HÀNH
TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG Thành
Phố Thiêng Liêng |
Chương 5 Thành
Phố Thiêng Liêng Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành
phố của các vị thánh. Từ lâu nay người
ta đă coi thành phố này như một thánh
địa mà tất cả những kẻ cầu
đạo đều phải đến để
đắm ḿnh trong bầu không khí thiêng liêng.
Rishikesh nằm ở một vị trí đặc
biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mă
Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng
bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng
những điều huyền bí. Phía nam là con sông
Hằng, ḍng sông thiêng của Ấn giáo. Một người
Ấn bất kể giai cấp, trí thức,
đều ít nhất một lần trầm
ḿnh trong ḍng nước này để đón nhận
những ân phược mà ḍng sông mang lại. Đúng như lời người Ấn bí
mật thành Benares đă nói, khắp nơi đâu
đâu cũng có các đạo sĩ và tín
đồ hành hương. Có những đạo
sĩ ḿnh hạc, xương mai vừa đi
vừa tụng niệm các câu thần chú.
Có các đạo sĩ khổ hạnh,
chống gậy trầm tư bên ḍng nước sông
Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo
là các thuật sĩ , quần áo sặc sỡ
biểu diễn những tṛ lạ lùng. Một đạo
sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn
khố bằng da cọp, uốn ḿnh trong tư thế
Yogạ Bên cạnh một thuật sĩ gầy
g̣, nằm lăn trên đất, lâm râm cầu
nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc
kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa
đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các
vị thần. Có những tu sĩ thiền
định trong những hang đá đục sâu vào
núi, không màng thế sự, bên cạnh những đạo
sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn ḿnh trong những
mảnh vải rách như một xác ướp. Có các tu
sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi
thóp như sắp chết, bên cạnh những thuật
sĩ say sưa gọi tên thượng đế một
cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút,
các tín đồ hành hương chen vai thích cánh,
trên mặt ai cũng một niềm thành kính rơ
rệt. Phái đoàn cảm tưởng như
đang lạc vào một thế giới lạ
lùng, huyền ảo, với những nhân vật
kỳ dị , khác thường. Bác sĩ Kavir, giám đốc
viện nghiên cứư Phạn ngữ (Sanskrit)
của chính phủ là một học giả nổi
tiếng, có một kiến thức rộng và
đă sống ở Rishikesh nhiều năm . Theo ông ta th́ Rishikesh không
c̣n là một thành phố của các bậc chân tu đạo
hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ
rất nhiều thành phần hỗn tạp. Đa
số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo
nàn từ h́nh thức đến tinh
thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương
pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú,
rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân
chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều
là những kẻ thất bại ngoài đời, lười
biếng, không chịu làm việc. Đối với
một quốc gia chậm tiến như Ấn
độ, th́ h́nh thức dễ nhất để
có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là
trở nên một tu sĩ, sống trên ḷng sùng
tín của dân chúng. V́ không có một tiêu
chuẩn kiểm soát nào, nên bất cứ ai cũng
có thể trở thành tu sĩ; chỉ cần
mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài h́nh
thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng đạo
sĩ, thánh nhân được rồi. Chính các tu
sĩ, đạo sĩ giả mạo này là
những kẻ làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi
dụng đức tin để làm chuyện xằng
bậy, ích kỷ cá nhân. Đă thế, họ
c̣n tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca
tụng lẫn nhau và đả kích những tu
sĩ không cùng phe nhóm. Được tin có phái đoàn ngoại
quốc đến nghiên cứu nền minh
triết cổ truyền, rất đông đạo
sĩ, gíao sĩ t́m đến để tiết
lộ những pháp môn huyền bí, dĩ
nhiên, là với một giá biểu. Khi bị từ
chối, lập tức họ sụt giá như
người mua bán. Một đạo sĩ đ̣i
bán một cuốn sách bí truyền với giá
50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần
sụt giá, y bằng ḷng để lại cuốn sách
với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh
xưng trọng vọng, chức tước đầy
người đ̣i đến thảo luận triết
lư với phái đoàn. Khi nghe họ giới
thiệu về thành tích và đạo
quả đạt được, phái đoàn cực
kỳ ngẩn ngơ, v́ toàn các bậc thần thánh ǵ
đâu, chứ không phải người. Ai cũng tu
cả trăm năm, đủ các phép thuật thần
thông biến hoá. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát
ở đâu bước vào th́ các bậc “thần
tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy
hết. Quanh các chợ , có rất nhiều tu
sĩ khổ hạnh phô trương thân
thể tàn phế bị huỷ hoại như
một công tŕnh vĩ đại. Phái đoàn không
hiểu họ có thể đạt đến
điều ǵ, ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném
chọ Một số các đạo sĩ sử
dụng tà thuật công khai. Với một giá
biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù,
nguyền rủa một kẻ thù của
bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp
hoặc giúp bạn thành công trên thương
trường. Đâu đâu cũng có đạo
sĩ rao bán bùa ngăi hoặc xưng là đấng
này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái
đoàn xưng là hậu thân của đấng
Krishna và đă từng là Phật Thích Ca trong
một tiền kiếp. Bác
sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống
giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến c̣ng tay, tu
sĩ thú nhận, y chỉ là một học
sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm
được việc làm. Y đă lười
biếng c̣n thích làm thầy kẻ khác, nên làm ǵ
một thời gian cũng gặp khó khăn.
Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng
là Krishna giáng
thế, một số dân quê tin những
lời tuyên bố của y. Họ quyên góp,
xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm
vật dâng cúng của tín đồ, một cách ung
dung chẳng tu hành ǵ hết. Đă
thế, y c̣n đ̣i hỏi này nọ, chê ngôi đền
quá nhỏ bé không xứng với chức tước
của y. Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe
tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm
viếng, y dở tṛ bịp bợm để mong
kiếm được món tiền nhỏ. Lịch sử Ấn độ cho
thấy khi xưa Rishikesh
là một thánh địa thiêng liêng, một nơi
các tu sĩ thánh thiện đến để tu
học. Sau này, khách hành hương quá đông,
một số hành khất kéo nhau đến
đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi
bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành
khất đă “chuyển nghề” trở thành các đạo
sư, gíao sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây
thơ, nhẹ dạ. Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn c̣n các tu sĩ học
thức, dành trọn đời cho việc đi
t́m chân lư. Họ vẫn tu hành quanh đó không để
ư đến sự kiện các tu sĩ giả lợi
dụng sự có mặt của họ để mưu cầu
lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc
thù của nền văn hoá xứ này. Một người Âu
Mỹ chắc chắn không thể chấp
nhận sự kiện như thế, họ
sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh
cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn giáo không
có một tổ chức chặt chẽ như Thiên
chúa giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều
đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và
những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ
phải chịu hậu quả ở một kiếp
sau. Giáo sư
Kavir cho biết, theo thời gian, khi
nền văn hoá suy đồi, cuộc sống
trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh
thiện mỗi ngày một hiếm, th́ các đạo
sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi
lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người
dốt nát, vô học đi lang thang với các
chức tước rất lớn như đạo sư, giáo
sĩ, thánh nhân. Họ chỉ chờ những ngày
hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các
đền, chùa lên mặt này nọ để quyên
tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xă
hội, v́ chỉ thụ hưởng mà không làm lợi
ích ǵ. Đó cũng là lư do nhiều người Âu
Mỹ đă coi thường gia tài văn
hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng
là do sự tôn sùngtôn giáo quá mạnh của dân
chúng. Họ không phân biệt một đạo
sư tu hành chân chính, ǵn giữ giới
luậtnghiêm minh, với những kẻ bịp đời.
Ḷng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ,
nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo
của các bậc tu hành. Một lư do nữa
là sự ỷ lại vào sức mạnh thần
quyền. Đa số các tín đồmải
mê với sinh kế, không có th́ giờ lo
việc tinh thần, nên họ uỷ thác cho các giáo
sĩ cầu nguyện dùm, và đồng hoá
việc giải thoát với việc trung thành vào
một bậc giáo sĩ. Đa số các giáo
sĩ lợi dụng vấn đềnày
tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh
thần giáo dân bằng cách cầu
nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự
hào đă tu hành đắc đạo, đă có
thể nói chuyện trực tiếp với thượng
đế. Và là người trung gian giữa
trời và người. Họ sống trong các đền
đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật
dụng được cúng, và nhân danh thượng
đế để đ̣i hỏi này nọ. Người
Á châu bản tính không thích hoài nghi, chấp
nhận việc các tu sĩ nói ra ư
muốn của thượng đế, và tuân
hành triệt để. Cũng v́ thế, các tài
liệu tôn giáo Ấn độ đă
bị sửa đổi rất nhiều, không phân
biệt được điều có thật
với những sự kiện huyền
hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn
những câu nói bí ẩn, và giảng ra theo ư
nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn
độ phân biệt giai cấp rơ ràng, tu
sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua
chúa, quư phái. Giai cấp tu sĩ không làm
ǵ, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác
có bổn phận phải cung cấp các nhu
cầu đ̣i hỏi của tu sĩ. Cũng v́ không
làm ǵ, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống
báng , đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự
lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng
kinh điển theo quan niệm của ḿnh
từ cụ thể đến trừu tượng,
như Thời gian luận, Phương hướng luận, Đa
nguyên luận…Không ai chịu theo ai, và c̣n tranh
luận lung tung khiến các tín đồ không
c̣n biết đâu mà lần. Cũng v́ xă hội nghèo
đói, rối ren, tinh thần lại điên
đảo bởi các tà thuyết, nên từ
bao năm nay, Ấn độ không sao trở nên
một quốc gia hùng cường, thịnh
vượng như các xứ khác. Tuy thế,
với gia tài minh triết lớn lao tiềm
ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo
hạnh, sống kín đáo để giữ cho
ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn
có những người tha thiết mong cầu chân
lư, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi
t́m chân lư. Sự kiện từ bỏ tất
cả để đi t́m đạo cũng là một
nét rất đặc biệt của Á châu, v́
người Âu Mỹ khó có thể chấp
nhận vấn đề từ bỏ của
cải, vật chất, để chạy theo một viễn
ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết
thực. Người Âu cả quyết rằng sự t́m
kiếm chân lư là vô ích, hạnh phúc là
hưởng thụ tất cả những ǵ cuộc
đời có thể mang lại v́ chết là
hết! Nếu như thế, th́ mục đích cuộc
đời là ǵ ? Tại sao chúng ta lại
sinh ra để chết ? Văn hoá Âu tây đă không
giải thích được vấn đề này
một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết
học nổi danh đă nhức óc về đề
tài này, nhưng đa số đều chỉ
nói một cách quanh co, không đi đến
một kết luận nào chắc chắn.
