HÀNH
TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG Người đạo
sĩ thành Benares |
Chương
2 Người đạo sĩ thành
Benares Thành phố
Benares là một nơi có nhiều di tích lịch
sử và có rất nhiều tu sĩ. Bất
cứ một người Âu Mỹ nào đến
đây cũng ngạc nhiên về thành phố
dân cư đông đúc, nhà cửa san sát và khắp
nơi nhan nhản những đền thờ, lăng
tẩm đồ sộ. Có những ngôi đền trông
th́ thật cổ kính, trang nghiêm nhưng
khi bước vào trong bạn sẽ thấy ǵ ?
Một số tín đồ hành lễ ngây
ngô vừa cầu nguyện, vừa rung một cái chuông
nhỏ để lời cầu xin của
họ thấu đến tai các vị thần. Một
số khá đông đạo sĩ ngồi trong
các tư thế du già (yoga)
cực kỳ lạ lùng, khó tập luyện để tín
đồ đến bỏ tiền vào trong bát
nhỏ bầy trước mặt họ. Chúng
tôi có cảm tưởng như họ làm
xiếc biễu diễn kiếm ăn hơn là thực
hành một pháp môn tu hành chân chánh. Trong khi mọi người trong phái
đoàn đang quay phim những đạo sĩ ngồi
trên bàn đinh, các đền thờ to lớn, th́ giáo
sư Spalding thong thả đi dạo ngoài
bờ sông. Ông nh́n thấy một đạo sĩ vóc
người lực lưỡng đang đi gần
đó. Như có một mănh lực vô h́nh nào đó thúc
đẩy, Spalding muốn vượt lên để nh́n
cho rơ, ông bèn rẽ qua một lùm cây rậm rạp,
để bắt cho kịp vị đạo sĩ
nọ. Vừa đi
được vài bước, ông đă giựt ḿnh v́
gặp một con rắn hổ mang to lớn chận
lối. Rắn hổ là một loại rắn
cực độc, hàng năm có hàng ngàn người
bị rắn cắn chết, v́ ở xứ Ấn
giống rắn này có nhiều vô kể, xuất
hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng
nan, chưa biết phải làm ǵ th́ con rắn đă
trườn tới ngẩng cao cổ phun ph́ ph́. Bất ngờ, vị đạo sĩ
ở đâu đi đến, ông chẳng nói ǵ
chỉ bước thẳng vào giữa con rắn và giáo
sư Spalding. Vị đạo sĩ dơ tay
vuốt nhẹ, con rắn từ từ ḅ vào trong bụi
rậm, mất hút trước sự ngạc nhiên của
giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm
cười thong thả tuyên bố : - Cái phàm ngă
hữu h́nh, hữu hoại không thể làm
việc này mà đó là cái Chân Ngă thâm
diệu, cái mà ta gọi là thượng đế ngự
trong tôi và muôn loài đă khiến con rắn bỏ
đi, khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngă bên
ngoài để cho cái Chân Ngă tự biểu
lộ, và hành động th́ không chuyện ǵ có
thể xảy ra nữa. Bằng cách phát triển toàn vẹn t́nh thương và bác
ái của thượng đế cho nó xuyên
qua ḿnh và ban rải cho muôn loài ta sẽ cảm hoá
được các thú dữ. Khi ông vừa gặp
con rắn, một tư tưởng sợ hăi phát
ra, và tôi đă nhận được tư tưởng này; ngoài
ra h́nh như ông có ư muốn gặp tôi ? Giáo sư Spalding ấp úng : - Chúng tôi đang suy tầm các hiện
tượng huyền bí Á châu – thú thật là
tôi đang cảm thấy hoang mang và thất
vọng về những điều nh́n thấy ngoài
chợ nhưng khi vừa nh́n thấy ông, tôi linh
cảm có một sự ǵ khác thường - - H́nh như
có một mănh lực vô h́nh nào xui khiến. Đạo sĩ chăm chú nh́n giáo
sư rồi ra dấu cho ông này ngồi xuống bên
gốc cây cổ thụ gần đó. Đạo
sĩ lên tiếng : - Sáng nay trong cơn thiền
định, tôi nhận được một thông
điệp về các ông, do đó tôi mới
rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các
ông muốn t́m hiểu về phép tu Du Già
(Yoga)? Đáng lư không bao giờ tôi tiết
lộ điều này, nhưng tôi đă nhận thông
điệp phải giúp đỡ các ông vậy
th́ ông cứ hỏi, tôi sẽ cố gắng
trả lời tùy theo sự hiểu của ḿnh. - Xin ông cho chúng tôi được
biết về khoa Du Già (Yoga). Đạo sĩ yên lặng trong
chốc lát và lên tiếng : - Không ai biết rơ pháp môn Du Già (Yoga)
bắt đầu từ lúc nào trong lịch
sử. Kinh sách Ấn độ giáo (Hinduism) nói
rằng thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền
triết Gherandạ Nhà hiền triết dạy
lại cho các đệ tử của ông nhưng
chỉ có Marteyanda là lănh hội được
các tinh túy và phổ biến trong
giới trí thức thời đó. Du Già (Yoga) là một khoa học bao
gồm nhiều thứ từ : thiên văn,
địa lư, triết học, toán học, v..v.. Pháp
môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn
bộ Yogạ Theo lời sư phụ tôi
th́ trong thời cực thịnh, Yoga phát triển
khắp nơi và lôi cuốn giới hiền triết, trí
thức rất đông. Theo thời gian,
thời hoàng kim đă qua, nhân loại đă
sa vào hố thẳm của sa đoạ vật
chất, bị lôi cuốn vào các cám
dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá
sản tâm linh này, các hiền triết đă
hội thảo để t́m một giải pháp.
