Phi
hành đoàn Apollo 11: Neil A. Armstrong, Michael Collins và Edwin
Aldrin, tháng 07/1969.NASA/Handout via REUTERS
Ngày 21/07/1969, Neil Arsmtrong đă đặt
bước chân đầu tiên lên Mặt Trăng.
Với sự kiện này, Hoa Kỳ đă ghi một bàn
thắng lớn trong cuộc đua không gian với Liên
Xô. Năm mươi năm sau, báo chí Pháp ngày
18/07/2019 nh́n lại sự kiện lịch sử này và
tự hỏi : Đang dẫn đầu cuộc đua
không gian, v́ sao Liên Xô lại để cho Mỹ qua
mặt ?
Với hai bài viết, « Cuộc đua
thất bại của Liên Xô » và « Thất
bại bí mật của chương tŕnh Mặt Trăng
Liên Xô », Le Monde và Le Figaro không hẹn mà gặp, cùng
điểm lại chương tŕnh thám hiểm
Mặt Trăng của Liên Xô cách nay hơn nửa
thế kỷ.
Đầu tiên hết Le Monde khẳng
định : rơ ràng ban đầu Liên Xô đă bỏ
xa Hoa Kỳ trong cuộc đua không gian. Liên Xô là
quốc gia đầu tiên đưa một vệ tinh
lên quỹ đạo (04/10/1957). Hai năm sau, chỉ
trong ṿng vài tháng, Liên Xô lần lượt thực
hiện thành công các chương tŕnh thăm ḍ
Mặt Trăng qua các chuyến bay Luna-1 (tháng Giêng năm
1959), Luna-2 (13/09/1959) và Luna-3 (07/10/1959). Nhất là
với chuyến bay sau cùng, Liên Xô là quốc gia đầu
tiên chụp được ảnh phần khuất
của Mặt Trăng.
Tháng 8/1960, Sputnik-5 đưa thành công các
sinh vật sống trở về Trái Đất an toàn.
Một bước chuẩn bị quan trọng cho
chuyến du hành không gian đầu tiên của con người
một năm sau đó với sự tham gia của phi
hành gia Iouri Gagarine ngày 12/04/1961. Tháng 8/1962, hai phi
thuyền có người lái Vostok-3 và Vostok-4 được
phóng lên không gian cùng một lúc.
Ngày 16/06/1963, Liên Xô cũng là quốc
gia đầu tiên đưa phụ nữ lên không
gian. Ấn tượng nhất là sự kiện
18/03/1965. Alexei Leonov là người đầu tiên có
một bước đi ngoài vũ trụ. Với
ngần ấy chiến công,tại sao Liên Xô lại
để cho Hoa Kỳ qua mặt trong cuộc đua
chinh phục « chị Hằng » ?
Theo Le Monde, câu trả lời đơn
giản nằm ở bộ máy tuyên truyền, « chỉ
nói về những thành công ». Nhưng nếu nh́n
vào con số thống kê, « người ta hoảng
sợ trước những con số thất bại
về những lần phóng phi thuyền », theo như
khẳng định của ông Alain Cirou, đồng tác
giả tập sách Những con người của
Mặt Trăng (Seuil). Không ai biết rằng c̣n có
những cuộc phóng bị hỏng, động cơ
bị trục trặc, phi thuyền bị nổ tan tành
hay phi hành gia tử nạn… Người dân Nga bị
bưng bít mọi thông tin về những thất
bại.
Mặt khác, theo ghi nhận của Le
Figaro, Liên Xô vào thời kỳ đó không có một
chương tŕnh không gian hợp nhất. Nhiều cơ
quan nghiên cứu cạnh tranh và đấu đá nhau
để giành ngân sách. Chính sự thiếu đoàn
kết là nguyên nhân hàng đầu giải thích
thất bại của Liên Xô trong cuộc đua. Ngược
lại, ở phía bên kia trời Tây, Apollo của
Mỹ lại được chỉ đạo
nhất quán. Mọi việc đều do NASA quyết
định, kể cả trong việc chọn nhà
thầu cung cấp trang thiết bị.
