ NGHĨA

SỰ THÀNH LẬP SUNNY VÀ SHIITE và HỒI GIÁO BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN

Thiện Ư

Chính trị khuynh hướng tự do (liberal politics) không tương thích với. . . một cộng đồng [tôn giáo], trừ khi người ta tin rằng các thành viên riêng lẻ của cộng đồng đă được ban tặng cho lư trí và ư chí tự do bởi Đấng Tạo hóa của họ và họ không có kiến thức nhất định về những ǵ đă / là ư định của Đấng Tạo hóa. — Leonard Binder, Hồi giáo với chủ nghĩa tự do

ĐÓ LÀ THÁNG 7 NĂM 657, và bờ sông Euphrates khô cạn không thể tưởng tượng được. Tại một địa điểm có tên là Siffin, một cảnh tượng ngoạn mục: Hai đội quân Hồi giáo — cả hai đều bao gồm hàng ngàn người đàn ông mang kiếm và trường thương — đối mặt với nhau. Một người được lănh đạo bởi Ali, vị vua thứ tư, đồng thời là em họ và con rể của Nhà tiên tri Mohammad. Đội quân c̣n lại do Muawiyah, thống đốc của tỉnh mới bị xâm chiếm của Syria, một lănh thổ rộng lớn bao gồm Syria, Israel / Palestine và Jordan ngày nay. Tranh chấp đă bắt đầu một năm trước đó khi Uthman, người tiền nhiệm của Ali với tư cách là vị vua thứ ba, bị một nhóm phiến quân Hồi giáo ám sát. Ali đă thay thế Uthman, nhưng Muawiyah, người cùng bộ tộc với Uthman, đổ lỗi cho Ali v́ đă không trừng trị được những kẻ giết người. Ông cũng tuyên bố caliphate (vua thứ tư) của riêng ḿnh — khơi mào cuộc nội chiến đầu tiên trong đạo Hồi.

Hai đội quân đă đóng quân tại Siffin (thuộc Syria ngày nay) trong gần ba tháng, chờ đợi các nhà lănh đạo của họ đi đến một thỏa thuận. Không thể làm như vậy, Ali cuối cùng đă ra lệnh tấn công toàn diện, Ali đă đích thân tham gia với sự dũng cảm huyền thoại của ḿnh. Trận chiến Siffin kéo dài ba ngày, số người chết tăng lên, và những người ủng hộ Ali dường như đă chiến thắng.

Muawiyah, người đă quan sát cuộc chiến từ túp lều chỉ huy, ngày càng trở nên bi quan. Nhưng ông ta có một mưu đồ cuối cùng. Lấy cảm hứng gợi ư từ một trong những cố vấn của ḿnh, ông ta bảo vệ sĩ của ḿnh dán các trang sách từ Kinh Qur’an lên các điểm nhọn vào trường thương của họ và hát lên, “Luật của Chúa! Điều đó sẽ quyết định giữa chúng ta! ” Bài hát này có nghĩa là hai bên nên ngừng chiến đấu và giải quyết các vấn đề bằng trọng tài ḥa b́nh. Hầu hết binh lính của Ali không thể chống lại lời kêu gọi đó. V́ vậy, các thanh kiếm được hạ xuống và các cuộc nói chuyện lại tiếp tục.

Nhưng chiến lược này cũng thất bại. Trọng tài, được thiết lập trong vài tháng sau trận chiến, kết thúc một cách thiếu quyết đoán, và hai bên vẫn thù địch. Giải pháp trên thực tế sẽ là giữ nguyên hiện trạng: Muawiyah sẽ cai trị Syria, trong khi Ali sẽ cai trị phần c̣n lại của các lănh thổ Hồi giáo - Ả Rập, Iraq và Ba Tư.

Theo thời gian, những người theo dơi Ali sẽ được gọi là “những người ủng hộ Ali” hoặc Shi’atu Ali, hay đơn giản hơn là người Shiite. Muawiyah, người sẽ sống lâu hơn Ali, đă thành lập triều đại Umayyad, cai trị Islamdom trong chín mươi năm tiếp theo. Ḍng Hồi giáo chính thống được h́nh thành dưới đế chế này sẽ được gọi là Sunni.

Một phe Hồi giáo thứ ba bắt đầu với một nhóm binh sĩ đă ly khai khỏi quân đội của Ali khi anh ta chấp nhận phân xử với Muawiyah. Họ nói rằng “sự can thiệp của con người” vào một vấn đề đáng lẽ chỉ thuộc về Đức Chúa Trời là dị giáo. Ngay sau đó phe này tuyên bố Ali và Muawiyah là những kẻ ngoại đạo và thề sẽ chiến đấu chống lại cả hai. Họ được dán nhăn Kharijites, hoặc "Những người bất đồng chính kiến." Bốn năm sau Trận chiến Siffin, một Kẻ bất đồng chính kiến đă ám sát Ali bằng một thanh kiếm tẩm chất độc.

Chỉ một phần tư thế kỷ sau thời của Nhà tiên tri Mohammad - “thời đại của hạnh phúc”, như người Hồi giáo gọi - những người theo đạo Hồi đă đổ máu lẫn nhau. Điều ǵ đă xảy ra với ư tưởng rằng tất cả các tín đồ đều là anh em trong đức tin?