Sau cùng họ đi đến kết luận là cho
phép truyền dạy một phần của môn Yoga
cho quần chúng, nhằm đem lại một giải
pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được
truyền dạy này trích ở chương Yuj (cái ách)
gồm các phương pháp trói buộc tinh
thần lẫn thể xác trong một kỷ
luật khắc khe để đạt mục
đích tập trung Tâm và Thân làm một
với bản thể trời đất. Từ đó phần này được truyền bá khắp
nơi và tồn tại đến ngày nay. V́ trích ở chương Yuj, nên nó
được gọi là Yogạ Nên nhớ đây
chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga
nguyên thuỷ, vậy mà phần nhỏ này cũng
chỉ rất ít người hiểu rơ một
cách đứng đắn. Đa số đă
hiểu sai nên mới có các lối tập luyện
kỳ dị, các lối tu khổ hạnh điên
rồ, các tư thế lố bịch. Như các
ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn
đinh, dơ cánh tay lên trời cho đến khi
nó khô liệt. Sự luyện tập như thế không
có ích ǵ mà cũng chả mang lại một kết
quả ǵ. Đó là những kẻ làm hoen ố danh
dự một môn khoa học như Yogạ Đối
với đa số, Yoga đă bị hạ
thấp xuống thành một môn thể dục để thân
thể khoẻ mạnh cường tráng. Tuy thế, nếu luyện thế đúng
cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả
tốt cho thể xác. Nhưng các đạo sĩ
(Yogi) lại khác, họ biết rằng luyện
tập môn này sẽ giúp họ khám phá các năng
lực tiềm tàng, mầu nhiệm, giúp
họ đạt các phép thần thông biến hoá. Để luyện ư chí, họ
tập trung năng lực vào các việc như hành
xác, bắt nó chịu các thử thách cực
độ như phơi nắng, dầm sương,
ngồi trên than hồng, đứng bằng tay, tréo chân
lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm
xiên vào da thịt, v..v… Để chứng minh quyền năng ư
chí, họ đem tṛ này ra biễu diễn cho quần
chúng để t́m cách vừa kiếm
tiền, vừa hưởng sự kính trọng của
đám dân chúng khờ khạo. Mục đích của Yoga đâu
phải làm tṛ lạ mắt cho người đời
kính phục. Giáo sư Spalding ngắt lời : - Nhưng ta có nên trách họ không ?
Nếu các đạo sĩ chân tu dấu kín
các phép tu chân truyền th́ sự hiểu
lầm làm sao tránh khỏi. Đạo sĩ mỉm cười thong
thả giải thích : - Một ông vua có khi nào phơi bày
ngọc ngà, châu báu cho mọi người coi
chơi. Ông ta cất dấu cẩn thận có
phải thế chăng? Pháp môn Yoga c̣n ǵ quư
bằng nên người tu chân chính không khi nào
đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thành tâm muốn học
hỏi phải ra công t́m kiếm và đó
là phương pháp duy nhất. Một danh sư không
cần quảng cáo rầm rộ v́ không
cần các đệ tử xúm vào xưng
tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ
tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo
lư bí truyền khi người đệ
tử tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí
mật v́ cách luyện tập rất nguy hiểm
đối với người non kém, chưa đủ
khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải tṛ chơi
tầm thường. Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng
tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm việc chủ
trị xác thân trước khi chủ trị tinh
thần. Lúc
đầu ta phải luyện tập bắp
thịt và bộ máy hô hấp cho thật thuần
thục, sau đó mới đi vào thần kinh,
năo tuỷ. Nếu tập đúng cách, sức khoẻ
sẽ tăng cường, sống lâu và có ư
chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập
môn, nó đ̣i hỏi ít nhất từ một
đến bốn năm mới đáng kể. Thân
thể có cường tráng, tinh thần có dũng
mănh mới có thể tiếp tục bước
vào giai đoạn kế tiếp. Giáo sư Spalding gật gù : - Như thế môn này khác phương
pháp thể dục của người Âu
Mỹ thế nào ? Chúng tôi cũng có các cách
khiến thân thể khoẻ mạnh. Đạo sĩ bật cười
lớn : - Người Âu Mỹ biết cách
làm thân thể nẩy nở trên bộ da,
bắp thịt, làm sao so với lối luyện
tập của người Á châu, vốn chú trọng
từ bên trong ra đến bên ngoài. Trước
hết có bốn cách thức căn bản : Nghỉ
ngơi làm xoa dịu thần kinh, cân năo. Tĩnh
toa. để tập trung ư chí. Điều
tức để tẩy uế thân thể,
khu trục các chất cặn bă, và Khí
công để kiểm soát hơi
thở. Hăy lấy một thí dụ giản
dị như việc nghỉ ngơi, hăy quan sát con
mèo khi nó nằm yên hay ŕnh bên lỗ chuột. Con mèo
biết cách dưỡng sức, bảo tồn sinh
lực không hao phí chút nào. Mọi cử động tư
thế là cả một sự suy nghĩ, kiểm
soát để thoải mái tối đạ
Người Âu các ông tưởng ḿnh biết
nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết
ǵ cả. Các ông ngồi trên ghế một lúc
rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi th́ tréo chân, lúc
lại dang tay, coi th́ thoải mái nhưng trí óc
