Hiện nay, các danh từ như đại số
(algebra = al-jabr), thuật giả kim (alchemy = al-kimiya),
chất kiềm (alkali = al-qili), độ phương
vị (azimuth = al-sumut) cùng nhiều
danh từ khoa học khác đều có nguồn
gốc từ tiếng Ả Rập và từ đạo
Hồi, như vậy các nhà toán học, hóa học,
kinh tế, bác sĩ... đều mang nợ các khoa
học của đạo Hồi sống vào thời
Trung Cổ. Trong suốt 5 thế kỷ, từ
thế kỷ 9 tới thế kỷ 14, trong đạo
Hồi đă có các nhà vật lư, hóa học, toán
học, thiên văn học, địa dư học...
họ không những làm sống lại nền Khoa
Học của xứ Hy Lạp mà c̣n nới rộng,
đào sâu, xây dựng nền móng của nhiều
bộ môn kiến thức ngày nay.
Nền khoa học của đạo Hồi không
những chỉ quan tâm tới môi trường vật
lư của con người mà c̣n t́m cách phân tích con người
theo tinh thần, theo xă hội trong đó con người
sinh sống. Tinh thần t́m hiểu này đă phát
triển tốt đẹp khiến cho nhiều người
phương Tây thời bấy giờ đă phải hướng
về các nhà khoa học của đạo Hồi
để học hỏi.
Các nền khoa học của
Hồi giáo đă căn cứ vào sự hiểu
biết của người Hy Lạp thuộc nhiều
thế kỷ về trước, theo đó
ngự trị trong vũ trụ trông có vẻ phức
tạp, thực ra có các định luật tổng quát
mà con người có thể hiểu rơ bằng lư trí
(reason) nhờ đó nhiều hiện tượng tưởng
chừng như không liên hệ với nhau mà thực
ra đă bị chi phối bởi cùng một nguyên lư,
chẳng hạn như về Thiên Văn Học,
nếu một nhà khoa học hiểu rơ định
luật đă khiến cho các thiên thể đi theo các
quỹ đạo, th́ nhà khoa học này có thể tiên
đoán vị trí của một ngôi sao trong nhiều năm
tới.
|
Sự
hiểu biết vũ trụ, theo danh từ Ả
Rập, được gọi là "falsafa",
bao gồm mọi kiến thức của con người,
cả về phương diện lư thuyết cũng
như thực hành, gồm cả các khoa vật lư,
tự nhiên và triết học cũng như các
học thuyết tôn giáo. Như vậy một
triết gia về khoa học (a scientist philosopher)
của thời đại bấy giờ không phải
là một chuyên gia về một ngành học eo hẹp
mà là một học giả hiểu rơ nhiều
phạm vi học thuật như y khoa, thiên văn, hóa
học, toán học, luận lư, siêu h́nh và ngay cả
âm nhạc và thơ văn. Thời đại đó
không có nhiều học giả với tŕnh độ
cao, những vị này đă sinh sống nhờ sự
bảo trợ của một triều đ́nh hay
của vài gia đ́nh giàu có, và sự uyên bác của
họ đă khuyến khích việc t́m hiểu
kiến thức tại các thành phố thuộc
thế giới Hồi giáo và đă thu hút các học
viên từ khắp nơi theo học các trường
học của đạo Hồi.
Trong khi kiến thức được t́m hiểu và
mở rộng th́ các áp dụng thực tế đă
mang lại các ích lợi cho đời sống hàng ngày,
chẳng hạn như bộ môn Toán Học đă
đáp ứng các nhu cầu trong các ngành thương
mại và đo đạc, như bộ môn Thiên Văn
đă xác định giờ cầu nguyện, ngày
mặt trăng xuất hiện đầu tiên trong tháng Ramadan, phương hướng nhắm
về thành phố Mecca và sự hiểu biết các
tinh tú trên bầu trời đă hướng dẫn các
kẻ đi xa trên đất liền và trên mặt
biển.