1 KHAI THÁC QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

Câu trả lời không nằm ở đức tin mà nằm ở một yếu tố khác đă tạo ra rắc rối cho Hồi giáo ngay từ đầu: quyền lực chính trị. Không có tranh chấp thần học nào tạo ra kẻ thù ngoài Ali và Muawiyah — hoặc, trong tranh chấp trước đó, Ali và Aisha, (góa phụ của Nhà tiên tri Mohammad). Thay vào đó, họ không đồng ư về một câu hỏi có phần trần tục: Ai có quyền cai trị?

Điều thú vị là, sự bất đồng trong chính trị dần dần cũng tạo ra sự phân chia trong thần học. Người Shiite sớm phát triển một học thuyết cho rằng những người thừa kế hợp pháp duy nhất của Nhà tiên tri là hậu duệ của Ali. Người Sunnis lập luận rằng bất kể người cai trị là ai, người đó phải được tuân theo v́ trật tự và ổn định. Những người Bất đồng chính kiến cuồng tín — theo cách nói của một nhà b́nh luận Hồi giáo, là “phong trào khủng bố đầu tiên trong lịch sử Hồi giáo” — luôn cải đạo hoặc giết tất cả những người Hồi giáo khác.

Sự chia rẽ này là không thể tránh khỏi, bởi v́ bản chất của quyền lực chính trị là tạo ra sự cạnh tranh. Trong Hồi giáo, ngoại lệ duy nhất của quy tắc này là thời đại của Nhà tiên tri Mohammad, người có thẩm quyền được chấp nhận bởi tất cả người Hồi giáo. Nhiệm vụ của Mohammad, đến từ phía trên của trái đất. Nhưng sau khi ông qua đời, nhiệm vụ trở thành trái đất và trở nên phức tạp bởi tất cả mọi thứ của con người - nhận thức khác nhau, lợi ích mâu thuẫn, xung đột giữa ḷng trung thành. Người đầu tiên, Abu Bakr, đă làm hết sức ḿnh bằng cách thiết lập một nguyên tắc trung thực. “Hăy vâng lời tôi chừng nào tôi c̣n vâng lời Chúa và Sứ giả của Ngài,” ông tuyên bố. "Trong trường hợp tôi không vâng lời Đức Chúa Trời và Sứ giả của Ngài, tôi không có quyền bắt bạn phải vâng lời tôi." Nhưng ai sẽ quyết định liệu ông và những người kế vị có thực sự vâng lời Đức Chúa Trời và Sứ giả của Ngài hay không? Ai sẽ quyết định ai là người công b́nh? Chỉ mất một thập kỷ để câu hỏi đó gây ra căng thẳng, và hai thập kỷ để tạo ra một cuộc nội chiến.

Tại thời điểm này, một nhà b́nh luận hiện đại có thể đề xuất một chủ nghĩa đa nguyên sống và để tồn tại, hoặc thậm chí là sự tách biệt giữa tôn giáo và quyền lực chính trị. Nhà b́nh luận hiện đại đó cũng có thể nói thêm rằng đa nguyên và thế tục là những khái niệm hiện đại và thật đáng tiếc là Hồi giáo chưa bao giờ có cơ hội khám phá ra chúng. Nhưng, than ôi, Hồi giáo có tiềm năng thiết lập chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và thế tục (secularity). Ít nhất th́ một trường phái tư tưởng đă phát triển thần học hoàn hảo cho nó.

2 ĐỨC CHÚA TRỜI - TRUNG TÂM ĐIỂM CỦA Ư TƯỞNG ĐA NGUYÊN

Giữa cuộc tranh căi ai-đúng-ai-sai từ Ali và Muawiyah, một nhóm người Hồi giáo đă đưa ra ư tưởng ḥa giải. Họ cho rằng đơn giản là không thể giải quyết tranh chấp về lẽ phải. Họ nhấn mạnh rằng chỉ có Chúa mới có kiến thức tối thượng, v́ vậy con người nên tránh những phán xét mang tính quyết định về nhau. “Nếu Chúa muốn, Ngài sẽ tạo cho bạn một cộng đồng duy nhất,” một câu Kinh Qur’an tuyên bố khá rơ ràng. “Mỗi người trong các bạn sẽ trở về với Chúa và Ngài sẽ thông báo cho bạn về những điều mà bạn đă khác biệt.” Với câu này trong tay, những người Hồi giáo này đă quyết định “hoăn lại” những câu hỏi về thế giới bên kia ai-là-đúng-và-ai-là-sai. Do đó, nhóm này nhanh chóng được biết đến với cái tên Murjiites (Tŕ hoăn: posponers)).

Đáng chú ư, lập luận thần học cho rằng những người Hồi giáo ở thế kỷ thứ bảy này t́m thấy sự khoan dung tôn giáo - rằng các quyết định cuối cùng nên được giao cho Chúa - là lập luận chính xác mà John Locke sẽ đưa ra một thiên niên kỷ sau đó trong Một bức thư liên quan đến sự khoan dung (a letter concerning toleration).