các ông hoạt động liên miên từ
việc này đến việc nọ. Như thế
chỉ là hoạt động ầm thầm
chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật
biết cách dưỡng sức bởi v́ chúng có bản
năng d́u dắt mà bản năng là
tiếng nói tự nhiên. Loài người được
hướng dẫn bằng lư trí, nhưng thay v́ làm chủ
lư trí, họ đă không kiểm soát được
bộ Óc của họ, nên hậu quả là
cả hệ thống thần kinh thể xác
thể đều bị ảnh hưởng.
Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như
không có. Giáo sư
Spalding thở dài thú nhận : - Đó là điều chúng tôi không
bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông có
thể nói rơ hơn về khái niệm sơ đẳng môn Hatha Yoga không ? - Tôi chỉ có thể nói một vài tư
thế giúp con người tăng cường sức
khoẻ thôi. Có hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có
thể tập luyện để tăng cường sinh
lực. Các tư thế này có ảnh hưởng đến
một số bí huyệt khiến nó tác động lên
các cơ quan suy yếu, giúp nó hoạt
động trở lại mạnh mẽ hơn.
Khoa học Tây phương đă chứng
minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân
thể con người c̣n có hàng triệu các
vi ti mạch chạy khắp nơi để đưa
dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một cơ quan hay
bắp thịt ít hoạt động hay suy
yếu, th́ số lượng các vi ti mạch
(capillaries) cũng giảm bớt đi. Tập
thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu
nhỏ này gia tăng hoạt động,
khiến cơ quan phục hồi. Cũng như
thế, tập các tư thế Yoga sẽ làm luồng
hoa? hầu (Prana) lưu chuyển, kích động các cơ
quan từ trong khiến nó hoạt động nhưng
tập Yoga làm nó hoạt động đúng
với hiệu năng sẵn có. Do đó, nó
mang lại nhiều hiệu quả thần
diệu hơn. Con người không có lo ǵ
bệnh tật nữa, nếu có bệnh cũng
sẽ khỏi hoàn toàn. Giáo sư Spalding lắc đầu : - Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp
nhận việc tập Yoga chữa được
hết bệnh tật. Đạo sĩ mỉm cười : - Một thân thể khoẻ
mạnh, cường tráng làm sao có thể
bị bệnh được ? Bệnh tật là do
sự mất quân b́nhtrong cơ thể. Người Âu
Mỹ các ông chỉ biết hoạt động chứ
đâu biết nghỉ ngơi, thế đă là lư
do gây nên các bệnh thần kinh rồi. - Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập
luyện ra sao ? Đạo sĩ thong thả giải
thích : - Việc đầu tiên là phải
ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế,
nhất là các ghế bành êm ái rất có
hại cho xương sống, con đường vận
hành chính của luồng hoả hầu (Prana), và là nguyên
nhân gây nên các chứng đau lưng, bại
xuội, phong thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ,
chỉ cần ngồi xếp bằng dưới
đất, không dựa vào đâu, không nghiêng
ngả bên nào, giữ cở thể thật thăng
bằng, xương sống phải thật thẳng và
thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài
phút nhưng sau đó sẽ lại thở loạn
xạ ngaỵ Đó là v́ bộ Óc quen hoạt
động, quen náo nhiệt. Hăy giữ cho ḷng yên tĩnh, vắng
lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ
vẩn. Lúc đầu chưa
quen chủ trị tư tưởng th́ hăy nghĩ
đến một cái ǵ đẹp đẽ,
mỹ lệ như bông hoa, gịng suối. Đó là bước
đầu cho việc nghĩ ngơi. Giáo sư Spalding buột miệng : - Như thế đâu có ǵ khó khăn lắm. Đạo sĩ bật cười : - Nghỉ ngơi cần ǵ phải khó khăn, phiền
phức. Khi giữ được xương sống
thẳng và thở hít đều đặn, th́
luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ
thể và từ đó sẽ điều chỉnh các
chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách
thứ hai là nẳm ngửa trên mặt đất, chân
duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai
tay buông xuôi bên thân ḿnh, mắt nhắm lại để
sức nặng toàn thân phân phối đều
trên sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn
chứ không phải trên giường, nhất là giường
nệm, v́ giường mềm mại khiến thân
thể lệch lạc không đều. Hăy nằm
cho thoải mái, không nên cố gắng thái
quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy
nghĩ hay mong mỏi điều ǵ. Tư
thế này sẽ xoa dịu bộ thần kinh
khiến nó lấy lại trạng thái quân
b́nh. Nên nhớ nền tảng chính của
Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng
sức chứ không phải hành xác với các
tư thế vặn vẹo kỳ cục. - Nhưng Yoga có các tư thế đó cơ mà ? - Vấn đề đứng
ngồi với một tư thế đặc
biệt trong một khoảng thời gian không
quan trọng, nhưng sự tập trung ư chí để thi
hành tư thế đó một cách đứng
đắn sẽ thúc đẩy các mănh
lực tiềm tàng trong cơ thể con người.