Nhưng có lẽ vố đau nhất
cho Liên Xô là sự ra đi của ông Serguei Korolev, cha
đẻ của chương tŕnh không gian Liên Xô,
ở tuổi 59. Hai năm trong các trại cải
tạo đă làm cho sức khỏe của ông suy
yếu. Người kế nhiệm tuy có tài năng nhưng
không thể bắt kịp sự chậm trễ v́
thiếu ngân sách.
Apollo :
Những thành quả chưa được biết
đến
Nhật báo
Kinh tế Les Echos cũng nhân sự kiện này nói
đến « Những thành quả chưa được
biết đến từ chương tŕnh Apollo
của Mỹ ».
Đầu
tiên hết, nhật báo kinh tế khẳng định
Apollo 11 là một thắng lợi chính trị to
lớn của Hoa Kỳ đối với Liên Xô trong
cuộc đua khó khăn nhất của lịch
sử. Nhưng không chỉ có yếu tố chính
trị, đứng trên góc độ khoa học, Apollo
11 c̣n là một bước vọt công nghệ không
gian. Với chương tŕnh này, NASA có thể
hiệu chỉnh những kỹ thuật cho các
chiếc phi thuyền, mở đường cho
thời đại phi thuyền con thoi Mỹ và các
trạm không gian quốc tế, cũng như là mang
lại hy vọng thám hiểm nhiều hành tinh khác
của Thái Dương hệ, bắt đầu
từ sao Hỏa.
Những
mẫu đất đá mang về c̣n giúp giải mă
về sự ra đời của Mặt Trăng. Theo
đó, chính sự va chạm dữ dội giữa Trái
Đất và một vật thể lạ có kích
cỡ bằng hành tinh Sao Hỏa, ước tính
xảy ra cách nay 4,5 tỷ năm, đă khai sinh ra « chị
Hằng » ngày nay.
Các phi
thuyền của nhiệm vụ Apollo 11 c̣n là những
phi thuyền đầu tiên được gắn máy
vi tính có trang bị những con chip điện tử
và các lập tŕnh tin học do viện Công nghệ
Massachusetts thiết kế. Apollo 11 đă tạo một
sức bật mạnh mẽ cho ngành tin học sau này.
Cuộc
chinh phục « Hằng Nga » cũng đem lại
nhiều lợi thế cho ngành y, từ cải
thiện kỹ thuật chụp ảnh y khoa, kỹ
thuật lọc thận hay các thiết bị đo
nhịp tim, cho đến cả việc cải
tiến tă lót cho trẻ nhỏ sau này….
«
Bông hồng đen » thầm lặng của Apollo 11
Nhưng
theo La Croix, nói đến thành công của Apollo 11, người
ta cũng nên nhắc đến vai tṛ quan trọng
của một nhà toán học người Mỹ
gốc Phi : Bà Katherine Johnson.
Trong bài
viết có tựa đề « Trong bóng tối,
một thiên tài số học », La Croix phác
họa lại chân dung bà Katherine Johnson, sắp mừng
sinh nhật thứ 101 vào cuối tháng 8/2019. Mười
tám tuổi bà đă có bằng đại học
về toán và tiếng Pháp, trường đại
học West – Virginia, chủ yếu dành cho người
da mầu.
Sau một
thời gian dạy toán, bà được mời tham
gia chương tŕnh không gian của NASA trong những năm
1958 trở đi, vào thời điểm NASA bắt
đầu cấm phân biệt chủng tộc. Tài năng
tính toán các quỹ đạo bất biến của bà
chính xác đến mức John Glenn, phi hành gia người
Mỹ đầu tiên bay ṿng quanh Trái Đất, trước
khi cất cánh đă yêu cầu bà kiểm chứng
lại bằng tay quỹ đạo bay do máy tính IBM
đưa ra.
Nhà toán
học này chỉ mất có hai ngày để xác
nhận các con số. Bà tiếp tục cộng tác
với NASA cho đến khi về hưu vào năm
1986. Cuộc đời của bà đă mang lại
nhiều cảm hứng cho cả một thế hệ
người da mầu, chứng tỏ vị thế
của những phụ nữ gốc Phi trong ḷng
một xă hội Mỹ kỳ thị chủng tộc
trong những năm 1950.