1/ Ngành Y Khoa.
|
Tiệm bán thuốc
|
Trong
nhiều phạm vi học thuật, các nhà khoa học
Hồi giáo rất hiểu rộng nhưng họ
xuất sắc nhất về ngành Y Khoa.
Trước kia, người Ả Rập thường
tin tưởng vào những điều dị đoan,
gồm cả việc dùng bùa ngải, dùng các lời
cầu nguyện và một số thuốc men sơ khai
như loại phẩm đỏ (henna) để
chữa bệnh xưng khớp xương, mật ong
để trị bệnh nhức đầu và
bệnh sốt, họ cũng dùng một số lá cây
để cầm máu. Qua thế
kỷ thứ 8, trường Y Khoa của xứ Ba Tư
tại thành phố Jundishapur bắt đầu
giảng dạy các phương pháp trị bệnh căn
cứ vào những điều thực hành hữu lư
của các y sĩ Hy Lạp. Tới
năm 765, khi nhà cai trị thành phố Baghdad là Mansur bị chứng đau dạ dầy kinh niên và
các lương y của thành phố kể trên không
thể chữa khỏi, v́ thế vị giáo chủ
đạo Hồi đă phải trông cậy vào
vị y sĩ chính của thành phố Jundishapur, tên là
Jurjis Ibn Bakhtishu, một người theo đạo Thiên
Chúa. Ông Jurjis đă thành công và được bổ
nhiệm làm y sĩ của triều đ́nh.
|
Ṭa
Nhà Hiểu Biết" (The House of Wisdom)
|
Thành
phố kiến thức đă thu hút các học giả
vào đầu thế kỷ 9 là Baghdad. Khi cai trị
từ năm 813 tới năm 833, giáo chủ đạo
Hồi Ma'mun đă thiết lập một trung tâm
học thức gọi là "Ṭa Nhà Hiểu
Biết" (The House of Wisdom) bên trong gồm có một
thư viện, một cơ sở phiên dịch và
một trường học. Giống như nhiều nhà
lănh đạo đương thời, giáo chủ
Ma'mun lúc đầu rất do dự khi lư luận
về vũ trụ của Thượng Đế nhưng
rồi, theo chuyện kể lại, ông ta đă
gặp vong hồn của nhà triết học Aristotle
trong một giấc mơ và Aristotle đă bảo đảm
với giáo chủ rằng sẽ không có sự xung
khắc giữa lư trí (reason) với tôn giáo, do đó
giáo chủ Ma'mun đă ra lệnh thiết lập trung
tâm học thức kể trên.
Từ nay, trong khoảng thời gian 75 năm, các tư
tưởng cao siêu và các tác phẩm của các
học giả của xứ Hy Lạp và của các dân
tộc khác đă được chuyển dịch sang
tiếng Ả Rập trong số này đáng kể là
các tác phẩm của Aristotle, Plato (triết học), các
khảo cứu chính yếu của Euclid (toán học),
Ptolemy (thiên văn), Archimedes (vật lư) và của nhóm
y sĩ Hy Lạp danh tiếng như Hippocrates, Dioscorides
và Galen cũng như nhiều công tŕnh khoa học
của người Ba Tư, người Ấn Độ...
Những bản văn gốc một phần từ
những chiến lợi phẩm khi quân đội
Hồi giáo xâm chiếm xứ Byzantium và Ba Tư,
một phần do các phái viên của giáo chủ Ma'mun
gửi đi xa, chẳng hạn tới tận thành
phố Constantinople để thu thập các văn
bản Hy Lạp rồi mang về Baghdad.