Phe tŕ hoăn Postponers phản đối mạnh mẽ những người Bất đồng chính kiến và xu hướng đánh giá đức tin của mọi người bằng cách nh́n vào thực hành tôn giáo bề ngoài của họ. Trước đây, đức tin không phải là một h́nh thức hành động mà một người Hồi giáo phải thể hiện qua các tác phẩm của ḿnh, mà là một ư thức mà anh ta sẽ cảm nhận được trong trái tim ḿnh. Họ nói, để trở thành một người Hồi giáo, là để nội tâm hóa “sự hiểu biết, sự phục tùng và t́nh yêu của Đức Chúa Trời.” Một khi một người có đức tin, anh ta sẽ được cứu bất chấp những tội lỗi mà anh ta đă phạm phải. (Một số người lập luận rằng họ đă phát triển một thần học gần như lư thuyết “Pauline”.) Những người Postponers rất đại kết đến mức họ thậm chí c̣n nói rằng việc chấp nhận hầu hết các học thuyết không chính thống, chẳng hạn như “thuyết ba ngôi” - học thuyết Cơ đốc về Chúa Ba Ngôi như người ta thường hiểu. Người Hồi giáo - không nhất thiết phải chấp nhận sự không chung thủy (infidelity – của vợ chồng hay của giáo hội).

Bên cạnh việc mở ra con đường dẫn đến đa nguyên tôn giáo, thần học của Postponers cũng vô hiệu hóa ư tưởng về thần quyền hoặc đối lập chính trị dựa trên thần học. Họ lập luận rằng v́ chỉ một ḿnh Đức Chúa Trời mới có thể xác định được sự thành thật trong đức tin của những người cai trị, quyền lực chính trị không nên được biện minh hay bị nghi ngờ trên cơ sở thần học. Đó là lư do tại sao, không giống như những Người bất đồng chính kiến cuồng tín gán ghép cho bất kỳ ai mà họ không đồng ư là “kẻ vô đạo”, những Posponers có thể tách ḿnh ra khỏi các phe phái khinh thường lẫn nhau mà không lên án bất kỳ ai trong số họ.

Thật không may, trường phái Postponers “khoan dung riêng biệt” đă không tồn tại được lâu. Thần học đa nguyên của họ mờ nhạt giữa những xung đột nảy lửa giữa các phe phái Hồi giáo khác. Nhưng lập trường chống lại sự cuồng tín của họ có ư nghĩa đối với các phe Hồi giáo khác. Nó đặc biệt có ảnh hưởng đáng kể đến Imam Abu Hanifa, người sáng lập một trong bốn trường phái Sunni - và là người khoan dung nhất -: Hanafi.

3 CÓ PHẢI ĐỨC CHÚA TRỜI ĐỘC TÀI HAY KHÔNG?

Chúng ta sẽ quay lại Abu Hanifa nhiều lần trong suốt cuốn sách này. Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta cần xem chính lực lượng mà những người Hậu giáo cố gắng đẩy lùi tôn giáo — tức là, quyền lực chính trị — đă đóng một vai tṛ như thế nào trong cuộc tranh căi thần học nghiêm trọng đầu tiên ở Islamdom: tranh chấp giữa những người bảo vệ ư chí tự do của con người và những người ủng hộ tiền định thần thánh.

Trước Hồi giáo, người Ả Rập hoàn toàn theo chủ nghĩa định mệnh. Họ tin rằng đàn ông là “món đồ chơi - bất lực của số phận (tiếng Ả rập – dahr) , được định đoạt bởi các v́ sao và các lực khác của từ thiên nhiên. Qur’an bác bỏ thần thoại này bằng cách tuyên bố rằng chính Chúa, một người có thẩm quyền mà con người có thể kháng cáo, là người quyết định số phận của họ. Hơn nữa, Qur’an nói về trách nhiệm của con người trong việc đưa ra các quyết định đạo đức. Nhưng điều này cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời, đấng toàn năng, đă ban cho con người quyền lực thực sự để kiểm soát cuộc sống của họ?

Vào đầu thế kỷ thứ bảy, một nhóm các nhà thần học Hồi giáo được gọi là Qadaris đă tập hợp tại Syria, trung tâm trí tuệ (mới thành lập) của Islamdom, và đă trả lời câu hỏi đó một cách khẳng định. Họ lập luận rằng sẽ thật bất công nếu Đức Chúa Trời ban thưởng và trừng phạt con người, nếu Ngài không cho họ quyền lựa chọn. Theo đó, họ đă phát triển một học thuyết nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân, quyền tự quyết (disposition) và quyền chọn lựa (self determination) của con người.

Nhưng không phải ai cũng ủng hộ phong trào Qadarite, và ngay sau đó một trường phái chống đối nổi lên với tên gọi Jabriyyah. Nghĩa đen của thuật ngữ này có nghĩa là “những người ủng hộ việc thực thi lời của bên trên [Đức Chúa Trời],” và các biện sĩ của họ từ chối thừa nhận rằng con người có bất kỳ ư chí tự do nào. Họ tin rằng đàn ông chỉ đơn giản là làm những ǵ Chúa đă “viết” cho họ.