Những mănh lực này là bí mật của thiên
nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện
tập phải kèm theo một phương pháp thở
(Khí công). Tư thế giúp con người chủ
trị giác quan, hơi thở giúp con người mở
cửa vào thế giới tinh thần. Nên
nhớ tinh thần và thể xác luôn đi song
đôi. Không thể có một tinh thần bạc
nhược trong một thể xác tráng
kiện, hay tinh thần minh mẫn trong một
thể xác bệnh hoạn. Trong giai đoạn
cao của Hatha Yoga, th́ hành giả sẽ
phải tham thiền nhập định rất
lâu, thế ngồi của thể xác là điều
quan trọng v́ nó giúp sự tập trung tư tưởng được
dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng
cường ư chí…. - Nhưng tôi vẫn thắc mắc
về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân
h́nh của Yoga như chổng ngược đầu,
vắt chân lên cổ. - Bạn nên
nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần
kinh rải rác nhiều chỗ trong cơ thể. Mọi tư thế có công
dụng riêng, ảnh hưởng đến
một bí huyệt nhất định. Nhờ kích
động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh
hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng
như hoạt động trí năo. Các tư
thế lạ lùng chỉ dùng để kích động
các bí huyệt mà thôi. Ngoài ra không c̣n ǵ khác nữa. Bạn phải
nhớ kỹ rằng ngoài các tư thế c̣n có phương
pháp khí công nữa, chứ không phải
chỉ vận động các bắp thịt thôi.
Người Tây phương tập thể thao, vận
động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức
lực để làm nẩy nở bắp thịt.
Người Á châu tin rằng chính cái sức
mạnh ở trong mới điều khiển và chỉ
huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương
pháp chổng ngược chân lên trời (trồng
cây chuối) là lố bịch ư? Tư
thế này dồn máu xuống bộ Óc do trọng lượng
của nó. B́nh thường máu được
đưa lên óc do sức vận động của
tim. Sự khác biệt ở chỗ để máu tự
nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân năo
rất có lợi cho ai làm việc nhiều bắng trí
óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố
gắng để đưa máu lên óc. Nhờ tim
được nghỉ mà tránh được các
chứng đau tim. Khi thực hành các tư thế
này phải cẩn thận, làm chậm răi, từ
từ, có ư thức, giữ vững tư thế
trong một thời gian, không nên cố gắng thái
quá. Nên nhớ ch́a khoá là ở sự nghỉ ngơi thong
thả, chứ không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân
thể tự động điều hoà trong
sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các
lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt
của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt cơ
thể nẩy nở, nhưng thân thể náo
động, có hại cho thần kinh. Giáo sư
Spalding im lặng không thốt nên
lời nào, tất cả những ǵ người đạo
sĩ này nói ra đều hợp lư, rất
khoa học, không hề có tính chất mê tín
dị đoan như ông đă nghe các tu sĩ khác thần
thánh hoá. Một người Âu trung b́nh vốn coi
rẻ dân tộc Á châu như loại người
chậm tiến, di sản một miền nóng
bức, thiếu ăn, chắc phải ngạc nhiên khi
thấy từ thời xưa người
Ấn đă được giáo dục một
cách tập thể dục tối tân, tinh
vi, và khoa học như thế. Đạo sĩ Ấn nh́n ông mỉm
cười như đoán được ư nghĩ : - Yoga là khoa học của vũ
trụ, nó không những chỉ áp dụng riêng
đối với dân Á châu, mà là khắp nơi. Tôi
không thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù
sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt
đẹp. Tôi giúp ông bạn một ch́a khoá bí
truyền này. Luật thiên nhiên định
rằng trung b́nh con người thở với
số nhịp là 21.600 lần mỗi ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp
điệu nói trên và thu ngắn sự sống.
Sự hô hấp chậm răi, kéo dài, đều
đặn là tiết kiệm sinh lực và
kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí
công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích
tụ lại thành một số dự trữ giúp
ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có
chất kích thích hay hút thuốc làm cho hơi
thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng
khí vào phổi , tất nhiên làm ta giảm thọ nhanh.
