Lịch sử tái hiện qua tranh: Nơi bây giờ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có một quá khứ hoàn toàn khác biệt |
Khi
đó, hơn 20 triệu người Mỹ bản
địa phân chia rải rác trong hơn 1.000 dân
tộc, bộ lạc và các nhóm tộc người khác
nhau. Ngày nay, người Mỹ bản địa
chỉ chiếm 1,5% dân số. Phần
lớn lịch sử của họ đă biến
mất, đó là do hệ thống giáo dục
khiếm khuyết về giảng dạy một
lịch sử phong phú và phức tạp của Hoa
Kỳ. Dưới
đây giới thiệu một số thực tế ít
được biết đến về người
Mỹ bản địa, những người cần
phải được đưa vào trong tất
cả các sách lịch sử.
Bản
đồ các bộ lạc người da đỏ Các
bộ lạc Vào
tháng Giêng năm 2016, 566 bộ lạc người
Mỹ bản địa được Cục
quản lư người da đỏ chính thức công
nhận.
Trước
khi người châu Âu đến, ở đây có hơn
1.000 bộ lạc, nhóm bộ tộc hoặc gia
tộc, nhưng tiếc là một số bộ lạc
đă hoàn toàn biến mất do hậu quả của
dịch bệnh hoặc chiến tranh. Ngày
nay người ta không thể t́m thấy bất
kỳ một bản đồ lịch sử chính xác
nào chỉ ra vị trí các bộ lạc người
Mỹ bản địa ở Bắc Mỹ trong
một giai đoạn nhất định.
Sau
khi tiếp xúc với người châu Âu, t́nh h́nh
đă thay đổi liên tục, với một giao
tiếp đă xảy ra ở những thời điểm
khác nhau và ở các vùng khác nhau. Từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX dân số
người Mỹ bản địa đă giảm
mạnh, từ khoảng 20 triệu người
xuống c̣n 250.000 người. Ngày này, có khoảng
2,9 triệu người Mỹ bản địa ở
Bắc Mỹ. Năm
2000, các nhóm dân số bản địa lớn
nhất ở Mỹ là Navajo, Choctaw, Sioux, Chippewa,
Apache, Blackfeet, Iroquois và Pueblo.
Bản
đồ các nền văn hóa bản địa
của thổ dân châu Mỹ. Các
khu vực
Các
bộ lạc của người Mỹ bản địa
nói chung được chia thành
tám khu vực riêng
biệt,
trong các khu vực đó, các bộ lạc có
một số điểm tương đồng
về văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, truyền
thống và chính sách. Ở
bờ biển Tây Bắc, người Mỹ bản
địa không cần phải trồng trọt
bởi các loại cây ăn được và động
vật rất phong phú trên đất liền và trên
biển.
Họ được biết đến
với các cột totem, ca nô có thể chứa đến
50 người, và nhà cửa làm bằng ván tuyết tùng.
Ở
California – Hơn 100 bộ lạc đă từng
sống ở đây. Họ đánh bắt cá, săn
bắn các con thú nhỏ và lượm những
quả sồi, đập ra nghiền nát để dùng. Cao
nguyên – Người Mỹ bản địa ở
đây sống trong khu vực giữa dăy Cascade và núi
Rocky. Để giữ ấm,
một phần ngôi nhà
được xây ngầm dưới đất.
Ở
The Great Basin – Trải dài qua Nevada, Utah và Colorado, người
Mỹ bản địa ở Great Basin phải
chịu đựng một khí hậu lạnh và khô,
họ phải đào bới nhiều để t́m
thức ăn. Họ là một trong những bộ
tộc cuối cùng tiếp xúc với người
châu Âu.
Khu
vực Tây Nam –
Những người Mỹ bản
địa ở đây xây nhà bằng gạch không
nung.
Nhiều người của các bộ lạc này
là những nhà nông lành nghề, họ trồng cây và
tạo ra các kênh mương thủy lợi.
Những bộ lạc nổi tiếng trong khu vực là
Navajo, Apache, và người da đỏ Pueblo.
Vùng
Plaines – Người da đỏ ở Grande Plaines
sống bằng săn bắt ḅ rừng, trâu và linh dương,
đây là nguồn thức ăn dồi dào của
họ. Họ là những người du mục
sống trong lều và di chuyển liên tục theo
đàn gia súc. Vùng
Đông Nam – Đa số các bộ lạc người
Mỹ bản địa trong khu vực là nông dân lành
nghề và thường ở một nơi. Bộ
lạc lớn nhất là người
Cherokee,
sống
ở khu vực Đông Nam.