Cuộc tranh căi trí tuệ này nhanh chóng lọt vào mắt xanh của các nhà chức trách chính trị: các vị thần Umayyad. Người đầu tiên trong số này là Muawiyah, thống đốc của Syria, người đă đụng độ kiếm với Ali. Khi Muawiyah chết, caliphate được truyền cho con trai ông, Yazid, một kẻ chuyên quyền, người sẽ sớm bị cả người Sunni và người Shiite căm ghét v́ đă giết Hussein, cháu trai của tiên tri Mohammad , trong cuộc thảm sát thảm khốc tại Karbala năm 680. Không phải tất cả con cháu của Yazid đều khủng khiếp như anh ta, nhưng Umayyad vẫn tự tạo cho ḿnh một cái tên xấu là những tên bạo chúa tham nhũng. Trong số những thứ khác, họ bị khinh thường v́ đă giới thiệu lao động cưỡng bức, vốn bị người Hồi giáo coi là một thứ phản cảm, "một trong những thực hành đồi bại của chế độ chuyên chế (tyranny) tiền Hồi giáo."

Nói cách khác, Umayyad có vấn đề về tính hợp pháp thứ bậc trong giáo hội. Đầu tiên, ông cố gắng sửa chữa nó bằng cách tự đặt cho ḿnh một danh hiệu xa hoa: "Caliph của Chúa." Đây là cách quá tham vọng, bởi v́ ngay cả những Caliph được Hướng dẫn Đúng đắn rất được kính trọng, những người bạn đồng hành thân cận nhất của Mohammad, cũng chỉ tự gọi ḿnh là “Caliph của Nhà tiên tri”. Các Umayyad rơ ràng rất háo hức thao túng tôn giáo để có quyền lực chính trị. Đó là lư do tại sao cuộc tranh luận giữa Qadaris và Jabriyyah khiến họ quan tâm: Lập luận tiền đề biện chứng, họ nhận ra, có thể rất hữu ích để biện minh cho quy tắc của họ. Họ lập luận rằng nếu Đức Chúa Trời đă định đoạt mọi thứ trong cơi đời đời, th́ Ngài cũng phải xác định quyền thống trị của vương triều Umayyad. Họ nói, nếu Đức Chúa Trời không muốn điều đó, họ sẽ không được ngồi trên ngai vàng.

Cuộc tranh căi thần học sau đó trở thành một cuộc tranh căi chính trị giữa Qadaris và ṭa án Umayyad. Trong Thư mời ư chí tự do của ḿnh, thủ lĩnh của Qadaris, một học giả khổ hạnh tên là Hasan al-Basri, đă công khai thách thức vị thần Umayyad Ibn Marwan. Một trong những tín đồ của al-Basri, Ghaylan al-Dimashqi, c̣n đi xa hơn: Những người cai trị không có quyền coi quyền lực của họ là “một món quà của Đức Chúa Trời,” ông lập luận; họ phải ư thức về trách nhiệm của họ đối với con người trước Chúa. Ông thậm chí c̣n khẳng định rằng nếu tất cả người Hồi giáo thực sự tuân theo Đức Chúa Trời và luật pháp của Ngài th́ sẽ không cần đến bất kỳ vị thần nào.

Đó là quá nhiều. Caliph nhanh chóng bị al-Dimashqi bắt và hành quyết, cùng với hai đồng nghiệp cùng chí hướng. Phong trào sẽ vẫn bị đàn áp trong suốt chín mươi năm trị v́ của triều đại Umayyad.

Sau đó, có một chi tiết cuối cùng và khá thú vị kể về thời đại Umayyad. Trong số mười bốn vị vua kế tiếp của Umayyad, hai trong số họ, Umar II và Yazid III, có thể được coi là những trường hợp ngoại lệ của chế độ cai trị, v́ họ là những người đàn ông ngoan đạo và khiêm tốn đă cố gắng đảo ngược làn sóng đàn áp và tham nhũng. Đặc biệt, Yazid III nổi tiếng với bài phát biểu nhậm chức tại Damascus vào năm 744, khi ông nhấn mạnh trách nhiệm giải tŕnh của ḿnh với người dân và thề sẽ tránh sự lạm quyền của những người tiền nhiệm. Ông hứa không phung phí tiền bạc cho vợ con, không chuyển của cải từ tỉnh này sang tỉnh khác mà không có lư do, và không đánh lừa những người dhimmis, những người theo đạo Cơ đốc và người Do Thái “được bảo vệ”. Ông thậm chí c̣n bảo đảm với dân chúng của ḿnh rằng ông sẽ từ chức nếu không thực hiện những lời hứa này và ông sẽ chấp nhận bất cứ ai mà họ chọn để thay ông.

Bây giờ, caliph tốt này không đột nhiên hiện từ trên trời; các nhà sử học nghĩ rằng ông có liên hệ chặt chẽ với Qadaris. Rơ ràng, ư tưởng chính trị về trách nhiệm đối với con người được liên kết chặt chẽ với ư tưởng thần học về ư chí tự do. Đáng tiếc, Yazid III chỉ nắm quyền được sáu tháng trước khi chết v́ nguyên nhân tự nhiên. Và sau đó quy tắc Umayyad trở lại hoạt động như xưa một cách b́nh thường.