***
Nhân
Kỷ niệm 50 năm
ngày con người đặt chân lên mặt
trăng
Vài
chuyện lượm lặt về Apollo 11
Đỗ Quân
Ngày 20 tháng 7 này, nhân
loại kỷ niệm 50 năm những dấu chân
đầu tiên của nhân loại được
đặt trên Nguyệt cầu.
Thời Báo, cũng như nhiều tổ chức
thông tấn đã có nhiều bài về
chủ đề này tuần trước. Chuyện
Mỗi Tuần kỳ này lượm lặt
và bổ túc vài chuyện ít người
kể về Apollo 11.
Tự ái cá nhân, tự
ái quốc gia
“Chúng ta có cơ hội đánh bại Liên Xô
bằng cách đưa một pḥng thí nghiệm lên không
gian, hoặc bằng một chuyến đi ṿng quanh
Mặt trăng, hoặc bằng một hỏa tiễn
để đáp xuống Mặt trăng, hoặc
bằng một hỏa tiễn để đưa một
người lên Mặt trăng và quay trở về.
Có chương tŕnh không gian nào khác hứa hẹn
mang lại kết quả đầy ấn tượng
mà chúng ta có thể chiến thắng không?”
J.F.Kennedy
Vị Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ
viết như trên trong memo gửi cho phó Tổng
thống Lyndon B. Johnson ngày 20
tháng 4 năm 1961.
Không ít người cho rằng ông Kennedy chẳng
mặn mòi gì với chương
trình không gian cả. Ông chỉ cay cú vì mới
4 tháng sau khi nhậm chức, ông đã
bị cả thế giới cười
vào mặt đến hai lần.
(Trước đó, ông Kennedy đã từng
viết trên một tạp chí: “Chúng ta đang
ở trong một cuộc chạy đua chiến
lược (trên) không gian với người
Nga, và chúng ta đang thua. Nếu có một
người bay quanh quỹ đạo Trá̀i
đất năm nay, tên của anh ta sẽ là
Ivan.” Và ông đã đúng. Lần
thứ nhất, khi vũ
trụ gia Yuri Gararin trở thành người
đầu tiên bay quanh Trái đất và trở
về hôm 12 tháng 4 năm 1961. Phi hành gia Alan
Sheppard của Mỹ cũng lên trời gần
một tháng sau đó, nhưng chuyến bay
của Sheppard không phải vào một quỹ đạo
quanh Trái đất, và rất ngắn so với
chuyến bay của Gagarin.)
Lần thứ hai một tuần sau đó,
lực lượng lưu vong Cuba,
được Hoa kỳ ủng hộ và yểm
trợ, đổ bộ vào Vịnh Con Heo,
đã đầu hàng quân Cuba chỉ sau ba
ngày.
Hôm 25 tháng 5 năm 1961, lúc 12:30
chiều, Tổng thống John F. Kennedy JFK đọc một
bài diễn văn dài 46 phút trước
các Dân biểu và Nghị sĩ Hoa kỳ.
Bài diễn văn đó, được
truyền hình và truyền thanh đi khắp
nước và cả thế giới, đã
thay đổi lịch sử thám hiểm không
gian của nhân loại.
“…quốc gia này phải dốc toàn lực
để đạt đến mục tiêu đưa
được một người lên Mặt
Trăng và trở về Trái Đất an
toàn, trước cuối thập niên
này.”
Cuộc chạy đua lên Mặt
Trăng: Phải
có tiền mới mua được tiên
Ngày Chương trình không gian Apollo không
phải tới thời của ông Kennedy mới
bắt đầu. Chương trình, còn
gọi là Dự án Apollo, là
chương trình không gian thứ ba của
Mỹ ra đời thời TT Eisenhower. Nhưng
phải đến thời Kennedy, với sự
cay cú của ông tổng thống, mới
được cấp đầy đủ kinh
phí để giúp nó đạt
được mục tiêu.
Kennedy đã chấp thuận tăng
89% ngay lập tức ngân sách của NASA (Cơ quan Hàng
không và Không gian Quốc gia) và năm sau tăng lên thêm
101%. Với việc đổ tiền thêm
vào chương trình, Project Apollo trở thành cuộc
huy động tài nguyên và nhân lực trong thời b́nh
tốn kém nhất mà Hoa Kỳ từng
được thực hiện để theo đuổi
một mục tiêu cụ thể. Chi phí tổng cộng
được ước tính của chương
trình Apollo lên đến 24 tỷ
đô la, tính theo thời giá ngày nay
là hơn 175 tỷ).