|
Bác sĩ và bệnh nhân
|
Tại
Ṭa Nhà Hiểu Biết, các học giả Hồi giáo
đă chuyển dịch hàng ngàn tác phẩm, mở
đầu các công tác trí thức. Một trong các nhà
bác học của ṭa nhà kể trên là Hunayn ibn Ishaq,
dịch giả của nhiều tác phẩm của
Galen. Sinh ra tại Hira thuộc miền tây của
xứ Ba Tư, ông Hunayn đă theo học y khoa tại
Baghdad dưới sự hướng dẫn của
một vị bác sĩ đă từng giảng dạy
tại trường y khoa Jundishapur, một nơi đă
tạo nên các ảnh hưởng sâu sắc tới
nền y học Hồi giáo. Một hôm Hunayn đă
hỏi thầy dạy các câu hỏi khó trả
lời, khiến cho ông thầy nổi giận, đuổi
Hunayn ra khỏi lớp học. Cậu sinh viên này do
bất măn, đă theo học nhiều vị giáo sư
khác, học thêm tiếng Hy Lạp và được các
học giả mướn đi t́m kiếm các tác
phẩm y học của Galen đang bị thất
lạc. V́ mục đích này, Hunayn đă đi
tới thành phố Damascus, tới miền Mesopotamia, các
xứ Palestine, Ai Cập và Syria.
Về sau Hunayn được nhận làm phụ tá cho
vị y sĩ của giáo chủ Ma'mun rồi từ
đây phụ trách "Ṭa Nhà Hiểu Biết"
để trông coi tất cả các bản dịch
thuật. Với sự trợ giúp của người
con trai, người cháu và khoảng 90 đệ
tử, học giả Hunayn và các người cộng
tác đă sản xuất được các tác
phẩm chuyển ngữ rất chính xác và quan
trọng. Đầu tiên, các tác phẩm này được
dịch sang tiếng Syriac là ngôn ngữ mà ông Hunayn
rất giỏi, rồi sang tiếng Ả Rập để
sau vài thế kỷ, được chuyển đổi
sang tiếng La Tinh và truyền qua phương tây qua
ngả Sicily và Tây Ban Nha.
Công tŕnh của học giả Hunayn và các giáo sư
đạo Hồi khác đă là nền móng của
nhiều bộ môn khoa học hiện nay, đặc
biệt là ngành Y Khoa. Những nhà trí thức này đă
được vị giáo chủ đánh giá cao đến
nỗi rằng theo chuyện kể, ông Hunayn được
trả công bằng số vàng cân nặng ngang với
số sách. Ngoài các công tŕnh phiên dịch, học
giả Hunayn c̣n viết ra nhiều cuốn sách
thuộc bộ môn Nhăn Khoa (ophthalmology).
Vào thời Trung Cổ, phần lớn các y sĩ
Ả Rập là các người gốc Ba Tư, trong
số này nhân vật danh tiếng nhất là ông Razi, có
tên La Tinh là Rhazes, đă viết ra hơn 200 cuốn sách
từ bộ môn Y Khoa tới thuật Giả Kim
(alchemy), Thiên Văn và Thần Học. Ông Razi sinh
sống trong khoảng thời gian từ năm 865
tới năm 925. Nhiều người của thời
đại này đă gọi ông là "vị Y Sĩ
nhiều kinh nghiệm" và trong cách trị bệnh,
ông Razi được coi như ngang hàng với
Hippocrates. Ông Razi đă khuyên cách điều trị
bệnh nhân bằng việc nghỉ ngơi, môi trường
dưỡng bệnh phải sạch sẽ và phải
giữ cho bệnh nhân được thoải mái. Dù
cho không hề biết tới vi trùng, ông Razi đă
đề cập tới các nguyên tắc vệ sinh.
Trong công việc chọn lựa nơi xây dựng
một bệnh viện cho thành phố Baghdad, ông Razi
đă treo các miếng thịt sống tại nhiều
nơi và đă lựa nơi nào có miếng thịt
bị hư thối chậm nhất.
Trong bộ sách đồ sộ 100 cuốn viết
về Y khoa, ông Razi đă biên tập nhiều hiểu
biết từ các nhà lương y người Hy
Lạp, Syria, Ba Tư, Ấn Độ và Ả
Rập, và các tác phẩm này đă ảnh hưởng
sâu rộng tới nền Y Khoa Tây Phương.