4 SỰ THĂNG TIẾN CỦA CON NGƯỜI CỦA LƯ DO (PEOPLE OF REASON)

Cuộc tranh căi giữa những người ủng hộ ư chí tự do và tiền định là một cuộc tranh căi quan trọng, nhưng nó chỉ là khúc dạo đầu cho cuộc chiến ư tưởng thực sự trong các thế kỷ h́nh thành của đạo Hồi: cuộc đụng độ giữa ahl al-ray và ahl al-hadith, hay Con người của Lư trí và Con người của Truyền thống.

Tranh chấp này bắt đầu chính là sự bất đồng về “ai là người kế thừa Mohammad” tức Shariah, người có vai tṛ quan trọng đối với Islamdom mà chúng ta đă xem xét trong chương trước. Tất cả những người theo đạo Hồi đều đồng ư rằng Qur'an phải là nguồn gốc của Shariah, nhưng điều đó không giải thích được nhiều, v́ Qur'an là một cuốn sách tương đối ngắn - không dài hơn Tân Ước - và trọng tâm chính của nó hoàn toàn là các vấn đề tâm linh. , chẳng hạn như mục đích của Đức Chúa Trời, bổn phận đạo đức của con người và thế giới bên kia. Những câu kinh Qur’an về tội ác và h́nh phạt hoặc hôn nhân và thừa kế, những vấn đề nghiêm trọng về trần thế, hầu như không bao giờ đề cập đến. Phần lớn Qur’an bao gồm “các chỉ thị đạo đức chung chung thông thường và rộng răi”.

Làm thế nào những chỉ thị đạo đức chung này — chẳng hạn như công lư, sự công bằng và ḷng tốt — sẽ được áp dụng cho các quy tắc và quy định cụ thể là câu hỏi trọng tâm của Shariah. Bản thân kinh Qur’an đă chỉ ra hai nguồn khác: (1) lư trí của con người, và (2) chính Nhà tiên tri, như một “tấm gương” cho người Hồi giáo noi theo. Nhưng ví dụ này có phần hạn chế trong bối cảnh của chính Mohammad, v́ vậy người Hồi giáo bắt đầu đối mặt với những câu hỏi hoàn toàn mới khi họ rời Bán đảo Ả Rập và chuyển đến các trung tâm quốc tế hơn ở Trung Đông, chẳng hạn như Ai Cập, Syria và đặc biệt là Iraq.

Có chút ngạc nhiên rằng Iraq sẽ trở thành trung tâm cho các học giả Shariah, những người đă sử dụng lư trí của con người làm nguồn gốc cuối cùng thứ hai sau Kinh Qur’an. Nói cách khác, họ là tín đồ của ray, một thuật ngữ tiếng Ả Rập có nghĩa là “lư do” hoặc “ư kiến có lư lẽ”. Học giả nổi tiếng và có thẩm quyền nhất xuất hiện từ trường phái này là Abu Hanifa, người đồng t́nh với trường phái Postponers (đă nói ở trên). Suy nghĩ của ông dựa chắc chắn vào kinh Qur’an và lư trí của con người và chút ít về các “tấm gương ví dụ” của chính Nhà tiên tri Mohammad:

Hanifa cảm thấy rơ ràng rằng điều kiện địa phương khác nhau, và ngay cả khi Medina là thành phố Mohammed sinh sống là do hoàn cảnh bắt buộc, nhưng nó là một thị trấn sa mạc và do đó bạn không thể mong đợi một luật sa mạc áp dụng cho cuộc sống thành phố, khi liên quan đến vấn đề (xuất) nhập phổ thông. . . . [Do đó] Abu Hanifa dựa vào bộ ba kinh Koran, qiyas và Ra’i của chính ḿnh, thỉnh thoảng ông cũng dùng tài liệu h́nh luật ưa thích (legal preference) istihsan (ưu tiên hợp pháp v́ lợi ích chung) nhưng hiếm khi dùng Hadith (tập hợp những tài liệu tin tức và lời nói của các biện sĩ của nhóm Hồi giáo Sunny)

Các thuật ngữ tiếng Ả Rập được sử dụng ở đây rất quan trọng.

  • Qiyas có nghĩa là "lư luận loại suy", và
  • istihsan có nghĩa là "ưu tiên hợp pháp v́ lợi ích chung." Hai công cụ hợp lư này cùng với công cụ thứ ba,
  • urf, đề cập đến phong tục địa phương trong bất kỳ xă hội cụ thể nào,

sẽ là hệ quy chiếu chính của Abu Hanifa. Do đó, phiên bản Shariah của ông sẽ là một phiên bản năng động và linh hoạt, sẽ tuân thủ các nguyên tắc chung của Qur’an trong bất kỳ bối cảnh nào, bằng cách có thể tự thích ứng với thực tế mới.

Hadiths bao gồm các câu nói hoặc hành vi được báo cáo là do Nhà tiên tri Mohammad. Và, như chúng ta sẽ thấy chi tiết sau, những điều này sẽ trở thành trụ cột của trường phái luật học đối lập được gọi là ahl al-hadith, Con người của Truyền thống.

