1/
Phần Thống Kê
·
Tổng
số chiều dài của cầu: 1.7 miles = 2,737 m
·
Chiều dài
nhịp treo chính: 4,200 ft = 1,280 m
·
Bề
rộng của cầu: 90 ft = 27 m
·
Bề
rộng để xe chạy: 62 ft = 18.9 m
·
Bề
rộng của lối đi chân: 10 ft = 3 m
·
Khoảng
trống phía trên mực nước b́nh thường:
220 ft = 67 m
·
Nền móng
sâu nhất dưới mực nước b́nh thường:
110 ft = 34 m
·
Tổng
số trọng lượng của cầu, không kể
phần thả neo, các phần vô cầu phía bắc và
phía nam: 419,800 tấn = 380,800,000 kg
·
Chiều cao
của các tháp, cao hơn mặt nước: 746 ft = 227
m
·
Chiều cao
của các tháp, cao hơn mặt đường: 500 ft
= 152 m
·
Mỗi chân
móng: 33 x 54 ft = 10 x 16 m
·
Trọng lượng
của mỗi tháp: 44,400 tấn = 40,200,000 kg
·
Đường
kính của dây cáp chính: 36 3/8 in. = 0.92 m
·
Chiều dài
của một dây cáp chính: 7,650 ft = 2,232 m
·
Tổng
số các sợi dây thép xử dụng: 80,000 miles =
129,000 km
·
Số
sợi nhỏ trong mỗi sợi cáp lớn: 61
·
Trọng lượng
của các sợi cáp chính, phụ và phụ tùng:
24,500 tấn = 22,200,000 kg.
2/
Các Đặc Điểm Của Cây Cầu Vàng.
Cây Cầu Vàng (The Golden Gate Bridge) của
Vịnh Cựu Kim Sơn dài 6,450 ft = 1.22 miles = 1966 mét,
kể từ trụ chống (abutment) phía bắc
tới trụ chống phía nam, không kể các phần
tiếp giáp. Cây cầu này được sơn màu
đỏ cam, một màu sắc tương phản
với màu xanh và màu lục (green) của môi trường
chung quanh, nhưng lại ḥa hợp với các màu nâu
và đỏ của các ngọn đồi ở phía
bắc.
Cây Cầu Vàng có các ngọn tháp cao bằng ṭa nhà 65
tầng, treo bên dưới các ngọn tháp này là
cấu trúc của đường xe cao hơn mặt
nước tương đương với chiều
cao của một ṭa nhà 19 tầng, nhờ vậy con
tầu biển nào to lớn nhất cũng có thể
dễ dàng chạy qua dưới gầm cầu.
Cây Cầu Vàng này rất rực rỡ trong ánh
sáng mặt trời buổi sáng, ẩn khuất trong
lớp sương mù vào những ngày âm u và hiện
rơ các đường nét cân đối, nhịp nhàng
vào buổi hoàng hôn. Đối với các người
dân cư ngụ trong nhiều vùng lân cận, cây
cầu này là người bạn thân thương, quen
thuộc của vùng Vịnh và được coi như
một bức Tượng Tự Do (the Statue of Liberty)
của miền Thái B́nh Dương.
Cây Cầu Vàng (the Golden Gate Bridge) là một trong các cây
cầu treo đẹp nhất và to lớn nhất trên
thế giới. Cây cầu này rất vĩ đại
nếu xét về các tháp cao, các sợi dây cáp
khổng lồ và chiều dài quá mức của các
nhịp cầu. Vào năm 1994, cây Cầu Vàng
được tuyên dương là một trong bẩy
Kỳ Quan của Thế Giới Hiện Đại
(one of Seven Wonders of the Modern World) cùng với Đập
Nước Hoover (the Hoover Dam), Hệ Thống Xa Lộ
Xuyên Liên Bang (the Interstate Highway System), Trung Tâm Không Gian
Kennedy (Kennedy Space Center), Kênh Đào Panama (Panama Canal),
Hệ Thống Ống Dẫn Dầu Xuyên Alaska
(Trans-Alaska Pipeline) và Trung Tâm Thương Mại
Thế Giới (World Trade Center).