Một nhân vật cũng có danh tiếng như ông
Razi tên là Ibn Sina, với tên La Tinh là Acevina, sống
trong các năm từ 980 tới 1037. Người
thời bấy giờ gọi ông là "Hoàng Tử
của các nhà Triết Học" (the Prince of
Philosophers) và cho tới ngày nay, ông Acevina vẫn c̣n
được coi là một trong các bộ óc lớn
lao của mọi thời đại. Người ta c̣n
kể lại rằng khi lên 10 tuổi, ông Acevina
thuộc ḷng quyển kinh Koran, 18 tuổi trở thành y
sĩ riêng của vua Hồi giáo tại Bukhara trong
xứ Turkestan. Ông Acevina đă viết xong 170 cuốn sách
về Y Khoa, Triết Học, Toán Học, Thiên Văn,
Thơ Phú và Tôn Giáo. Tác phẩm danh tiếng nhất
của ông tên là "Các Quy Tắc của Y Khoa"
(Canon of Medicine), một bộ sách bách khoa đề
cập tới mọi cách trị bệnh. Không một
tác phẩm nào được nhiều người dùng
tới hơn cuốn sách này bởi v́ trong suốt
chiều dài 6 thế kỷ, từ thế kỷ 12
tới thế kỷ 17, các trường đại
học của châu Âu đă dùng bộ sách 5 cuốn này
làm căn cứ. Ông Acevina c̣n nhận ra bản
chất lây lan của bệnh lao phổi, ông cũng mô
tả các bệnh ngoài da, bệnh xáo trộn tâm lư,
bệnh tương tư và ông c̣n cho rằng các
bệnh tật truyền đi do nước và đất.
Một học giả khác rất danh tiếng là
vị y sĩ người Tây Ban Nha tên là Ibn Rushd, có tên
viết theo tiếng La Tinh là Averroes. Học giả này
đă viết nhiều sách về Y Khoa, Luật Khoa,
Triết Học và Thiên Văn, và do tài năng đa
diện, ông Averroes này đă vừa là y sĩ chính
của vua Abu Yaqub Yusuf, nhà cai trị xứ Tây Ban Nha
từ năm 1163 tới năm 1184, vừa là quan ṭa
tại hai thành phố Seville và Cordoba. Hơn nữa ông
Averroes c̣n được người đời
biết tới do là một trong những học
giả quan trọng viết về nhà triết học
Hy Lạp Aristotle, nhờ các bài khảo luận
của ông liên quan tới các nhà tư tưởng Hy
Lạp mà người phương Tây đă chú ư
đến nền Triết Học này, và như
vậy ông đă đóng góp vào công cuộc phổ
biến các tư tưởng triết học của
châu Âu.
Ảnh hưởng tới thế giới Tây Phương
c̣n do một y sĩ Do Thái khác sinh ra tại Tây Ban Nha,
là ông Ibn Maymun, có tên khác là Maimonides. Ông này đă
viết sách Y Khoa, Thiên Văn, Thần Học,
Triết Học và cũng là y sĩ triều đ́nh
của vua Saladin, vị vua Hồi giáo của hai xứ
Ai Cập và Syria vào thế kỷ 12. Người đời
sau ca tụng trí khôn ngoan và tầm hiểu rộng
của ông do cuốn sách Triết Học "Hướng
dẫn những người chưa xác tin" (Guide for
the Perplexed). Đây là một khảo luận Triết
Học làm ḥa hợp các tư tưởng tôn giáo
với các lời giảng dạy khoa học của
Aristotle. Trong các tác phẩm viết về Y Khoa,
học giả Maimonides đă b́nh luận về hai danh
y Hippocrates và Galen, ngoài các nhận xét riêng của ông
với phần lớn về vệ sinh cá nhân và
chế độ ăn uống.
Mặc dù ngành giải phẫu bị coi là một
phần nhỏ của Y Khoa, các y sĩ đạo
Hồi cũng làm phát triển ngành này. Bị lăng quên
cho tới thế kỷ 10, lương y Abulcasis sinh trưởng
tại xứ Tây Ban Nha, đă viết sách giải
phẫu căn cứ vào công tŕnh của vị y sĩ
Hy Lạp Paul of Aegina và trong các tác phẩm của ông
có nhiều h́nh vẽ mô tả các dụng cụ và
phương pháp giải phẫu.