Có lẽ ông bạn c̣n nghi ngờ ? Khoa Yoga ư
thức rất rơ sự liên quan chặt
chẽ giữa cơ quan hô hấp và tuần
hoàn. Cả hai cơ quan này liên hệ mật
thiết với hệ thần kinh. Bộ thần
kinh là ch́a khoá vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi
thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi
thở chỉ là sự biểu lộ trên
địa hạt vật chất của
một sức mạnh tế nhị hơn. Sức
mạnh này mới là cột trụ sinh
hoạt xác thể, và chính cái sức mạnh vô
h́nh, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể chúng ta mới
thực sự điều khiển đời
sống. Khi nó rời xác thân th́ hơi thở ngừng
lại và sự chết đến. Sự kiểm
soát hơi thở giúp ta làm chủ một
phần nào luồng sinh lực vô h́nh này. Khi
sự chủ trị thân xác được thực
hiện đến mức cao siêu, con người sẽ kiểm
soát được sự vận động các cơ
quan trong thân thể như tim, gan ,bao tử,
phổi….. - Làm sao có thể được, tim ngừng đập
là chết rồi c̣n ǵ ? – Giáo
sư Spalding kêu lớn. - Bạn không tin ư, được bạn hăy để
tay lên ngực tôi. Giáo sư Spalding để tay lên
ngực đạo sĩ và tay kia bắt
mạch. Một sự rung động lạ lùng
xảy ra, nhịp tim đập của đạo
sĩ từ từ chậm dần và ngưng
hẳn. Đây là một ảo tưởng ?
Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ,
đúng một phút im lặng, rồi quả tim
bỗng bắt đầu đập trở
lại. Đạo sĩ mỉm cười giải
thích : - Bây giờ th́ ông tin rồi chứ ? Có
lẽ ông nghĩ rằng điều này phản khoa
học, tôi xin lấy thí dụ sau mà ông có
thể kiểm chứng được. Con voi thở chậm hơn con khỉ do
đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp loài
vật như con rắn chẳng hạn, nó thở
rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên
cứu kỹ, bạn sẽ thấy sự liên
hệ mầu nhiệm giữa hơi
thở và sự sống lâu. Một
kẻ sống đời êm đềm, sống lâu
hơn người có đời sống vội
vă, náo nhiệt. Có các giống dơi ngủ suốt mùa
đông. Chúng treo cẳng trên vách đá ngưng
thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi
xuân đến. Con gấu cũng ngủ suốt mùa
đông như thế. Tại sao loài vật làm
được mà loài người lại không
làm được ? Đó đâu phải phản khoa
học hay phản thiên nhiên. V́ các khoa học gia kết
luận rằng điều này không thể xảy
ra nên không bao giờ họ nh́n thêm điều ǵ
nữa. Đối với người Á châu, bất
cứ việc ǵ cũng có thể xảy ra và thiên
nhiên là ông thầy rất tốt. - Nhưng như thế đâu có lợi ǵ, sống lâu
thêm vài tháng, vài giờ… Đạo sĩ mỉm cười một
cách bí mật trả lời : - Một ngày nào đó, bạn sẽ
hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giải thích ǵ
thêm lúc này. Bạn có tin rằng nếu luyện tập
pháp môn này đến mức cao siêu, ta có thể
thắng đoạt tử thần không ?
Bạn đồng ư rằng ngưng thở là
chết, và nếu ta giữ được hơi
thở th́ ta bảo tồn sự sống có
đúng không? - Dĩ nhiên là như thế. - Bạn thân mến, một đạo
sư có thể cầm giữ hơi thở không
những trong nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều
năm và nhiều thế kỷ, tức là họ có
thể kéo dài sự sống theo ư muốn có
đúng không ? Ông bạn đă đồng ư
rằng hơi thở ở đâu tức là sự
sống ở đó kia mà. - Nhưng làm sao có ai
giữ được lâu như thế ? - Khi bạn lên dăy Hy Mă Lạp Sơn,
bạn sẽ gặp những người này và điều
này không lạ lùng như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân
truyền có thể đem lại nhiều quyền
năng bất ngờ, lạ lùng, nhưng đă
mấy ai khổ công tập luyện. Trong thời
buổi điên đảo hiện nay, con người mê
mải trong danh lợi, phù phiếm, các ảo
ảnh cuộc đời, làm ǵ có th́ giờ suy
nghĩ đến sinh hoạt tâm linh. Đó
cũng là lư do những người thực
sự mong muốn một trạng thái tâm linh thường ẩn
ḿnh nơi hoang vắng, các bậc đó không
bao giờ phải đi t́m đồ đệ mà
người t́m đạo phải đi kiếm các ngài… Giáo sư Spalding thắc mắc : - Nhưng sống lâu trong hoang
vắng để làm ǵ chứ ? - Hiện giờ đầu óc
bạn vẫn c̣n suy nghĩ như người
Âu, nghĩa là lư luận theo một chiều.