5 NGUYÊN TẮC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Abu Hanifa là nhà tiên phong của phe pháp lư thuộc trường phái duy lư. Tuy nhiên, các vấn đề của luật học cuối cùng được liên kết với các vấn đề của thần học - quan điểm về bản chất của Đức Chúa Trời, sự mặc khải và con người. Do đó, ở Iraq, một trường phái thần học được gọi là Mutazilite đă cố gắng giải quyết tất cả những vấn đề này trong một quan điểm hợp lư. Là những tín đồ chân chính của Hồi giáo, và những trí thức sành sỏi hiểu biết các truyền thống khác, kể cả triết học Hy Lạp, mục đích của họ là chứng minh sự tương hợp của đức tin và lư trí của người Hồi giáo.

Hầu hết các Mutazilite là tín đồ của Abu Hanifa (do đó, Hanafis) về luật học, những người Hồi Giáo khác là người Shiite. Nhưng tất cả họ đều cùng với ư tưởng tự do của Qadaris. Đối với họ, đây không chỉ là một quan điểm ưa thích — đó là một kết quả hợp lư của một trong những thuộc tính quan trọng của Đức Chúa Trời: công lư. V́ Đức Chúa Trời hoàn toàn công b́nh, họ lư luận, Ngài sẽ không thưởng hay trừng phạt các tạo vật của Ngài mà không có lư do. V́ vậy, con người sẽ nhận được phần thưởng trên thiên đường hoặc sự trừng phạt trong địa ngục do sự lựa chọn tự do của họ. Người Mutazilites kết luận rằng bất cứ ai tin vào một vị Chúa công b́nh đều phải chấp nhận rằng con người là “người tạo ra những việc làm của ḿnh”.

Nhưng công lư có nghĩa là ǵ? Và làm sao con người có thể biết được điều ǵ là chính đáng hay không? Những người chống đối phe Mutazilite cho rằng thật sai lầm khi định nghĩa công lư là ǵ và sau đó mong đợi Chúa tuân theo nó. Họ nói rằng bất cứ điều ǵ Chúa làm, đó sẽ là tiêu chuẩn cho công lư. Ngay cả khi Ngài đặt tất cả mọi người vào địa ngục mà không có lư do ǵ, đó sẽ là một điều rất công b́nh, v́ công lư không có định nghĩa nào ngoài bất cứ điều ǵ Ngài làm.

Đối với người Mutazilite, mô tả về một Đức Chúa Trời vô kỷ luật này không mang lại cho Ngài lời ca ngợi, như đối thủ của họ nghĩ, mà là sự thiếu tôn trọng. Đối với họ, bản chất của Đức Chúa Trời là công b́nh và tốt lành, và Ngài sẽ không bao giờ đi ngược lại những nguyên tắc này, mặc dù Ngài có quyền làm mọi điều Ngài muốn. “Ngài không thể tra tấn người vô tội và đ̣i hỏi điều không thể có được hay xẩy ra được,” Mutazilites nhấn mạnh, không phải v́ Ngài không có quyền làm như vậy, mà “đơn giản v́ Ngài là Đức Chúa Trời.”

Ở đây, có thể cần lưu ư rằng những quan điểm đối lập này về Đức Chúa Trời cũng có trong truyền thống Cơ đốc. Tương đương với quan điểm của người Mutazilite được gọi là “chủ nghĩa duy lư” hay “chủ nghĩa trí tuệ”, bởi v́ nó lập luận rằng Đức Chúa Trời có lư trí và cách thức của Ngài, ít nhất một phần, con người có thể hiểu được. Quan điểm khác, được gọi là “chủ nghĩa tự nguyện”, định nghĩa một vị Chúa mà đường lối của Ngài đơn giản là không thể biết và không bị ràng buộc bởi bất kỳ nguyên tắc nào mà chúng ta biết.

Một nhà b́nh luận nổi bật đă nêu vấn đề này vào năm 2006 là Giáo hoàng Benedict XVI, người, trong bài phát biểu gây tranh căi ở Regensburg (Đức), đă chỉ trích các quan điểm tự nguyện trong Hồi giáo. Giáo Hoàng đă chính xác khi cảnh báo rằng những quan điểm như vậy có thể “dẫn đến h́nh ảnh của một vị Chúa thất thường, người thậm chí không bị ràng buộc với chân lư và ḷng tốt,” nhưng ĐGH đă lầm khi cho rằng đó là quan điểm duy nhất trong Hồi giáo. Trên thực tế, lập luận của Đức Thánh Cha — rằng “Đức Chúa Trời không trở nên thần thánh hơn khi chúng ta đẩy Ngài ra khỏi chúng ta theo một chủ nghĩa tự nguyện tuyệt đối, không thể xuyên thủng” —chính xác là quan điểm mà người Mutazilite đă bảo vệ mười hai thế kỷ trước đó, rất lâu trước khi nó được truyền sang thời trung cổ. Christendom của một Mutazilite ngày sau tên là Ibn Rushd, được biết đến ở phương Tây là Averroes.

Chủ nghĩa duy lư của người Mutazilite cũng khiến họ kết luận rằng Thượng đế, và do đó vũ trụ của Ngài, "vận hành theo các quy luật hợp lư", một tiền đề kêu gọi sự nghiên cứu khoa học. Từ đó nổi lên sự bùng nổ khoa học của thế giới Hồi giáo thời trung cổ.