Vào thời kỳ văn minh đạo Hồi, các y sĩ
đă thực hiện được nhiều ca
giải phẫu rất phức tạp đối
với thời bấy giờ, gồm cả mổ óc,
mổ mạch máu và phần bụng, cắt bỏ tay
và chân bị bệnh. Danh y Acevina đă khuyên nên
cắt đi các tế bào bị ung thư vào thời
kỳ sơ khởi. Trong khi giải phẫu, các y sĩ
đạo Hồi đă gây mê bệnh nhân bằng cách
dùng thuốc phiện, đôi khi lại trộn
với rượu để làm cho liều thuốc
mạnh hơn. Ngoài ra chuyện c̣n kể rằng có
nhà hóa học đă khám phá ra một chất gây mê
khiến cho bệnh nhân bất tỉnh trong 7 ngày và v́
sự nguy hiểm lớn lao này mà nhà hóa học
kể trên đă mang theo bí mật khi qua đời.
Vào thời kỳ văn minh Hồi giáo, các y sĩ
giải phẫu phải học lư thuyết Y Khoa
của Galen, phải đậu kỳ thi về cơ
thể học và học chuyên môn về một ngành.
Một bác sĩ mắt ngoài tầm hiểu biết
về con mắt, c̣n phải biết pha chế vài
hợp chất trị bệnh đau mắt. Có lẽ
do cát bụi nơi sa mạc nên các y sĩ đạo
Hồi rất giỏi về cách chữa mắt trong
thời Trung Cổ, họ đă viết ra nhiều sách
Nhăn Khoa, phát minh ra cách cắt màng mắt (soft cataract)
cũng như nhiều dụng cụ y khoa khác.
Việc chữa bệnh bằng thuốc men cũng
rất tiến bộ. Nhiều y sĩ đạo
Hồi biết điều chế các liều thuốc
và tại thành phố Baghdad đă có các hiệu
thuốc tây chế thuốc theo toa của y sĩ. Các
loại thuốc này làm từ cây cỏ và sinh vật
và cũng từ những khoáng chất như sulphate
đồng dùng làm chất cầm máu và làm lành
vết thương.
Người theo đạo Hồi thời đó đă
coi thuốc men là nguy hiểm nên trong ngành thuốc có
loại nhà thanh tra theo dơi việc bào chế các
thuốc chữa bệnh, kiểm soát cả sự
sạch sẽ của các chai lọ đựng
thuốc. Dù cho dược sĩ không biết khi nào viên
thanh tra tới kiểm soát nhưng vẫn có các
vụ gian lận, vụ bán ra các thứ thuốc
giả và đă có các h́nh phạt đối với
những người phạm pháp.
Nhà cầm quyền đạo Hồi cũng đ̣i
hỏi các y sĩ phải có bằng cấp. Vào năm
931, một công dân của thành phố Baghdad bị
chết do nhầm thuốc, v́ thế vua Hồi giáo
Muqtadir đă ra lệnh cho lương y của
triều đ́nh Sinan Ibn Thabit kiểm tra tất cả
y sĩ và 860 người hành nghề y khoa đă
phải qua kỳ thi, dù cho vẫn có các sơ sót. Các
y sĩ có giấy phép phải điều trị
bệnh nhân tại bệnh viện giống như
hiện nay. Qua thế kỷ 9, thành phố Baghdad xây
dựng bệnh viện đầu tiên theo kiểu
mẫu của bệnh viện trong trường y khoa
Jundishapur và các địa phương khác cũng
bắt chước, nhờ vậy đă có 34 bệnh
viện trong thế giới Hồi giáo. Vài bệnh
viện rất tiến bộ do có các chuyên ngành để
chữa trị vài thứ bệnh đặc biệt,
chẳng hạn chữa các người loạn trí, và
các người bị thương nhẹ được
cho về nhà sau khi chăm sóc tại bệnh viện.