Cây Cầu Vàng được đặt tên như
vậy bởi v́ nó nối Eo Biển Vàng (the Golden Gate
Strait), đây là phần biển thu hẹp giữa Thái
B́nh Dương và Vịnh Cựu Kim Sơn (San
Francisco). Eo biển này dài 3 dặm (miles), rộng 1
dặm, sâu 300 ft (90 m), có gịng nước chảy
với tốc độ từ 4.5 tới 7.5 knots, là
cửa ngơ ra biển của các thành phố hải
cảng của vùng Vịnh và của hệ thống sông
ng̣i Sacramento - San Joaquin.
Khởi đầu, eo biển này có lẽ đă
được Sir Francis Drake nh́n thấy vào năm 1579
nhưng thực sự được khám phá vào năm
1769 do nhóm người thám hiểm do Francisco de Ortega
đứng đầu. Vào năm 1775, Juan Manuel de Ayala
đă lái con tầu biển San Carlos đi qua eo
biển này. Đại úy lục quân Mỹ là kỹ
sư địa h́nh John C. Fremont đă gọi eo
biển này vào năm 1846 là “Chrysopylae” hay “Cổng Vàng”(Golden
Gate) bởi v́ ông ta tưởng nhớ tới hải
cảng Bosporus thuộc thành phố Istanbul, Thổ Nhĩ
Kỳ, có tên là “Chrysoceras” hay “Chiếc Sừng Vàng” (Golden
Horn).
3/
Công Tác Xây Dựng.
Ư niệm phải bắc một cây cầu ngang
qua Eo Biển Vàng được một nhà thầu
đường xe lửa tên là Charles Crocker đề
nghị vào năm 1872. Cho măi tới năm 1916, ư
kiến về một câu cầu mới được
khơi lại do ông James C. Wilkins, chủ biên (editor)
của nhật báo San Francisco Call Bulletin. Ông Wilkins
bắt đầu một chương tŕnh vận
động việc xây dựng một cây cầu, công
việc này khiến cho viên kỹ sư của thành
phố San Francisco tên là Michael M. O’Shaughnessy quan tâm. Viên
kỹ sư này bắt đầu việc t́m hỏi
ư kiến của nhiều kỹ sư khác trên toàn nước
Mỹ về khả hữu và phí tổn của
việc xây cây cầu đề nghị.
|
Tượng Joseph Baermann Strauss
|
Vào thời bấy giờ, quan điểm chung
của dân chúng và các nhà kỹ thuật là không
thể bắc một cây cầu to lớn như
vậy. Vài kỹ sư lại cho rằng phí tổn xây
dựng sẽ quá 100 triệu Mỹ kim. Tuy nhiên, ông
Joseph Baermann Strauss là người đă vẽ kiểu
hơn 400 cây cầu trên khắp thế giới,
lại tin tưởng rằng không những cây
cầu này có thể thực hiện được mà
phí tổn chỉ từ 25 tới 30 triệu Mỹ
kim.
Ngày 28/6/1921, kỹ sư Strauss nạp cho ông
O’Shaughnessy một ước tính về phí tổn là
27 triệu Mỹ kim và sau đó trở nên một người
vận động tài chính, chính trị, làm sao cho các
nhân vật chính quyền tin tưởng rằng không
những có thể xây dựng được cây
cầu mà c̣n có cách trả tiền do chính cây cầu
mang lại.
Cũng vào thời gian này, các nhà chức trách địa
phương đă có một ngân khoản hạn
hẹp để cây dựng một cây cầu khác là
Cầu Bay Bridge (the San Francisco-Oakland Bay Bridge), v́ vậy
không thể kiếm được ngân khoản
của Liên Bang hay Tiểu Bang dùng cho Cây Cầu Vàng.
Nhưng dân số tại các vùng chung quanh đă gia tăng,
nạn kẹt xe tại các bến phà trở nên không
thể giải quyết nổi.