Ngôn
ngữ Người
ta ước tính đă có gần
1.000 ngôn ngữ
được nói ở châu Mỹ trước khi người
châu Âu xuất hiện.
Ngày
này, c̣n khoảng 296 ngôn ngữ bản địa trên
khắp Bắc Mỹ; 296 ngôn ngữ được
phân thành 29 nhóm, 28 ngôn ngữ c̣n lại là cô lập
hoặc không được phân loại.
Không
có ngôn ngữ bản địa nào của Bắc
Mỹ có hệ thống chữ viết.
Tuy nhiên, ngôn
ngữ không nguyên thủy cũng không đơn
giản. Nhiều ngôn ngữ có hệ thống ngữ
pháp phức tạp như tiếng Nga và tiếng Latin. Ngôn
ngữ bản địa có một sự đa
dạng rất lớn.
Những người thuộc các
ḍng họ hay bộ lạc xa đến 150 km có
thể hoàn toàn không có khả năng giao tiếp
bằng lời.
Các bộ lạc sống gần nhau thường
sử dụng một loại ngôn ngữ kư hiệu để
trao đổi với nhau.
Một
số bộ tộc chỉ có thể sử dụng ngôn
ngữ kư hiệu Theo
UNESCO, hầu hết các ngôn ngữ bản địa
của Bắc Mỹ đang dần biến mất, và
nhiều ngôn ngữ đă không c̣n xuất hiện. Tại
Mỹ, tiếng Navajo là ngôn ngữ bản địa
được nói nhiều nhất, với hơn
200.000 người ở phía Nam-Tây đất nước
Bản
đồ ngôn ngữ của người Mỹ
bản địa. Chỉ
có 8 ngôn ngữ của người Mỹ bản
địa ở Mỹ có một lượng đáng
kể người nói để h́nh thành một thành
phố cỡ trung b́nh. Đó là ngôn ngữ
Navajo, dree,
Ojibwa, Cherokee, Dakota, Apache, Blackfoot và Choctaw. Người ta ước tính có gần 20 ngôn ngữ của người Mỹ bản địa đă tồn tại 100 năm. *** Những
câu nói đầy trí tuệ của thổ dân da đỏ,
mấy trăm năm trôi qua vẫn càng thấm thía
Người
thổ dân da đỏ thực sự kết nối và
ḥa hợp với Đất Mẹ, thường
được xem như những người bảo
vệ Trái Đất. Họ truyền dạy “bước
khoan thai trên mặt đất, sống cân bằng và
hài ḥa”. Người
da đỏ là cộng đồng người dân
bản địa sống tại Hoa Kỳ từ hàng
ngh́n thậm chí hàng triệu năm trước.
Họ là những người dân du mục được
cho là đến từ châu Á khoảng hơn 12.000 năm
trước đây, thông qua “cầu nối” là vùng
đất Alaska hiện nay. Hiện nay, trên lănh
thổ Mỹ, dân tộc da đỏ chỉ c̣n
khoảng 1%. Họ sống ở những vùng có điều
kiện tự nhiên rất khó khăn như vùng núi
cao, khô hạn ở phía Tây. Văn
hóa của người da đỏ có lịch sử
đến hàng trăm năm và được phát
triển cùng với thiên nhiên. Mọi yếu tố
trong cuộc sống của họ đều được
dựa trên sự phát triển của Trái đất. Các
bộ tộc người da đỏ tôn thờ linh
hồn của các loài động vật như
những vị thần. Những người da đỏ
tin rằng, linh hồn các loài động vật
sẽ sống măi cùng linh hồn bộ lạc. Trong
nền văn hoá của người Mỹ bản
địa, người ta tin rằng mỗi người
đều mang linh hồn của một loài động
vật nhất định. Khi họ chết đi,
linh hồn của họ sẽ sống trong con vật
đó.
Sống
bằng săn bắt và hái lượm đơn
thuần, những người dân da đỏ rất
tôn trọng tự nhiên. Họ coi thiên nhiên là một
món quà của thượng đế và luôn quan
niệm rằng, cần phải tôn kính và quư
trọng thiên nhiên. Cuộc
sống của họ thường xoay quanh gia đ́nh.