Số tiền khổng lồ đó
đã đổ vào việc phát triển
và sản xuất các hỏa tiễn, phi thuyền,
máy tính, hệ thống điều khiển từ
mặt đất và lương bổng cho khoảng
400.000 người cần thiết để đưa
chỉ đúng 12 người trên cung Hằng.
Người thứ ba
Đội phi hành của sứ mạng Apollo
11 có ba người: Chỉ huy trưởng
Neil Amrstrong, Hoa tiêu phần Điều khiển
và Dịch vụ (Command Module và Service Module /
CSM) có tên Columbia và Buzz Aldrin, hoa tiêu phần
đổ bộ Mặt trăng (Lunar Module / LM)
mang tên Eagle.
Là Hoa tiêu của phần Điều khiển, cấp
bậc của Collins chỉ thua có Neil
Amrstrong. Trong hệ thống của NASA, phi hành
đoàn vẫn được biết theo thứ
tự Armstrong, Collins và Aldrin. Nhưng số
phận, lại số phận, đã đưa
Collins xuống hạng ba và lịch sử nhắc
đến ông sau Aldrin, chỉ vì
Collins ở lại trên không gian, chỉ có
Armstrong và Aldrin bước xuống bề mặt
của Nguyệt Cầu.
Thực sự, nhiệm vụ của Collins
là lo cho tàu mẹ và sẵn sàng xuống
một quỹ đạo thấp hơn trong trường
hợp phần đổ bộ Eagle không đủ
sức lên đủ cao độ hẹn với
tàu mẹ, một nhiệm vụ quan trọng không
kém.
Trước khi phi hành đoàn rời khỏi Trái
đất, Deke Slayton, người phân bổ
nhiệm vụ của phi hành đoàn, đă hứa
với Collins rằng ngay khi Apollo 11 về nhà sẽ
đưa Collins quay trở lại danh sách xoay
vòng các chuyến bay để ông ta có thể
chỉ huy một sứ mạng và đặt
chân xuống Mặt trăng. Nhưng Collins đã
từ chối, nói rằng miễn là Apollo
11 thành công, đóng góp của ông cho lịch
sử đã hoàn tất.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho
tạp chí Time sau này, Collins đã
nói, “Nếu tôi nói rằng mình có cái ghế
tốt nhất trên Apollo 11 thì tôi nói dối trá
hoặc là một tên khờ. Nhưng tôi có
thể nói với sự trung thực hoàn toàn rằng
tôi rất vui mừng với cái ghế mà
tôi đã có. Tôi cứ nghĩ về John F.
Kennedy và huấn lệnh của ông ấy về
việc phải lên được Mặt trăng
vào năm 1970. Tôi và tất cả chúng tôi
đều nghĩ đến điều đó.
Và tôi là tấm vé trở về của Neil và
Buzz.
Bài diễn văn dự
phòng của Tổng thống Richard Nixon
Cuộc Đổ bộ lên Nguyệt Cầu rồi
trở về năm 1969 là chuyện chưa ai
từng làm. Sự kiện lại diễn
ra ở cách Trái đất
hơn 384 ngàn cây số, nếu lỡ
có chuyện gì trục trặc hay không may
xảy ra, việc tìm cứu là không thể
thực hiện được. Ngay cả trong
phim ảnh, và ở thời đại
này, khi khoa học đã tiến hơn
hàng trăm, hàng ngàn lần, việc
“cứu hộ” cũng vẫn còn là một
“mission impossible”, như trong cuốn phim The
Martian gần đây.
Thế cho nên cho cuộc đổ bộ này, ông Tổng
thống Mỹ thời đó Richard Nixon đã
thủ sẵn hai bài diễn
văn có nội dung trái ngược nhau. Một
bài dành để chào mừng –
bài mà người ta đã nghe, và một
bài phòng trường hợp xấu,
hai phi hành gia kẹt lại trên Cung Quảng.