Muốn học hỏi bạn phải cởi
bỏ các thành kiến sẵn có, th́ mới
mong học hỏi những điều mới
lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ
hiểu điều tôi muốn nói. Dĩ nhiên ,các
bậc chân sư kéo dài đời sống v́
những lư do chính đáng, cao cả chứ
đâu tham sống sợ chết như người
thường. Trên dẫy tuyết sơn có
những vị đă sống cả trăm năm, có
vị sống đến cả ngàn năm. Tất
cả đều có những sứ mạng riêng
nên họ giữ nguyên thể xác. Một đạo
sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến
thức để có ư kiến. Tôi cho bạn biết
trước một điều, bạn sẽ
cầm về Anh móng tay của một vị Lạt
Ma đă sống hơn bốn trăm năm. - Liệu ông có thể cho chúng tôi biết
làm cách nào để kéo dài đời sống như
thế được ? - Có ba phương
pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ
nhất là luyện tập tất cả các tư
thế (asana) cùng với môn khí công bí
truyền cho thật thuần thục tuyệt
hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực
hiệndưới sự chỉ dẫn của
một vị danh sư đă có kinh
nghiệm v́ sai một ly đi một dặm, đó
là chưa kể người tập phải có một nếp
sống tinh khiết, trong sạch hoàn toàn.
Một ư niệm xấu khi thiền định có
thể làm loạn động hơi thở đưa
đến t́nh trạng “tẩu hoa? nhập
ma”, điên loạn hoặc chết ngay. Phương
pháp thứ hai là sử dụng dược
chất, pha chế các loại thuốc đặc
biệt các loại cây cỏ hiếm hoi, phương
pháp này cũng chỉ một thiểu số biết
cách bào chế và chỉ truyền lại cho các đệ
tử riêng. Phương pháp luyện
đơn này chỉ được dùng trong trường
hợp đặc biệt v́ nó có các hiệu
quả không thể lường được. Phương
pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát
mạch, sinh tử huyền quan rất khó giải
thích theo khoa học thực nghiệm. Tôi chỉ có
thế nói như thế c̣n tin hay không là quyền
của ông. Trong óc con người có một
lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong, và có
một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối
cùng của đốt xương sống là sào
huyệt của luồng hoả hầu Kundalini. Sự
truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao sinh
lực, khiến con người trở nên già
nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm
soát ta có thể tiết kiệm sinh
lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân,
y sẽ kiểm soát được luồng
hoả hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi
thượng thặng mới dám luyện tập đến
luồng hoả hầu, khiến nó thức
tỉnh đi ngược lên trên theo xương
sống khai mở các bí huyệt, các trung tâm quan
trọng nằm dọc theo lộ tŕnh. Khi mở
được nắp đậy lỗ hổng ngay
trong óc để luồng hoả hầu Kundalini chui vào cư
ngụ nơi đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền
năng, cải lăo hoàn đồng kéo dài sự
sống. Sự khó khăn nhất là việc mở
được cái nắp đậy trên óc, việc này
có khi cần sự trợ giúp của một danh sư
sử dụng nội lực giúp y đả thông
kinh kỳ bách mạch. Việc này rất khó v́
kẻ táo bạo luyện công dễ mất
mạng như chơi. Người thành công có
thể kéo dài sự sống như ư muốn và
khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt
như khi c̣n sống, và không hề hư hại… Giáo sư
Spalding im lặng, tât cả những điều vị
đạo sĩ tiết lộ, thật lạ
lùng, ngoài tầm hiểu biết của khoa
học. Chắc chắn khoa sinh lư học
không thể chấp nhận luồng sinh
lực vô h́nh này. Có lẽ nó xuất phát từ
trí tưởng tượng của các đạo
sĩ chất phác, mê tín chăng ? Có nên
tin hay không ? Như đọc được tư
tưởng của giáo sư, đạo sĩ mỉm
cười : - Tôi biết ông bạn nghi ngờ v́
các điều đó hoàn toàn trái với lư
thuyết khoa học nhưng bạn hỡi, minh
triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ
trụ, so với môn khoa học thực nghiệm th́ môn
này chỉ là một mănh vụn. - Một ngày nào đó, khoa học
sẽ tiến đến vấn đề tôi
vừa tŕnh bày, lúc đó t́nh trạng hiểu
biết của nhân loại đă tiến
hoá cao hơn bây giờ, nên có thể hiểu
biết một cách chính xác hơn. Bạn
nên hiểu luật vũ trụđịnh
rằng khoa học thực nghiệm phải luôn luôn
đi song song với sự tiến hoá của nhân
loại. Vài trăm năm trước có phải khoa
học lúc đó thật là ấu trĩ so
với bây giờ hay không ? Nếu đi ngược ḍng lịch
sử, bạn có thấy rơ mực tiến hoá của
khoa học và nhân loại luôn luôn bổ túc
cho nhau không ? Thời tiền sử, nói về nguyên
tử lực là điều vô lư và có nói cũng
chả ai hiểu. Thời Trung Cổ, nếu có
giảng giải về không gian sẽ bị kết
án là phù thuỷ. Lịch
sử Âu châu đă chứng minh rằng
những người thông minh quá đều bị
chế nhạo, là điên khùng rồi bị