Bệnh viện của đạo Hồi c̣n có thư
viện chứa nhiều sách y khoa.
Vào thế kỷ 11, đă có các bệnh viện lưu
động nhờ đoàn lạc đà đi tới
các làng mạc và các nơi hẻo lánh. Khi tới
một địa điểm chữa bệnh, các bác
sĩ dựng lều rồi khám bệnh và cho
thuốc. Vào thời kỳ có các bệnh dịch, các
bệnh viện lưu động này rất hữu ích
trong việc chữa trị.
2/ Ngành Hóa Học và các ngành khác.
Ngoài các đóng góp quan trọng trong ngành Y Khoa, các nhà
khoa học Hồi giáo c̣n đặt nền móng cho ngành
Hóa Học. Nhiều kỹ thuật và danh từ đă
được phát minh từ môn giả kim (alchemy)
của thời Trung Cổ. Nhà giả kim học danh
tiếng nhất của vua Hồi giáo Harun, tên là Jabir
Ibn Hayyan đă tin tưởng rằng mọi hợp
chất có căn bản là thủy ngân và lưu
huỳnh (sulphur) và ông này đă tốn nhiều công
sức để t́m cách chế ra vàng và bạc. Ông
Jabir đă khám phá ra nhiều kỹ thuật mới dùng
vào việc tinh lọc kim loại, chế tạo
phẩm nhuộm, dùng dấm để tạo nên acít
acêtic và làm ra thủy tinh từ manganese dioxide. Ông ta cũng
khảo sát nhiều hợp chất, biến nhiều
chất thành tinh thể... và các danh từ mà ông Jabir
xử dụng đă được truyền qua ngôn
ngữ của châu Âu, chẳng hạn như alkali,
alembic, antimony và aludel.
Sau khi ông Jabir qua đời, các nhà khoa học đạo
Hồi khác cũng đóng góp vào các công cuộc nghiên
cứu. Một trong những người này là y sĩ
Razi nổi danh về y khoa và thuật giả kim. Trong
số 12 cuốn sách viết về kỹ thuật sau
này, tác phẩm được nhiều người
nhắc nhở nhất là cuốn "Sách ghi các Bí
Mật" (The Book of the Secret of Secretes) có chủ đích
tŕnh bày thành phần hóa học của nhiều khoáng
chất. Ông Razi không chỉ mô tả các hóa chất và
các dụng cụ cần thiết trong một pḥng thí
nghiệm hóa học chẳng hạn như các loại
b́nh, đĩa thủy tinh (beakers, flasks, dishes) mà c̣n phân
loại sự vật theo sinh vật (animal), khoáng
vật (mineral), thảo mộc (vegetable)... và cách phân
loại này ngày nay c̣n được dùng tới.
Ngoài các đóng góp vào các phạm vi Y Khoa và Hóa
Học, các học giả đạo Hồi c̣n làm
tiến bộ ngành Toán Học bằng cách dùng các
quan niệm Toán của các xứ Ấn Độ và
Hy Lạp, khai triển và tinh lọc những ư
thức trừu tượng rồi sau này được
truyền qua thế giới Tây phương. Các toán
gia đạo Hồi đă áp dụng 3 dụng cụ
Toán căn bản là "số không" (zero), hệ
thống thập phân và hệ thống "số
Ả Rập" (Arabic numerals) nhờ đó mọi người
có thể tính toán bằng các con số lớn hơn
trước một cách tiện lợi hơn, hoặc
bằng các chữ dùng làm biến số. Khởi
đầu, các nhà toán học Ả Rập đă
viết ra số không bằng một ṿng tṛn nhỏ
với tên là "sifr" có nghĩa là "một
vật trống" (an empty object). Khi dịch sang
tiếng La Tinh, danh từ "sifr" trở nên
"zephyrum" rồi sang tiếng Ư là "zero".