Họ sống một cuộc sống hài ḥa, yên b́nh
cẩn thận, hạn chế tối đa việc
đổ chất thải ra môi trường. Ngày
nay, một số bộ tộc người da đỏ
vẫn c̣n sinh sống ở một số vùng nhất
định của Mỹ. Dù số lượng không
nhiều nhưng những người dân da đỏ
vẫn mang trên ḿnh niềm tự hào về nguồn
gốc và sức sống của bộ tộc ḿnh. Người
thổ dân da đỏ thực sự kết nối và
ḥa hợp với Đất Mẹ, thường
được xem như những người bảo
vệ Trái Đất. Họ truyền dạy “bước
khoan thai trên mặt đất, sống cân bằng và
hài ḥa”. Họ
lưu giữ nền văn minh của ḿnh bằng cách
chạm khắc trên đá hay truyền miệng. Tuy
hầu hết châm ngôn của họ đă thất
lạc, một số vẫn được ǵn
giữ đến ngày nay. Dưới
đây là những thông điệp ư nghĩa, sâu
sắc của người da đỏ giúp chúng ta
hiểu thêm nhân sinh quan và thêm trân quư hơn thế
giới tự nhiên này: “Hăy
đối xử tử tế hơn với Trái Đất.
Cha mẹ chúng ta không mang Trái Đất đến cho
chúng ta, mà chúng ta đang vay nợ Trái Đất
từ chính con cháu của ḿnh. Chúng ta không thừa
kế Trái Đất từ tổ tiên, mà chúng ta vay mượn
nó từ thế hệ kế tiếp chúng ta” –
Ngạn ngữ của người da đỏ. “Chỉ
mang theo kỉ niệm, chỉ để lại dấu
chân” – Trưởng tộc Seattle (1862) “Một
ngón tay không thể nào nâng nổi ḥn đá
cuội” – Bộ lạc Hopi “Cái
chết không tồn tại, chỉ có sự luân
chuyển giữa các thế giới” –
Bộ lạc Duwamish “Thiếu
trung thực là một vấn đề nghiêm trọng
hơn cả nghèo khó” –
Bộ lạc Anishinabe “Bạn
không thể đánh thức một người mà
bản thân họ chỉ vờ như đang
ngủ” –
Bộ lạc Navajo “Khi
con người rời xa khỏi thiên nhiên, trái tim
họ sẽ trở nên khô cằn”
– Bộ lạc Lakota “Bạn
vốn đă sở hữu tất cả mọi
thứ cần thiết để trở nên vĩ
đại”
– Bộ tộc da đỏ “Đừng
vội vàng đánh giá hàng xóm của bạn chừng
nào bạn chưa đi bằng đôi giày của
họ suốt 2 con trăng” –
Bộ lạc Cheyenne “Không
c̣n hữu hiệu nữa khi chỉ biết khóc v́ ḥa
b́nh, chúng ta phải hành động, sống ḥa b́nh và
sống trong ḥa b́nh” – Ngạn ngữ của người da đỏ “Tôi
tin rằng nếu chúng ta mở rộng trái tim ḿnh hơn
th́ sẽ đỡ đi rất nhiều phiền
muộn và máu đổ”
– Trưởng tộc Joseph “Một
người sẽ ngă xuống ḍng sông nếu một
chân đặt trên ca nô, một chân trên chiếc
thuyền” –
Bộ tộc Tuscarora “Vào
giây phút ra đi, đừng để trái tim ḿnh
ngập tràn nỗi sợ hăi, khóc than và cầu
nguyện giá như được ban tặng một
cuộc đời nữa để sống khác đi.
Mà hăy hát bài ca chào cái chết, và ra đi giống như
một người hùng quay trở về cố hương”
– Tộc trưởng Aupumut, bộ lạc Mohican (1725)
“Một
lần khi đang ở Victoria, tôi nh́n thấy một
ngôi nhà rất lớn. Họ nói với tôi rằng
đó là ngân hàng nơi người da trắng
cất giữ tiền của họ; khi lấy lại
tiền sẽ kèm theo lăi suất. Những người
Ấn Độ chúng tôi không có ngân hàng như
vậy. Nếu chúng tôi có tiền hay chăn màn, chúng
tôi mang chúng cho những bộ tộc khác, và dần
dần họ sẽ trả lại kèm theo lăi. Và lăi
suất mà chúng tôi nhận được là cảm
giác hạnh phúc trong tâm. Cách cho đi chính là ngân hàng
của chúng tôi”
– Tộc trưởng Maquinna, bộ lạc Nootka
(1786-1817). “Bạn
thấy người da đỏ làm mọi việc
trong một ṿng tṛn, v́ họ cho rằng sức
mạnh của thế giới luôn luân chuyển.