Họ chỉ nói rằng có thể như thế này,
hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho
đến khi người Âu thật sự giao
tiếp với người Á châu, th́ họ bỗng
bật ngửa, v́ tất cả những ǵ họ
thắc mắc th́ người Á châu đă có
những câu trả lời từ nhiều ngàn
năm về trước. Lịch sử đă ghi nhận có
những người Âu đến viếng thăm Á
châu và say mê nền minh triết xứ này, đến
nổi quên cả mục đích chính của
chuyến đi. Điển h́nh là đại đế
Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách
chiến bách thắng đă chinh phục thế
giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư
, mở rộng bờ cỏi đến
tận Ấn độ dương. Khi đến Ấn
độ, ông là một kẻ chinh phục, oai
danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước,
ông đă trở nên một triết gia khiêm
tốn, nhă nhặn. Hoàng đế Alexander,
học tṛ của hiền triết Aristotle đă
bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh
phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng
đế Ấn độ, Alexander cho mang tất
cả những tướng chỉ huy xứ
Ấn đến hạch hỏi. Ông vua kiêu căng lớn
tiếng, “Thua trận như vậy, các người
đă chịu phục ta chưa ?”. Nếu là trường
hợp các quốc gia khác, th́ vua chúa đều
quỳ mọp xin tha tội, và xin thần
phục trước sức mạnh của
Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đă dơng
dạc trả lời, “Nhà ngươi chỉ là
một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho
được. Người có thể thắng
bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào
nổi dân của tả” Alexander nổi giận,
“Ta đă cai trị toàn thế giới, có nước
nào không phục tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt
trọn cả nước. Ngươi không thấy các
đại cường quốc như Ai cập, Ba tư
c̣n xin thần phục huống chi Ấn
độ yếu đuối ?” Vị chỉ
huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục
bàng sức mạnh quân sự th́ dễ,
chứ chinh phục nhân tâm c̣n khó gấp
trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như
ngươi, làm sao có thể cai trị được Ấn
độ ?” Câu nói bất ngờ làm đại
đế Alexander giật ḿnh. Nên nhớ, ông là
một hoàng đếvăn vơ toàn tài, chứ
không phải là một kẻ chỉ ỷ vào sức
mạnh. Từ nhỏ, ông đă được giáo
dục bởi các bậc hiền triết Hy
Lạp và năm 14 tuổi, ông đă đem quân chinh
phạt khắp Địa trung hải, tạo
các chiến công hiển hách. Ông theo học
với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có
vài chục hiền giả chung quanh để thảo
luận. Câu nói của vị tướng lănh chỉ
huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay v́ ra
lệnh giết ngay viên tướng này để
làm gương, ông đă không giận dữ,
lại c̣n mang ngay đề tài chinh phục nhân
tâm ra thảo luận với ỵ Trong
suốt lịch sử Âu châu, chỉ có
Alexander là hoàng đế duy nhất đă tranh
luận ôn tồn cho đến khi kẻ
thù kính phục mới thôi. Chi tiết cuộc thảo
luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi
chép nhưng chỉ ít lâu sau, hoàng đế Alexander
đă cho mời các bậc hiền triết xứ
Ấn đến thảo luận với các học
giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn
viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn,
Alexander nhận thấy các triết gia Hy
Lạp không thể sánh kịp với các hiền
giả Ấn độ. Nhà vua bèn đổi thái
độ, lấy lễ nghĩa đối
xử với các vị này. Thay v́ cai trị bằng sức
mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác,
ông ghi nhận những lời khuyên của
các bậc hiền triết, tôn trọng quyền
lợi dân chúng xứ này. Đoàn quân viễn chinh ngừng
lại, không đi sâu vào nội địa xứ
Ấn, để ông có thời gian học
hỏi, đàm đạo với các bậc thánh
nhân, hiền triết. Các cuộc thảo
luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần
lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đă ra
lệnh rút binh trở về Hy Lạp, v́ giấc
mộng bá vương không c̣n nữa. Ông dự
định sẽ cải tổ lại guồng máy
cai trị thế giới theo gương Ấn
độ. Tiếc thay, nhà vua lại chết
sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một
sử gia đă than, “Nếu Alexander sống lâu thêm
ít năm nữa, th́ biết đâu lịch sử Tây
phương đă khác hẳn. Trong các hiền triết nổi
danh, Ramakrishna được coi là một vị thánh
của Ấn giáo. Danh tiếng ông này vang sang
tận Âu châu. Phái đoàn t́m đến đức
Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu
ở một ngôi đền gần đó. Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến
một căn pḥng kiến trúc kiểu xưa, cổ
kính. Mọi người được mời
ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng
chân người chậm răi bước lại,
đó là một ông lăo khoẻ mạnh, râu dài
trắng phếu, dung mạo nghiêm trang, và đôi
mắt chói sáng toa? ra một cái ǵ thánh
thiện, khiến mọi người có cảm
giác rung động lạ thường. Giáo sư Evans-Wentz lên tiếng bày
tỏ mục địch của phái đoàn,
Mahayasa mỉm cười : - Ơn trên đă dẫn dắt