Bên cạnh quan điểm của riêng họ về bản chất của Chúa, các Mutazilite cũng không đồng ư với đối thủ của họ về bản chất của sự mặc khải. Tiết lộ được đề cập là Qur’an, và các Mutazilite lập luận rằng nó đă được “tạo ra”, trong khi những người chống đối khẳng định rằng nó “chưa được xử lư”. Ngữ nghĩa học rất quan trọng ở đây. Đối với những tín đồ của “Qur’an không được xử lư”, thánh thư Hồi giáo đă tồn tại với Chúa từ đời đời - tương tự như bản chất của Chúa Giê-su như được mô tả trong Phúc âm thứ tư của thánh John. Đối với người Mutazilite, Qur’an chắc chắn là Lời của Chúa, nhưng Ngài đă nói nó vào một thời điểm nhất định trong lịch sử. Nếu không, họ lập luận, thánh kinh sẽ được nâng lên gần như cấp độ của một vị thần thứ hai - điều ǵ đó mà họ lập luận, mâu thuẫn với chủ nghĩa độc thần không khoan nhượng của Hồi giáo.

Mặc dù cuộc tranh luận này về bản chất của Qur’an chủ yếu liên quan đến thần học, nó cũng có những hệ quả diễn giải, v́ “một Qur’an được tạo ra có thể được giải thích; chỉ có thể áp dụng một Qur’an chưa được xử lư. ” Không có ǵ ngạc nhiên khi quan điểm của người Mutazilite đối với thánh kinh đă cho phép những người ít hiểu biết hơn về văn học đọc nó, điều mà họ cần đặc biệt để giải thích những câu có vẻ như được nhân hóa trong kinh Qur’an— tham chiếu đến “bàn tay”, “khuôn mặt” và “ngai vàng” của Đức Chúa Trời. Người Mutazilite cực lực phản đối thuyết nhân h́nh, v́ vậy họ đă phát triển một phương pháp giải thích ngụ ngôn gọi là ta’wil, phương pháp này sớm ảnh hưởng đến các nhà duy lư khỏi những thuyết phục tôn giáo khác. Thật vậy, trong thế kỷ thứ chín và thứ mười, người Do Thái Rabbanite và Karaite, người Cơ đốc giáo Coptic, và các nhà thần học ḍng Shiite và Sunni đă sử dụng Mutazilite ta’wil để bảo vệ tính hợp lư của kinh sách của họ.

6 LƯ THUYẾT THỜI TRUNG CỔ VỀ Ư TƯỞNG TỰ DO

Những người Mutazilite thường bị hiểu nhầm và đôi khi bị nhầm lẫn với một số "triết gia" thế tục, những người cũng xuất phát từ ḍng phái Duy lư trong Hồi giáo thời trung cổ nhưng sau đó lại bị các giáo điều Hy Lạp cổ đại làm họ say mê đến mức họ gần như là những người theo chủ nghĩa duy vật. Trên thực tế, người Mutazilite là những người Hồi giáo sùng đạo, mong muốn phục vụ đức tin của họ bằng cách làm cho nó dễ tiếp cận và hấp dẫn đối với những người không theo đạo Hồi được giáo dục. Họ đă được mô tả là cung cấp một con đường trung gian giữa “bên phải” (tức là những người Hồi giáo phản đối) và “bên trái” (tức là các nhà triết học thế tục hoặc không theo đạo Hồi).

Những đóng góp của họ thật vĩ đại. Bằng cách xác định con người là những tác nhân tự do và tự chủ có khả năng hiểu Đức Chúa Trời và sự sáng tạo của Ngài, họ đă đặt ra một số ư tưởng cơ bản mà ngày nay chúng ta gọi là “hiện đại” và thậm chí là “tự do”. Theo lời của một giáo sư luật người Mỹ, ư tưởng của họ thực sự “có vẻ giống nhau - thực sự có thể đoán trước được - nhiều nguyên tắc gắn liền với luật pháp phương Tây”, chẳng hạn như “tính hợp lư, tính khách quan, các nguyên tắc về quyền tự do và b́nh đẳng của cá nhân”.

Một ví dụ thú vị về điều này là sự mở rộng của học thuyết ư chí tự do mà người Mutazilite và những người tiền nhiệm của họ, Qadaris, đă ủng hộ. Ư tưởng này khiến họ kết luận rằng thế giới phải là một nơi tự do để con người có “quyền lựa chọn” (al-tamakkun wa-l ikhtiyar). Do đó, toàn thế giới, họ tranh luận, phải được xem như Nơi thử thách (dar al-ibtila), nơi mọi người được kiểm tra xem họ sẵn sàng hay không muốn chấp nhận đức tin thật. Người Mutazilite cũng nhận ra rằng sự chấp nhận đức tin này chỉ có thể xảy ra với niềm tin chắc chắn — với “hành động của trái tim” —một ư tưởng mà họ cũng suy ra từ một câu kinh Qur’anic: “Không có sự ép buộc trong tôn giáo”. Kết luận của họ là mọi người xứng đáng có "quyền tự do lựa chọn tôn giáo."