thiêu sống. Đó cũng là lư do các bậc danh
sư không hề xuất hiện và các phương
pháp tu hành được ǵn giữ cẩn
thận, bí mật, chỉ những người thành
tâm mới được dạy bảo. - Nhưng có cách nào một người Âu
như tôi được truyền dạy các điều
này không ? - Được lắm chứ, nhưng
liệu bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn
hoa đô hội để ẩn ḿnh nơi hoang
vu, tịch mịch tu học không ? - Điều này…cũng được,
nhưng tôi phải thu xếp công việc đă…. - Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt
động vui thú phàm thục để hoàn toàn dành
cho việc thực hành phápmôn Yoga – không phải
vài ngày, vài giờ , mà trọn đời. - Nhưng chảng lẽ trọn
đời chỉ có làm thế thôi…có lẽ khi
tôi già đă… Đạo sĩ bật cười : - Bạn mến, Yoga không phải một
tṛ tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi hoặc
khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông
sao ham hoạt động và tham lam quá
vậy ? Giáo sư Spalding đỏ mặt căi : - Nhưng tập Yoga để làm ǵ ? Kéo
dài đời sống khổ hạnh thêm vài
năm có ích lợi ǵ đâu ? Đạo sĩ nghiêm mặt : - Ai bảo mục đích Yoga là
cầu sống lâu ? Sống khổ hạnh mà
không có ư nghĩa để làm ǵ? Phần
lớn các đạo sĩ luyện thân
thể cường tráng sống lâu hơn người
khác chưa thấu hiểu được mục
đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân
sư chỉ lo sống thêm ít lâu thôi hay sao ? Người
đời thường chỉ hiểu một
chiều, và đi ngay đến kết luận. Chinh
phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con
người đến việc chinh phục tinh
thần. Giữ cho ḿnh không hành động xấu th́
dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ
xấu mới khó khăn gấp bội, và đ̣i
hỏi nổ lực phi thường. Đời
người quá ngắn, việc tập luyện kiểm
soát thể xác đă đ̣i hỏi nhiều năm,
không đủ để tu tập tinh thần.
Do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời
sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhắm mục
đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu
tập thêm Raja Yoga nhắm chủ trị tinh
thầnnữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho
Raja Yoga … - Thế tại sao ta không tập
Raja Yoga ngay có hơn không ? Đạo sĩ lại bật cười
: - Người Âu thật hấp tấp,
muốn đi xa phải đi từ từ, phải
tập đi trước khi tập chạy
chứ. Đốt giai đoạn là bảo đảm thất
bại. Khi thể xác chưa làm chủ nổi th́ làm
sao đă đ̣i làm chủ tinh thần… Giáo sư Spalding nôn nóng : - Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn
có thể chỉ cho tôi thêm về môn này không? - Này ông bạn, việc ǵ cũng có duyên
phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp
thầy hay bạn giỏi. Hăy có một ḷng khao khát chân
lư rồi định mệnh sẽ dẫn
dắt bạn. - Nhưng tôi đâu quen biết ai,
các bậc chân sư đâu có tên trong điện
thoại niên giám – tôi làm sao gặp các ngài ? Đạo sĩ mỉm cười một
cách bí mật. - Hăy vững niềm tin, ḷng khao khát cầu
đạo có một tư tưởng mạnh
mẽ và chắc chắn sẽ được đáp
ứng. “Hăy gơ cửa rồi cửa sẽ mở, hăy
t́m rồi sẽ gặp”, bạn quên rồi sao ? Giáo sư
Spalding giật ḿnh, một lần nũua
câu nói quen thuộc trong Kinh thánh lại
được nhắc nhở bởi một đạo
sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không
biết nói ǵ. Đạo sĩ mỉm cười nói
tiếp : - Người Âu có tính ṭ ṃ, cái ǵ cũng
muốn biết. Thực hành mới là quan
trọng, chứ biết suông để làm ǵ ? Phương
pháp rèn luyện tinh thần cũng
giống như thể xác thôi. Nếu tập luyện
thể thao đều đặn th́ bắp
thịt sẽ nảy nở, rắn chắc; th́ rèn
luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người
có các tính xấu như ích kỷ, tham
lam, hà tiện, đa nghi… Do đó, họ hành
động không tốt với người khác. Đa
số cho rằng đó là bản tính tự
nhiên, không đổi được. Thật ra,
nếu muốn ta có thể sửa đổi mọi tính
t́nh. Nếu một tập luyện đúng cách làm
bắp thịt nở nang th́ sự kiểm soát thích
nghi sẽ tạo các đức hạnh cần
thiết . Kinh Rig Veda đă ghi rơ : “Kẻ nào quan
niệm sự tiến hoá một cách rơ ràng chính
xác sẽ ư thức được quyền
lợi và hạnh phúc của ḿnh. Muốn
trở nên một bậc toàn thiện ta
phải có các đức hạnh và can
đảm. Người nào muốn cải
thiện xă hội phải biết cải
thiện ḿnh trước đă. Phải biết quên quyền
lợi riêng để chú tâm vào phận
sự chung. Phải hiểu rằng các cơ hội tiếp
xúc với mọi người đều
tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng
sự mọi người chính là phụng
sự thượng đế. Những người
nhiệt tâm sửa ḿnh phải ư thức quyền
năng vô hạn của tư tưởng v́
hành động phát sinh từ tư tưởng.