các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp
xúc nhiều với những bậc hiền
triết xứ này. Ơn trên có một mục
đích rơ ràng rồi các ông sẽ thấy. - Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo
sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết
thêm về ngài không ? - Tôi rất thích nói về ngài. Ngài
mất đă nửa thế kỷ rồi, nhưng
vẫn c̣n lưu lại nhiều kỷ niệm linh
độngtrong ḷng tôi. Tôi gặp ngài hồi 27
tuổi, và luôn luôn ở bên ngài, cho đến những
ngày cuối cùng. Nhờ ngài, tôi đă trở
thành một con người mới, và quan
niệm của tôi đối với cuộc
đời cũng thay đổi hẳn. Ảnh
hưởng của ngài thật sâu đậm, ai
đến với ngài cũng được cảm hoá
như vậy, kể cả những kẻ hoài
nghi, chế nhạo… - Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người
ta có thể được cảm hoá ? Đức Mahayasa mỉm cười: - Trước ảnh hưởng an
lành toa? ra từ con người thánh
thiện của đức Ramakrishna dù có hoài
nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh
thoát. Giáo sư Allen rụt rè : - Chúng tôi được biết
ngài rất ít học. - Đúng thế, ngài là con người đơn
giản, biết ít, học ít, nhưng ngay cả
những bậc học rộng , tài cao của Ấn
độ đều ngưỡng mộ ngài.
Họ cúi đầu trước hào quang tâm
linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền
bạc, chức tước, địa vị chẳng
qua chỉ là phù vân, hư ảo trước
các giá trị tâm linh… - Nhưng người Âu không thể
hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi
tiếng lại có thể cúi đầu trưóoc
một người không học hết bậc trung
học. Đức Mahayasa mỉm cười : - Sở dĩ họ không hiểu
được, v́ họ quan niệm đạo
sư phải là người có bằng cấp,
tốt nghiệp những đại học nổi
tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan
niệm người Ấn không như vậy.
Một đạo sư không nhất
thiếtphải tốt nghiệp trường học
chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở
những điều ngài khêu gợi, thức
tỉnh tâm thức được cho ḿnh. Có
gần ngài, mới hiểu thế nào là b́nh an.
Những ngày bên ngài tốt đẹp biết
bao. Ngài thường đắm ḿnh trong những cơn thiền
định sâu xa, khiến chúng tôi có cảm
tưởngnhư tiếp xúc với một
vị thánh hơn một người phàm. Tôi xin
kể cho các ông về cảm tưởng của
tôi. Tôi được giáo dục theo phương
pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được
đọc nhiều biết rộng hơn những người
chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ
cho trường trung học ở Calcuttạ Đức
Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó
không xạ Một hôm, tôi theo các bạn đến
nghe ngài thuyết giảng, thực ratôi có ư
muốn biện luận với một vị,
được dân chúng coi là thánh nhân, hơn là
muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng
đă xảy ra, khi vừa nghe những lời nói của
ngài, tôithấy trong ḷng rộn ră một cảm
giác lạ lùng, yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn
ngữ thông thường, sử dụng các
danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng
tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống những
lời giảng giản dị, chân thành như
người khát nước lâu ngày, sau đó,
tuần nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời
gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ
tử, chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy
biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi).
Con hăy làm tṛn công việc hàng ngày của ḿnh với
đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng
nhớ đến thượng đế.” - Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna
ngay từ khi c̣n ở Âu châu, nhưng dư
luận người Anh có lẽ không hiểu rơ về
ngài, ngoại trừ việc ngài là một người
không có học thức… Mahayasa gật đầu mỉm cười : - Theo sự hiểu biết của
tôi, sở dĩ ngài không thích học v́ bản
tính ngài thiên hẳn về vấn đề tâm
linh. Một người như thế tất nhiên
không để ư đến những từ chương
, bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm
ngài bắt đầu vào tuổi thanh niên, một
sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa
trẻ thường bị khủng hoảng hoặc
thay đổi tâm tính nhất là trên phương
diện t́nh ái. Đối với người cao
thượng, đó là lúc mở màn cho một
đời sống thật sự với sự phát
triển các năng khiếu tâm linh siêu
việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói
sự hoảng hốt trước cái chết. Đa
số con người ít nhiều cũng đă
nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ
nghĩ một lát rồi quên ngay, ít ai chịu t́m
hiểu sâu xạ Các bậc hiền triết th́
khác, họ tận lực t́m hiểu thế nào
là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản
ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái ǵ là
chết? Thể xác này chết nhưng c̣n tôi, tôi có
chết không ? Nếu tôi là thể xác này, tôi
chết nhưng tôi có phải là thể xác này không ?
Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không
chết, nhưng làm sao t́m ra điều này?
Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự
chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham
thiền, suy gẫm về đề tài này. Ngài
tưởng tượng thân thểngài đă
chết, không c̣n thở, không c̣n cảm xúc.
Với một ư chí mănh liệt, ngài rút
hết sinh lực ra khỏi thể xác và
một ngày kia ngài thành công. Thân thể ngài
cứng đơ, bất động như người
chết, nhưng ngay lúc đó một quyền
lực khôn tả phát ra từ đáy ḷng và
tràn ngập tâm tư ngài. Chuyện ǵ xảy ra sau
đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng
ta có thể đoán ra, xuyên qua lời
dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ
rằng quyền lực ấy là cái mà ta
gọi là Ân huệ, và khi được mặc
khải đó th́ ta tiến sâu vào nguồn sống
để hoà hợp với đấng vô
cùng. Ngài đă hợp nhất với Chân Ngă.
Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân
Ngă ngự sâu trong ḷng nhưng ngài chưa kinh
nghiệm được một chân lư khác. Chân
Ngă là sự thật duy nhất, ngoài sự
thật đó không có ǵ nữa cả. Khi
tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự b́nh
annhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không
thoa? măn v́ điều ngài mới đạt đến chỉ
là sự b́nh an của các vị thánh. Ngài ra tâm suy
gẫm về cảm giác thiếu thốn này, thân
thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài
trong nhiều tháng. Dĩ nhiên ,những người
chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc
bệnh. Ngài đắm ḿnh trong trạng thái Vô
Ngă rất lâu, không màng đến những
việc chung quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách
mắng ngài lười biếng, không chịu học
hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền
Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp
dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết định đến
đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến
trước tượng Shiva và nói, “Hỡi cha, cha
đă gọi, nay con đến với chạ” Ngay lúc
đó các cảm giác nóng hực, thiếu
thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng
nghiệm được một chân lư mới,
cha ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh
tâm mới có cảm giác an lạc, mà lúc nào
cũng ở trạng tháinày. Ramakrishna bị
rất nhiều thử thách. Bị trẻ con
chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây
hấn, nhưng ḷng ngài lúc nào cũng b́nh thản,
lặng yên, không một chút vọng động. Kinh
Gita dạy rằng một khi đă đạt
đến trạng thái Vô Ngă, ḷng người
không c̣n bị xao động bởi các sự
kiện bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến
đâu. Một sự an lạc tràn ngập thân
ngài lôi cuốn những người chung quanh
khiến họ khâm phục, kính mến và số người
này mỗi ngày một đông. Một điều
cần lưu ư là ngài không học hay đọc
những sách vở ǵ về trạng thái Vô Ngă mà
ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng
không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái
siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ
ngài giảng giải một đoạn kinh sách
ǵ, ngài mới đọc và thông hiểu nó
một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất
ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt
qua đă quán triệt được ngay, v́
ngài đă chứng nghiệm được
những điều nói trong sách đó. Ngài dạy đạo
bằng sự lặng thinh hơn là lời nói,
nhiều người đến với ngài để
chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài th́
mọi thắc mắc tự nhiên tiêu tan như
đă được phúc đáp. Nếu một câu
hỏi đặt ra, ngài thường trả
lời một cách dịu dàng, vắn
tắt, dễ hiểu. Ngài không viết sách như
những đạo sư khác, mà chỉ
dạy đạo qua cử chỉ yên lặng
hay vài câu nói giản dị. Môn đệ của
ngài đến từ khắp xứ và tùy theo căn
cơ lănh hội ít hay nhiều. Ư kiến của
họ vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nh́n
nhận ngài là một đạo sư vào
bậc nhất, và hết sức kính mến ngài.
V́ đă đạt trạng thái Vô Ngă,
Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và
những người khác, giữa người giàu,
kẻ nghèo, hay nam nữ, đối với ngài,
tất cả đều b́nh đẳng tuyệt
đối kể cả những loài cầm thú. - V́ Ramakrishna không hề để
lại sách vở, giáo lư, nên người Âu không
hiểu tại sao ngài lại nổi tiếngnhư
vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết
một chút về giáo lư của ngài không ? Mahayasa mỉm cười : - Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ
tử đă xuất gia để truyền
bá giáo lư, riêng tôi vẫn c̣n là cư sĩ, hàng
ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cơi
đời, mà tôi không c̣n tùy thuộc vào
đời. Tôi c̣n nhớ rơ một lần ngài
đă dạy như sau, “chúng ta xông pha trong cuộc
đời với ư niệm cho rằng ta có
thể t́m hạnh phúc trong cơi đời. Cho
đến lúc gần đất, xa trời,
nhiều người cũng không buồn hỏi
rằng ư niệm đó có đúng không ?
Thật sự là chúng ta chả bao giờ
chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng
ta cũng nghĩ rằng ḿnh gần đạt
được những điều ḿnh mong
mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào
bị cuộc đời hắt hủi, giày ṿ.
Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải
thích bằng giấc mộng . Trong giấc
mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích
thú, chúng ta vẫn mơ mộng măi và
chỉ giật ḿnh tỉnh giấc khi gặp
những chuyện đau buồn. Một cuộc
đời êm đẹp không tiện cho sự suy
tư về các vấn đề quan trọng,
nhưng nếu là mộng th́ chắc chắn cũng
phải có lúc tỉnh. Trong nhiều năm ṛng ră, chúng
ta cố t́m hạnh phúc, và nhiều lần tưởng
đă đạt được nó để hưởng
một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất
vọng. Sau đó, ta lại tiếp tục chạy
theo ảo ảnh đó như trước.
Nếu biết dừng chân suy nghĩ, ta sẽ
thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng
không hề biết đến bản chất thật
sự của nó , và không biết phải dùng phương
tiện nào để đạt nó. Hăy thử t́m
hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng
biết đặc tính của hạnh phúc là
“thường hằng”, nghĩa là nó ở măi
với ta; suốt đời ta lúc nào cũng vui
sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả
những ǵ cuộc đờimang lại cho ta đều
là vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất
thời, chứ có ǵ lâu bền đâu. V́ khoái
cảm nhiều và đến với ta như ḍng nước
chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh
phúc và kết luận rằng bao giờ ḍng
khoái cảm đó c̣n tiếp tục đến
với ta, chúng ta được hưởng hạnh
phúc. Suy gẫm kỹ th́ khoái cảm chẳng
qua chỉ là phản ứng của ḷng ta trước
sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng
tạ Các sự vật này khi th́ tạo vui, lúc th́ gây
khổ. Hơn nữa cùng một sự vật mà có
thể tạo vui hay gây khổ tùy lúc, bởi thế
ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc”
không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là
sự vật bên ngoài, chúng taphải càng có hạnh
phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng
chứ. Thật sự, người giàu có, lắm
sự vật, chưa chắc đă hạnh phúc hơn
kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của
cải, chưa chắc thiếu hạnh phúchơn
người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rơ
ràng ḿnh theo đuổi hạnh phúc nhưng
không biết thế nào là hạnh phúc và cũng
chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh
phúc ?!! Những người t́m hiểu một
cách chân thành sớm muộn ǵ cũng
thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội
tâm tạ Các khoái cảm không có tính cách tư
hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh
phúc chân thật thuộc bản tính tự
nhiên của con người,bị che
lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương
bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng
rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng
ta cũng thế cứ tưởng sẽ
được hạnh phúc khi chạy theo những vật
ngoạigiới. Có lẽ các ông khó chấp
nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin
rằng những nỗi vui hay buồn tùy ở chúng
ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao,
sự chấp nhận này cũng chưa đủ
đem lại cho ta hạnh phúc, v́ có hai nỗi
đe doa. : sự ham muốn và sợ hăi. Chúng
ta càng ham muốn th́ càng sợ hăi, và
càng sợ hăi lại càng đau khổ.
Thay v́ diệt trừ những đe doa. này, chúng
ta lại quỳ luỵ chúng . Khi ham muốnlên
tiếng, “hăy đạt được vật
đó đi, rồi sẽ sung sướng”, th́ chúng
ta tin tưởng và t́m mọi cách đạt
kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt
được, th́ chúng ta đau khổ, mà
nếu đạt được th́ ham
muốn lại thúc dục ta t́m đến một
vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không
thấy ḿnh bị lừa gạt chút nào mới
lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ,
càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao
giờ chúng ta là nô lệ của dục
vọng, chúng ta không sao đạt
được hạnh phúc. Nếu đạt
được lại sợ mất đi, càng có
nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không
? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật
sự, phải vượt lên khỏi sợ hăi và ham
muốn. Đức Mahayasa im lặng như
đắm ch́m vào một quá khứ rồi tiếp
tục : - Đến đây chúng ta cần
được một vị thầy hướng
dẫn thêm. Người này phải hiểu rơ hạnh
phúc ở đâu, phải theo đường
lối nào. Người này phải thắng được
các đe doa. như sợ hăi, ham muốn, và
thật sự đă đạt được niềm hạnh
phúc vô biên; như vậy mới có đủ kinh
nghiệm d́u dắt chúng tạ Như con
bệnh phải đi t́m danh y th́ kẻ cầu
đạo cần một vị thầy. Ramakrishna
chính là vị thầy mà tôi gặp. Kinh sách xưa xác
nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát
khỏi khổ đau, nhưng ta không thể t́m nó
bằng lư luận hay trong sách vở. Trong quá
khứ, đă có những bậc đạo sư như đức
Phật, đấng Christ đă t́m được hạnh
phúc và hướng dẫn những kẻ khác. Sau
khi các ngài tịch diệt, môn đệ có
tŕnh bày giáo lư của các ngài trong kinh sách, nhưng
dù sao đi nữa, kinh sách cũng có những
khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn
tả hết được, làm sao bằng
lời những vị đạo sư hăy c̣n
sống bên cạnh chúng tạ Ramakrishna đă dạy
rằng, nguyên nhân các đau khổ đều
ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài. Có người
hỏi thế giới chúng ta đang
sống có điều ǵ xấu xa không? Th́ ngài
đă trả lời rằng nó rất tốt
đẹp, có xấu xa chăng là ḷng người,
v́ con người đă hiểu sainó. Công
việc của chúng ta hiện nay là phải
đi ngược ḍng t́m cho ra sự sai lầm nguyên
thuỷ để diệt trừ nó, th́ mọi
việc sẽ tốt đẹp… Phát giác và
trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là
phương thuốc chánh, tất cả phương
tiện khác đều chỉ là tạm bợ.