Về sau danh từ tiếng Anh "cipher" có
nguồn gốc từ chữ "sifr".
|
Các
nhà toán học đạo Hồi cũng đă bỏ
nhiều thời giờ nghiên cứu các bài toán
phức tạp của các người Hy Lạp và
Ấn Độ trước kia, kể cả các khung
ô vuông con số (magic boxes) với cùng tổng số
cộng theo đường ngang, đường
dọc và đường chéo. Do áp dụng
"số không", các nhà toán học từ đó có
thể xử dụng các quan niệm trừu tượng,
diễn tả hiệu số của hai lượng
bằng nhau và số không c̣n được dùng trong
nhiều bộ môn khoa học khác như Vật Lư, Hóa
Học, Thiên Văn.
Nhà toán học đạo Hồi danh tiếng nhất
vào đầu thế kỷ 9 là ông Khwarizmi, rất
bận tâm về môn Đại Số (Algebra), đă
viết ra cuốn sách giáo khoa đầu tiên của môn
học này, với tên sách là "Nghệ Thuật mang
các ẩn số lại với nhau để hợp
với một lượng đă biết" (The art of
bringing together unknowns to match a known quantity = Hisab al-Jabr wa'l
Mulqabala). Sách toán của ông Khwarizmi được
dịch sang tiếng La Tinh vào thế kỷ 12, đă
mở đường cho môn Đại Số vào châu
Âu và cuốn sách này đă được dùng làm sách
dạy Toán chính thức cho tới thế kỷ 16.
Các nhà toán học đạo Hồi c̣n làm phát
triển và truyền qua châu Âu các bộ môn Toán
phức tạp, gồm cả môn H́nh Học Phẳng
(plane geometry), Lượng Giác Phẳng và Lượng
Giác Cầu (plane and spherical trigonometry) với các
kiến thức căn bản phát xuất từ các nhà
toán học Hy Lạp. Nhờ các khảo sát này, các nhà
khoa học thời đó đă tính ra khoảng cách
của các ngôi sao, tốc độ của một
vật rơi tự do, diện tích của một
thửa ruộng hay thể tích ngũ cốc chứa
trong một vựa lúa.
Một ngành mà bên trong Toán Học đă giữ
một vai tṛ rất quan trọng, đó là bộ môn
Quang Học. Nhà vật lư danh tiếng của bộ môn
này tên là Alhazen, người Ba Tư, sinh sống trong
thế kỷ 10. Cho tới thời bấy giờ, người
ta đều tin rằng con mắt phát ra các tia sáng
chiếu tới đồ vật, khiến cho chúng ta
nh́n rơ sự vật. Nhưng ông Alhazen đă dùng H́nh
Học để chứng minh rằng các tia sáng đă
từ đồ vật phản chiếu tới con
mắt.
|
Nhưng
có lẽ áp dụng Toán Học quan trọng nhất
của các nhà khoa học đạo Hồi là vào môn
Thiên Văn. Từ thời c̣n sinh
sống trong sa mạc, người theo đạo
Hồi đă đặc biệt quan tâm tới các hành
tinh và các ngôi sao bởi v́ họ đă theo hướng
của các thiên thể này mà đi qua sa mạc.
Họ đặt tên cho từng thiên thể trên
bầu trời và các tên gọi này vẫn c̣n tồn
tại cho tới ngày nay, chẳng hạn như
"Algol", "Betelgeuse" và "Vega". Sự
quan tâm về Thiên Văn thực sự bắt đầu
khi vua đạo Hồi
Harun al-Rashid ra lệnh dịch tác
phẩm thiên văn "Almagest" của nhà thiên văn
lừng danh người Hy Lạp Ptolemy.