Người t́m đạo phải biết kiểm
soát tư tưởng của ḿnh và sử
dụng chúng một cách hợp lư và bác
ái. Kiểm soát tư tưởng là mục
đích của môn Raja Yogạ Trở ngại
lớn nhất của những người luyện tâm,
rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ
trích. Với óc chỉ trích, con người công
kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ
mọi đức hạnh, t́m sự sai quấy
ở khắp mọi người. Người tu
pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược
lại, phải t́m thấy điều
thiện ở tất cả mọi ngườivà
nh́n thấy mọi sự đều có cái lư riêng
của nó. Có thế họ mới giúp ḿnh và người
khác được . Trở ngại thứ hai là
sự nông nổi, làm điều này chưa xong, đă
nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc
đă mong thấy kết quả và nếu kết
quả chưa như ư muốn liền bỏ
điều theo đuổi, để nhảy sang
một điều khác. Rốt cuộc không có
điều ǵ xong cả. Thái độ này không
thể chấp nhận được. Sự
bền tâm kiên chí là điều cần
thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ
nhiên, kiếp người ngắn ngủi không
ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu
trong một kiếp, do đó, việc tu hành cũng
kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ
sẽ ư thức các sự kiện vĩ
đại của sự sống vô cùng và
rời bỏ cái bản ngă để hoà ḿnh
vào gịng tiến hoá của vũ trụ, hoà
nhập với Chân Ngă bất diệt. - Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một
vị thánh ? - Này ông bạn, đừng nên kết
luận vội vàng. Con đường dẫn
đến quả vị tiên thánh đâu
phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa
đến chân lư và không đường nào hơn
đường nào. Đây là một điều vô
cùngquan trọng mà bạn phải ghi nhớ măi măi.
Không một con đường nào hơn
đường nào dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga hay là môn ǵ
chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này
mới hay, tôn giáo kia mới tốt? Không
một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt
hơn cả hăy tự biết ḿnh. Thay v́ t́m
một chân lư tuyệt đối, hăy t́m
sự tuyệt đối nơi ḿnh v́ chân
lư để sống chứ không phải để
dạy. Giáo sư
Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời
nói của đạo sĩ như có
một sức mạnh vang dộitrong ḷng ông. Các thành
kiến từ trước bỗng tan biến
hết và ông cảm thấy xúc động vô
cùng. Đạo
sĩ mỉm cười : - Này ông
bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng
danh mà chỉ có các kẻ c̣n u mê trong bản
ngămới tha thiết đến danh vọng, địa
vị. Khi họ đeo đầy ḿnh những
chức tước, th́ làm sao họ giải thoátđược
? Thượng đế ban cho ta trí thông
minh để nhận xét th́ ta phải
biết phân biệt chứ. Hăy nh́n thành Benares
với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo
sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe
ḿnh gần thượng đế nhất.
Tại sao suốt hai năm nay phái đoàn các
ông đă đi khắp nơi, thăm viếng mọi
chỗ mà vẫn không thoa? măn ? Phải chăng v́
sự hiểu biết phân biệt của các
ông đă cao, không chấp nhận sự mê
tín, mù quáng nữa. Kinh Gita nói rơ, “Thầy nào,
tṛ nấy. Một tu sĩ chân chính không có đệ
tử bất hảo, và một đệ
tử thông minh không t́m thầy bất lương”. Luật
thiên nhiên đă dạy “đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng
suốt đâu thể đi theo kẻ u mê…
Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm
chủ chính ḿnh để cầu giải thoát chứ
đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho
đông, xây cất các đền đài cho đẹp,
đễ tự hào về các thành quả này.
Như thế là phô trương bản ngă, kiêu
căng, ngă mạn làm sao c̣n giải thoát được.
Bạn hăy sử dụng lư trí và trực
giác để phân biệt những người
này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lư th́ chắc
chắn điều mong ước sẽ thành
sự thật. Chúng ta gặp nhau thế
này cũng đă quá đủ, đă đến lúc tôi
phải trở về am thất. - Nhưng làm sao tôi sẽ
gặp lại ông…tôi chưa biết tên ông. - Hăy gọi tôi là Bramananda. Giáo sư
Spalding yên lặng nh́n vị đạo sĩ
khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng
chiều từ từ rơi xuống trên sông
Hằng.
|