Nhiều lắm là chúng giúp ta t́m raphương
thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn
giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo hay gây
sự chia rẽ, đôi khi c̣n làm cho tâm trí suy
kém, cản trở bước tiến của tín
đồ. Có người đă hỏi tại sao con
ngườiluôn luôn đau khổ, sợ hăi,
th́ ngài trả lời rằng, sự
kiện đó là do lầm lạc phát sinh,
từ sự thiếu hiểu biếtchính ḿnh. Có
nhiều người, họ biết ḿnh rất rơ
ràng, hoặc lại cho rằng điều này không cần
thiết, v́ trong đời sống hàng ngày
đầy rẫy những phức tạp, điểu
ta cần khai thác là làm ǵ cho có lợi, kiếm
được thật nhiều tiền. Để khai
thác, con người gán cho kiến thức một giá
trị quá mức, như bắt mọi người phải
đến trựong. Từ xưa đến nay nhân
loại thu thập biết bao kiến thức nào
là sử kư, địa dư, thiên văn, vật
lư, triết học và siêu h́nh học nữa…
Nếu những kiến thức này là sự hiểu
biết đứng đắn th́ nó phải
đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự
thật lại khác hẳn, chúng ta học cách chế
ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược
luật tạo hoá, khiến cho xă hội càng
ngày càng đau khổ, bất măn thêm.
Sự chế ngự này, con đẻ của
khoa học chỉ đem lại lợi ích cho
một thiểu số thôi. Do đó, lắm
kẻ giàu sang sung sướngnhưng vẫn không
sao hạnh phúc được trước
khổ đau của đa số. Tóm lại,
khoa học đă tạo cho con người nhiều
khó khăn hơn là giải quyết các điều
kiện căn bản của cuộc sống. Đức Mahayasa nh́n mọi người trong phái
đoàn, rồi tiếp tục : - Đă có một giáo sư đại
học hỏi Ramakrishna về bức tường vô
minh mà khoa học không sao vượt quađược.
Họ biết các vật vi tế như nguyên
tử, điện tử nhưng đó cũng chỉ
qua sự ức đoán mà thôi, không phải
biết một cách trực tiếp. Họ cũng
biết các vật vĩ đại như các dăy thiên
hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi. Ngài
đă trả lời rằng, ngoại
cảnh chỉ đưa con người tới
chỗ vô minh mà thôi. Theo ngài, nếu nhân
loại cố t́m ṭi những ǵ káhc hơn
là bản chất con người th́ những kiến
thức ấy không phải sự hiểu
biết thật sự. Lời nói này có
vẻ làm giảm giá trị của khoa
học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta
thấy ngài rất có lư. Sự hiểu biết về
khoa học hiện nay c̣n nhiều điểm đáng
nghị Các khoa học gia vẫn c̣n bất đồng
ưkiến về một chuyện ǵ, th́ quần chúng đă lên
tiếng ủng hộ, do đó những người
bất đồng ư kiến cũng phải im,
dù có thể họ rất có lư và số đông
đă sai. Trong phạm vi khoa học, cũng như triết
học và tôn giáo, ư kiến thựong sai
biệt ít nhiều, tùy tâm trí nhà bác
học. Sự t́m hiểu chân lư bắt
buộc một học giảphải có những
đức tính cao quư v́ tâm trí học giả có
một ảnh hưởng to lớn trong sự t́m
hiểu và sự hiểu biết chỉ cóthể xem
như một chánh keí6n, khi người t́m
kiếm có đủ tư cách. V́ thế khoa
học đă vấp nhiều lỗi lầm khó
sửa. Sự thất bại của khoa học phát
sinh từ một lầm lỗi nguyên thuỷ là các bác
họctưởng ḿnh đă biết, không cần
sự tự biết ḿnh. Trong cả hai trường
hợp, họ bắt đầu cuộc đi t́m
với những thành kiến sai lầm về bản
chất của họ. Do đó, những điều
họ t́m ra dù có giá trị vẫn
bắt đầu từ những sai lầm căn
bản, hậu quả là khoa học ngày nay
đă đưa nhân loại đến
những hố thẳm, thay v́ chân trời sáng
lạng. Một hôm có tín đồ đến
hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà
họ không thích. Họ muốn ngài chấp
nhận ư kiến của họ là không nên
thờ thượng đế dưới h́nh
thức thần tượng. Một người hỏi ngài : - Thượng đế có sắc
tướng không?. Ngài đáp: - “Ai nói rằng thượng đế có sắc
tướng. - “Nếu thượng đế không
có sắc tướng th́ tại sao lại
thờ ngài trong các h́nh tượng làm ǵ ? - Chúng ta hăy để thượng
đế sang một bên, và xin anh cho tôi biết
anh có sắc tướng không ? - Dĩ nhiên là có chứ, hăy nh́n thân
thể này… - Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc
xồm xoàm này không? - Dĩ nhiên tôi là xác thân này
chứ c̣n ǵ nữa. - Trong lúc ngủ say, không mơ