Một học giả phương Tây lưu ư, đây là cơ sở vững chắc để khoan dung cho sự hoài nghi và các thái độ “sai lầm” khác, “không phải v́ tất cả các lựa chọn đều có giá trị như nhau, như những người theo chủ nghĩa đa nguyên hiện đại tuyên bố, mà là v́ những quan điểm sai lầm được coi như một phép thử đối với ḷng tin của người Hồi giáo. và do đó phải chịu đựng hơn là bị loại bỏ. "

Một số ư tưởng chính trị nảy sinh từ điều này cũng rất đáng chú ư. Al-Farabi, một nhà triết học Hồi giáo ở thế kỷ thứ mười, người đă mở rộng triết học Mutazilite sang xă hội học và chính trị, đă viết Kitab as- Siyasah al-Madaniyah, hay The Book of Civil Politics. Ông bắt đầu bằng cách lưu ư rằng tất cả các chính phủ trên trái đất đều không hoàn hảo, ngoại trừ chính phủ được thành lập bởi Nhà tiên tri Muhammad ở Medina, v́ chính phủ được điều hành trong sự hiệp thông trực tiếp với Chúa. Tuy nhiên, al-Farabi nhắc nhở độc giả của ḿnh, một chế độ thần quyền như vậy đă trở nên bất khả thi sau cái chết của Nhà tiên tri, v́ vậy các quy tắc của một chính phủ công bằng phải được thiết lập bởi lư trí của con người.

Sau đó, ông mô tả chính phủ lư tưởng của riêng ḿnh, mà ông gọi là "nhà nước cộng đồng," mà cư dân của họ sẽ được hưởng tự do hoàn toàn (Hurriyah). Đây sẽ là “một tổ chức theo chủ nghĩa b́nh quân, nơi mọi người được tự do (ahrar) để làm bất cứ điều ǵ họ muốn.” Hơn nữa, họ sẽ “sẵn sàng công nhận vai tṛ lănh đạo của những người hứa cho họ nhiều tự do hơn. . . và một cơ hội lớn hơn để theo dơi các khuynh hướng cụ thể của họ. " Khi một chính phủ thúc đẩy tự do như vậy tồn tại, al-Farabi nói thêm, "những người từ bên ngoài đổ xô đến nó," và điều này dẫn đến một "loại hỗn hợp chủng tộc và đa dạng văn hóa được mong muốn nhất", điều này sẽ đảm bảo sự phát triển của những cá nhân tài năng như các nhà triết học và nhà thơ.

Nghe hơi giống nước Mỹ, phải không?

Al-Farabi thực sự đă nh́n thấy trước. Franz Rosenthal, cố giáo sư nghiên cứu tiếng Ả Rập, đă nói như sau về ông:

Người đọc hiện đại khó có thể không nhận thấy rằng nhà triết học Hồi giáo đă thành công trong việc đưa ra một mô tả chân thực về những điều cốt yếu của nền dân chủ. Ông cũng nắm bắt được đầy đủ ư nghĩa và ư nghĩa của khái niệm tự do chính trị v́ hạnh phúc và sự phát triển của cá nhân.

Ư tưởng của al-Farabi cũng như các nhà tư tưởng Hồi giáo khác - chẳng hạn như al-Kindi, Ibn Sina và Ibn Rushd - đă được dịch sang tiếng Latinh và góp phần vào sự trỗi dậy của tư tưởng phương Tây hiện đại. Đó là lư do tại sao tất cả chúng cũng có tên Latinh: Alpharibus, Alkindus, Avicenna và Averroes. Một nhà tư tưởng Hồi giáo khác, Ibn Khaldun ở thế kỷ XIV, đă viết Lời giới thiệu về Lịch sử, theo nhà sử học người Anh (đă quá cố) Arnold Toynbee, “chắc chắn là công tŕnh vĩ đại nhất của loại h́nh này chưa từng được tạo ra bởi bất kỳ trí óc nào ở bất kỳ thời điểm hay địa điểm nào. . ” Trong cuốn sách, Ibn Khaldun đă phát triển, cùng với những thứ khác, một lư thuyết về chủ nghĩa tự do kinh tế khuyên các chính phủ giảm thiểu thuế, đảm bảo tài sản tư nhân, hỗ trợ thị trường tự do và tránh thâm hụt ngân sách. Ngân hàng Thế giới gần đây đă gọi ông là “người đầu tiên ủng hộ tư nhân hóa”.

Nói tóm lại, ư tưởng về tự do — theo nghĩa thần học, chính trị hoặc kinh tế — không được biết đến trong chế độ Hồi giáo (Islamdom) cổ điển, như một số người đă nhận như vậy. Những người có lư trí rơ ràng khao khát điều đó, và họ có thể đă hướng tới việc thiết lập một chủ nghĩa tự do Hồi giáo thực sự.

Tuy nhiên, họ không phải là những người duy nhất xung quanh ta. Như chúng ta đă thấy, cũng có những bậc chuyên quyền caliphs khinh bỉ những kẻ tự do ngỗ ngược như vậy, và quan trọng hơn cả là thành phần đối lập đă và đang phát triển đều đặn lại là những người theo chủ nghĩa truyền thống của Dân tộc Trung Đông.   

Thiện Ư - Bolsa 

- Phỏng dịch từ Chương 3 quyển Islam Without Extremes - Muslim Case For Liberty -Mustafa akyol. 

Trở lại