Vào năm 830, một
đài thiên văn được dựng lên tại
thành phố Baghdad do vua Hồi giáo Ma'mun, cùng thời
với "Ṭa Nhà Hiểu Biết" (The House of
Wisdom). Tại đài thiên văn này, các nhà khoa
học đạo Hồi đă quan sát bầu
trời, kiểm chứng các khám phá của Ptolemy và t́m
ra các ngôi sao mới. Họ thường dùng kính
trắc vị (astrolabe), một dụng cụ của
người Hy Lạp trước kia, trên đó có ṿng
tṛn chia theo độ để tính vị trí của
các ngôi sao, chuyển động của các hành tinh và
cho biết thời giờ, và họ đạt
được các con số khá chính xác. Các nhà thiên
văn đạo Hồi đă vẽ ra các bản
đồ bầu trời và bản đồ địa
dư, nhờ vậy họ tin tưởng rằng trái
đất th́ tṛn, họ cũng t́m ra chu vi và
đường kính của trái đất.
Trong khi các nhà thiên văn lập ra các bản đồ
ngôi sao th́ các học giả khác cũng viết ra danh
sách các con đường, địa điểm các
thành phố cùng với khoảng cách. Các báo cáo
của các thương nhân đi xa đă mô tả
xứ Trung Hoa và xứ Ấn Độ vào năm 851 và
các du khách người Hồi đầu tiên tới nước
Nga vào năm 921, đă gửi về các bản báo cáo
gồm bên trong nhiều kinh nghiệm du lịch.
Một trong những du khách này là nhà khoa học Biruni,
đă đi tới xứ Ấn Độ vào thế
kỷ 11 và đă mô tả nhiều chi tiết.
Trong các học giả đạo Hồi, nhân vật
danh tiếng nhất là nhà Sử học Ibn Khaldun, người
đầu tiên cứu xét xă hội một cách khoa
học. Ông Khaldun không chỉ sưu tầm mọi
biến cố của quá khứ như những sử
gia đi trước, mà c̣n cố gắng t́m ra các
định luật hữu lư để cắt nghĩa
các cách hành xử của con người và nhờ
vậy khiến cho Lịch Sử có được
một chiều hướng mới. Trong cuốn
lịch sử tổng hợp Muqaddimah, Sử Gia Khaldun
đă tŕnh bày lư thuyết đầu tiên về
sự phát triển theo quan điểm sử học căn
cứ vào các yếu tố như khí hậu, địa
dư và kinh tế cũng như các ảnh hưởng
từ luân lư và tinh thần tới vận mệnh
của con người.
Giống như nhiều nhà tư tưởng đạo
Hồi, ông Ibn Khaldun đă đi du lịch nhiều nơi,
làm bí thư cho nhiều ông hoàng, làm đại
sứ tại nhiều triều đ́nh ở Tây Ban Nha
và châu Phi, v́ vậy ông đă phối hợp tầm
hiểu rộng của ḿnh vào các hoạt động
chính trị, đă đưa ra các nhận xét sâu
sắc do quan sát các xáo trộn chính trị. Khi nh́n
thế giới Hồi giáo đi xuống vào thế
kỷ 14, học giả Ibn Khaldun đă nêu lên
những vấn đề quan trọng khiến cho các
xă hội trở nên mạnh lên hay yếu đi.
Học giả này đă nói rơ sự suy tàn của xă
hội sau 2 hay 3 thế hệ ích kỷ và ham thích sa
hoa, và tác phẩm Muqaddimah đă hàm chứa các
hiểu thấu không những của thời đại
tác giả mà c̣n của các thời đại về
sau.
Nền văn minh và văn hóa của đạo
Hồi đă suy tàn do cuộc xâm lăng của quân Mông
Cổ đánh chiếm thành Baghdad vào năm 1258, do các
nhân vật Hồi giáo chính thống (orthodox Muslims)
trong các thế kỷ về sau đă dùng quyền
lực và uy tín để chống lại các cải cách
và tiến bộ.
Phạm
Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org., A History of the
Arab Peoples by Albert Hourani, MJF Books, N.Y. 1991.
Islamic Golden Age
https://en.wikipedia.org/wiki/Islamic_Golden_Age
Muqaddimah (Lịch Sử Tổng Hợp của Ibn
Khaldun)
https://en.wikipedia.org/wiki/Muqaddimah
|