Mọi thứ đều cố gắng trở nên tṛn
trịa: bầu trời, trái đất và tất
cả các v́ sao. Cơn gió mạnh mẽ nhất là
khi cuộn lốc. Chim cũng làm tổ h́nh tṛn
bởi chúng cũng giống như chúng ta… Các mùa
trong năm thay đổi theo một chu ḱ vĩ đại.
Và cuộc đời mỗi người là một ṿng
tuần hoàn của những thời thơ ấu. Nơi
nào có sự vận chuyển của năng lượng,
nơi ấy có sự hiện diện của một ṿng
tṛn” – Black
Elk Oglala, bộ tộc Lakota (1863 – 1950) “Nơi
nào mà những cánh rừng không bị chặt phá, nơi
nào mà động vật được yên ổn an
toàn, nơi nào mà trái đất không bị cải
tạo phục vụ loài người th́ người
da trắng cho đó là ‘hoang dă nguyên vẹn’. Nhưng
với chúng tôi, không có sự hoang dă nào, thiên nhiên
không nguy hại mà hiếu khách, không kinh khủng mà
thân thiện. Niềm tin của chúng tôi t́m cầu
sự đồng điệu giữa con người và
môi trường; nhưng họ nỗ lực thống
trị thiên nhiên. Với chúng tôi, thế giới tràn
ngập vẻ đẹp; với họ, trái đất
chỉ là một nơi để sinh tồn cho đến
khi họ sang thế giới bên kia. Nhưng chúng tôi
đă đúng. Chúng tôi hiểu rằng, trái tim
của con người nếu rời xa thiên nhiên
sẽ trở nên khô cằn” –
Trưởng tộc Luther Standing Bear (1868-1939).
“Kết
thân với muôn loài trên trái đất là một nguyên
tắc thực tiễn và chủ động. Trong
thế giới của động vật và chim chóc
tồn tại một cảm giác thân quen khiến chúng
ta thấy an toàn… Muông thú có quyền được
bảo vệ, được sống, được
sinh sản, tự do, và được con người
biết ơn. Chúng ta sẽ trải nghiệm nhiều
niềm vui và sự huyền diệu khi nh́n nhận
cuộc đời theo cách này; nó khiến chúng ta tôn
kính mọi sinh mệnh, khiến chúng ta coi sự
tồn tại của mọi loài là b́nh đẳng”
– Trưởng tộc Luther Standing Bear (1868-1939). “Trước
khi những người anh em da trắng đến
đây và khiến chúng tôi trở thành những công dân
được khai sáng, chúng tôi không có bất kỳ
nhà tù nào, v́ thế, chúng tôi không phạm tội. Chúng
tôi không cần khóa cửa, và không xảy ra trộm
cắp. Khi một ai đó nghèo tới mức không
thể mua một con ngựa, cái lều hay một
tấm chăn, anh ta có thể nhận tất cả
những thứ này như một món quà. Chúng tôi
đă quá ‘không văn minh’ khi coi nhẹ tài sản
cá nhân. Chúng tôi không cần tiền tệ do vậy
giá trị của một người không được
đo đếm bằng số lượng tài sản
anh ta có. Chúng tôi không có luật pháp chi phối, không
luật sư, không nhà chính trị nên chúng tôi không
lừa gạt và gian lận. Chúng tôi ở trong
một t́nh cảnh thật ‘tồi tệ’ trước
khi người da trắng đến. Và tôi không
biết giải thích thế nào khi chúng tôi đă có
thể sống mà không cần những điều
họ cho là thiết yếu với một xă hội văn
minh” – John
Fire Lame Deer (1903-1976) “Hỡi
Linh hồn Vĩ đại, hăy giúp tôi luôn thanh
thản khi nói lên sự thật, để có thể
lắng nghe người khác với tâm hồn rộng
mở, và để nhớ được rằng ḥa
b́nh chỉ có thể t́m thấy trong sự tĩnh
lặng“,
lời cầu nguyện của người Cherokee. Có
nhiều người cho rằng thổ dân hay người
dân tộc là tập hợp những người
lạc hậu. Tuy nhiên, những câu nói đầy trí
tuệ của tộc người bị cho là lạc
hậu này lại đang dần ngày càng trở nên
thiết thực hơn trong việc cứu văn hậu
quả của lối sống hiện đại ngày
nay. Theo The Spirit Science |