mộng, anh có phải là nó không? - Có chứ, v́ khi thức dậy tôi
thấy tôi đâu thay đổi ǵ. - Và rồi khi anh chết. - Th́ tôi cũng c̣n là nó. - Vậy th́ tại sao khi người
ta hoa? thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi, và
muốn ở lại nhà ? Khi người này ư thức rằng
ḿnh đă sai và đáp rằng : - Tôi không phải là thể xác này, mà là sự
sống trong nó. - Anh hăy suy gẫm kỹ về
điều này. Hồi năy anh nói rằng anh là
thể xác này. Bây giờ anh lại nói rằng không
phải. Cho ḿnh là xác thân này là một lỗi
lầm nguyên thuỷ. Bao giờ sự sai
lầm này c̣n, dù anh nói thượng đế có sắc
tướng hay không cũng không ăn thua ǵ
. Khi sự sai lầm này được đánh
tan th́ mọi việc sẽ sáng tỏ. Tóm lại, theo Ramakrishna th́ nguyên nhân của sợ
hăi, dục vọng, ham muốn là do sai
lầm đầu tiên, tự cho ḿnh là xác thân này,
v́ sợ hăi hay ham muốn đều
bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên,
rất nhiều người cũng đồng
ư như thế , và tin rằng con người không
phải là thể xác mà là một sự sống trường
cửu. Sách vở cũng nói như thế rất
nhiều. Nhưng trong đời sống thực
tế, họ có làm ǵ khác đâu. Lúc đầu họ
nghĩ rằng nhờ kiến thức thu
thập, hiểu biết các chân lư cao
siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng
tại sao họ vẫn hành động y như họ
là thể xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ
bé, họ cho rằng ḿnh bé nhỏ. Nếu xác thân
họ to lớn, đẹp đẽ, họ cho
rằng ḿnh lớn đẹp. Nếu xác thân họ
Ốm đau, họ cho rang ḿnh bệnh hoạn.
Nếu tư tưởng họ phong phú,
họ cho rằng ḿnh thông minh….Tóm lại, sự sợ
hăi và dục vọng vẫn y như xưa,
có thể lại c̣n gia tăng hơn v́ họ hănh
diện về sự hiểu biết của
ḿnh hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ
làm thế, v́ chưa chứng nghiệm được con
người thật của ḿnh, sự sai
lầm nguyên thuỷ vẫn c̣n tác động mạnh
mẽ nơi họ. Kiến thức của
họ chưa tạo được một sự biến
chuyển thật sự…. Ramakrishna
đă dạy rằng, kiến thức về tâm
linh thu thập qua sách vở thường tai
hại hơn là một người thất
học, dốt nát. Những người kiến văn quảng
bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh
vọng thường ích kỷ, lại c̣n
ngạo mạn, họ cho rằng ḿnh biết
nhiều, hiểu nhiều, và không chịu t́m
hiểu, thực hành đào sâu vào thêm
nữa. Đó là sự hiểu biết hời
hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một chứng
nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la-bàn hướng
dẫn, chứ đâu phải minh triết thật
sự. Sự thu thập kiến thức
kiểu này, tạo nên t́nh trạng hỗn
độn trong triết lư và thần học. Các triết
gia và nhà thần học đă thảo
luận không ngừng về những vấn
đề khó khăn, như nguyên nhân đầu
tiên, sự thật cuối cùng, bản
chất thời gian, định mệnhcon người, tự
do, giải thoát, v..v… và chả đạt
đến một kết quả nào. Các bậc hiền
triết đứng bên ngoài cuộc thảo
luận đó, v́ họ có lối giải
quyết riêng , trái với các giải
pháp trí thức. Thay v́ thảo luận, họ
cố khám phá lấy sự thật, và khi t́m
ra sự thật, các vấn đề trên
sẽ đương nhiên được giải
quyết. Nói đến
đây, đức Mahayasa lặng yên ch́m đắm trong
một không khí êm đềm nào đó. Giáo sư Evans-Wentz cố gắng : - Nhưng con người không
thể sốgn bằng đức tin, mà c̣n
phải thoa? măn lư trí nữa, đối
với những người thiên về lư trí, không
biết ngài nghĩ sao ? Mahayasa mỉm cười : - Nếu thầy tôi Ramakrishna c̣n sống
có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện. - Tại sao như vậy ? - Cầu nguyện là phương
tiện cuối cùng của con người.
Khi nào lư luận tỏ ra bất lực th́
sự cầu nguyệnsẽ bổ sung , phù tŕ,
cứu độ… - Nhưng nếu tôi không thể cầu
nguyện th́ phải làm sao ? Đức Mahayasa nh́n giáo sư Wentz, ánh
mắt ngài long lanh một niềm ưu ái : - Ông nên tiếp xúc với các
bậc chân tu, các vị này sẽ hướng
dẫn tâm hồn ông lên cơi thiêng liêng, và
thức động các khả năng thiêng liêng nhất
của ông. Có lẻ
ông cần một vị thầy. |