Vào năm 1922, ba ông O’Shaughnessy, Strauss và Edward Rainey, viên
bí thư của Thị Trưởng San Francisco, đă
đề nghị thiết lập một “khu vực” đặc
biệt (a special district) để xây dựng Cây
Cầu Vàng. V́ họ cho rằng “khu vực” này
rất cần thiết để giám sát các công tác tài
chính, vẽ kiểu và xây dựng, và mỗi hạt
(county) chung quanh đều có tiếng nói trong các
tiến tŕnh xây dựng.
Sau đó, một buổi họp lịch sử đă
diễn ra vào ngày 13/01/1923 tại hạt Sonoma ở phía
bắc, kêu gọi do ông chủ ngân hàng địa phương
tên là Franklin Doyle. Tại buổi họp này, 21 hạt
(counties) đă cử đại biểu để
tạo nên “Hội Bắc Cầu
qua Vịnh” (the Association of Bridging the Gate).
Hai nhân vật là Dân Biểu Tiểu Bang Frank L. Coombs
của hạt Napa và Biện Lư George H. Harlan, đă
thảo ra một dự luật tạo nên “Khu Vực Cầu” (the
Bridge District) rồi sau đó, đạo luật “Cầu Vàng và Xa Lộ” (the Golden
Gate Bridge and Highway District Act) được Tiểu Bang
California chấp nhận vào ngày 25/5/1923, đă cho phép
các hạt (counties) được quyền mượn
tiền, phát hành trái phiếu (bonds), xây cầu và thu
lệ phí qua cầu (tolls).
Vào ngày 20/12/1924, Bộ Trưởng Chiến Tranh John
W. Weeks đă cấp một giấy phép xây dựng
tạm thời. Vào thời kỳ này, đă có
nhiều chương tŕnh chống đối do các nhóm
người bị thua thiệt v́ quyền lợi,
đặc biệt từ các công ty phà (ferry companies) nhưng
phe ủng hộ đă thắng thế nên vào ngày
4/12/1928, “Khu Vực Cầu Vàng
và Xa Lộ” (the Golden Gate Bridge and Highway
District) đă chính thức được thành lập
để vẽ kiểu, xây dựng và tài trợ cho
Cây Cầu Vàng. Khu Vực này gồm các hạt San
Francisco, Marin, Sonoma, Del Norte và các phần của các
hạt Mendocino và Napa. Hội Đồng Quản
Trị của Khu Vực đă hội họp lần
đầu tiên vào ngày 23/01/1929 và chỉ dịnh các
giám đốc kỹ thuật.
Sau đó, 11 công ty kỹ thuật xây cầu hàng đầu
của Hoa Kỳ đă đệ nạp các dự án
và kỹ sư Joseph B. Strauss được chọn
lựa làm Kỹ Sư Trưởng, với các kỹ
sư tham vấn là Leon S. Moisseiff, O.H. Amman và Charles
Derleth, Jr.
Ngày 11/8/1930, Bộ Chiến Tranh Hoa Kỳ (the War
Department) đă cho phép xây cầu rồi qua ngày
27/8/1930, kỹ sư Strauss nạp dự án cuối cùng
cho Hội Đồng Quản Trị. Qua ngày 4/11/1930, dân
chúng trong vùng đă bỏ 145,697 phiếu thuận
đối lại 47,005 phiếu chống, để
chấp nhận việc phát hành trái phiếu (bonds) $35
triệu Mỹ kim. Đây quả thực là một
việc làm táo bạo trong thời kỳ Đại
Khủng Hoảng Kinh Tế (the Great Depression).
Sang tháng 11 năm 1932, các giao kèo trị giá $23,843,905
Mỹ kim đă được kư kết để
bắt đầu xây dựng cầu vào ngày 5/01/1933.
Trong giai đoạn xây dựng này, kỹ sư Strauss
đă chủ trương các biện pháp an toàn cao
nhất trong lịch sử xây cầu. Nhà sản
xuất các dụng cụ an toàn là Edward W. Bullard đă
phải cung cấp các nón sắt dùng cho công nhân đội
khi làm việc, cùng với các kính đeo mắt an toàn,
không bị lóa sáng. Các loại kem bôi da và bôi mặt
được dùng để chống gió buốt và
nắng cháy, loại thực phẩm đặc
biệt giúp các công nhân không bị chóng mặt khi trèo
cao. Nhưng cách pḥng ngừa quan trọng nhất là
một mạng lưới an toàn treo ở dưới
các nhịp cầu, nhờ vậy đă cứu
sống được 11 mạng người. Trong
suốt quá tŕnh xây dựng, chỉ có một tai
nạn chết người xẩy ra vào ngày 17/2/1937,
trong đó 10 người tử nạn v́ một giàn
giáo gẫy đổ, làm thủng hệ thống lưới
an toàn, kéo theo 12 người rơi qua lưới.
Cây Cầu Vàng được hoàn thành và mở
cửa cho khách bộ hành vào ngày 27/5/1937 rồi ngày hôm
sau bắt đầu các xe cộ qua lại. Tới năm
1971, trái phiếu cuối cùng của món nợ $35
triệu Mỹ kim đă được thanh toán cùng
với $39 triệu Mỹ kim tiền lời, tất
cả do lệ phí qua cầu (tolls) mang lại.
Như vậy, tất cả các công nhân, kỹ sư
và cộng đồng đă mang lại danh tiếng
cho một trong các cây cầu vĩ đại nhất
của thế giới.
4/
Số Lượng Xe Qua Cầu.
Cây Cầu Vàng nằm tại một địa
điểm rất bận rộn, đặc biệt
trong các tháng mùa hè. Người ta ước lượng
rằng mỗi năm hơn 9 triệu du khách trên
thế giới đă thăm viếng cây cầu này.
Trong năm hoạt động đầu tiên 1937, 3.3
triệu xe cộ đă qua lại cầu, rồi con
số này tăng lên 750 %, thành 28.3 triệu xe. Từ năm
1937 tới năm 1967, số xe đă gia tăng trung b́nh
7.4 %. Nạn kẹt xe gia tăng đă khiến cho Khu
Vực Cầu Vàng phải t́m ra nhiều biện pháp
giải tỏa.
Ngày 15/8/1970, dịch vụ phà từ Sausalito tới thành
phố San Francisco được khánh thành và dịch
vụ xe buưt từ các hạt Sonoma và Marin tới San
Francisco bắt đầu vào ngày 3/01/1972. Qua năm 1976
đă có các con phà nối Larkspur thuộc trung tâm
Hạt Marin với thành phố San Francisco. Nhờ các
chương tŕnh di chuyển công cộng này, số lượng
người qua cầu mỗi ngày là 30,000 và xe qua
cầu là 20,000 đă giảm bớt, nhưng dù
vậy, vào năm 1996, số người qua cầu
mỗi ngày là 35,000 cùng với số xe cộ 22,900.
Cây Cầu Vàng vùng Vịnh là một phương
tiện chính nối thành phố San Francisco với các
khu vực ở phía bắc. Dù cho đă có 6 tuyến
đường xe chạy, cây cầu này không thể
mở rộng như các xa lộ trên đất
liền. Trước nạn kẹt xe trầm
trọng, các tuyến đường chuyển hướng
(reversible lanes) đă được bắt đầu
trên cầu vào ngày 29/8/1963 nhờ vậy số
đường xe chạy lên hướng bắc hay
xuống phía nam được điều chỉnh tùy
theo số lượng xe di chuyển, rồi vào ngày
19/10/1968, Cây Cầu Vàng là nơi đầu tiên trên
thế giới chỉ thu tiền phí tổn di
chuyển theo một chiều (one way toll collection). Cách
thu lệ phí này đă tỏ ra hữu hiệu nên
được nhiều cây cầu khác trên thế
giới bắt chước.
Vào ngày 27/5/1987, Cây Cầu Vàng đă kỷ niệm 50
tuổi với 400,000 người tham dự đi
qua cầu, rồi sinh nhật thứ 60 của cây
cầu là ngày 27/5/1997. Xây dựng trên một nền móng
thường xuyên bị động đất,
với sương mù, gió biển, độ muối và
độ ẩm trong gió, Cây Cầu Vàng luôn luôn
được bảo tŕ cẩn thận, cải
tiến mỗi năm để phục vụ hữu
hiệu việc di chuyển của dân chúng trong Vùng
Cựu Kim Sơn.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica
Encyclopedia.
|