Bài diễn văn dự phòng của ông
Nixon có đoạn: “Số phận
đã an bài rằng những người
đă lên Mặt trăng để khám phá trong ḥa b́nh
sẽ ở lại trên Mặt trăng để
nghỉ ngơi trong bình an. Những con người
dũng cảm này, Neil Armstrong và Edwin Aldrin, biết
rằng không có hy vọng được giải cứu,
nhưng họ cũng biết rằng có hy vọng cho
nhân loại trong sự hy sinh của họ. Hai người
này đang hy sinh cuộc sống của họ cho
mục tiêu cao cả nhất của loài người:
cuộc t́m kiếm sự thật và sự hiểu
biết. Họ sẽ được gia đ́nh và
bạn bè thương tiếc; họ sẽ
được đất nước của
họ thương tiếc; họ sẽ được
người dân trên thế giới thương
tiếc; họ sẽ được Bà Mẹ
Trái đất, người đã dám gửi
hai đứa con trai của ḿnh vào nơi vô định,
thương tiếc.”
Chút nữa thì xong
đời
Một chút xíu nữa, ông Nixon đã
phải nghẹn ngào đọc bài diễn văn
thảm thiết đó.
Số là sau khi thu thập một
số mẫu phẩm của Mặt trăng, chụp
một số ảnh và dựng cây cờ Mỹ,
Neil Armstrong và Buzz Aldrin trở lại LM và nhận
ra rằng một cái công tắc trên bộ
ngắt mạch quan trọng đă bị hỏng. Không
may, chính cái công tắc này lại có
nhiệm vụ khởi động động cơ.
Loay hoay một hồi, họ chào thua và …cố
ngủ trong khi chờ nhóm điều khiển sứ
mệnh ở Houston t́m ra cách sửa chữa.
Cuối cùng Aldrin hết chờ
nổi, ông đút cây bút của ḿnh vào bộ
máy để tạo ra một cái công tắc
tạm. Hai phi hành gia không ngờ rằng
màn “phát huy sáng kiến” này đă hữu
hiệu. Động cơ được khởi
động, đưa Aldrin và Armstrong rời
khỏi bề mặt Mặt trăng.
Đổi đời
Khi sắp sửa làm những chuyện
mạo hiểm, hoặc chỉ giản dị là
một chuyến xa nhà, người ta thường
nghĩ đến những người thân nếu
mình có mệnh hệ nào.
Lên Cung trăng, tham gia một chuyến
đi xa xôi và mạo hiểm chưa từng
có trong lịch sử, ba người trong
phi hành đoàn của Apollo 11 đã không
đủ tiền để mua bảo hiểm sinh
mạng cho phi hành gia. Lương của
các phi hành gia thời đó là từ
17 ngàn đến 20 ngàn đô la một năm
(tương đương với mức lương
của các phi hành gia ngày nay – 120 ngàn)
tính theo thâm niên. Không có trợ cấp
nguy hiểm hay độc hại.
Neil Armstrong, Buzz Aldrin và Mike Collins đã
nghĩ ra cách để lo cho gia đình một
khi chuyện xấu nhất đến. Trước
ngày lên đường, trong thời gian cô
lập trước chuyến bay, họ ký
hàng trăm chữ ký gửi cho một
người bạn. Trong trường hợp
họ không trở về, hoặc một tai
nạn xảy đến với họ, người
bạn này sẽ gửi số kỷ vật
này đến cho gia đình họ. Thân nhân
của các phi hành gia có thể kiếm
được ít nhiều từ việc
bán chữ ký của phi hành đoàn
Apollo 11.
Khi họ trở lại Trái đất,
trở thành những người nổi
tiếng nhất hành tinh này.
Ở xứ Mỹ, sự nổi tiếng
rất có giá. Và họ nhanh chóng sử
dụng sự nổi tiếng để làm
ra tiền. Trước Apollo 11, sau khi bị
cảm lạnh trong sứ mạng Apollo 7, phi
hành gia Wally Schirra xuất hiện trên các
quảng cáo thuốc trị nghẹt mũi.
Buzz Aldrin đă có mặt trong mọi thứ
quảng cáo, từ bảo hiểm, xe hơi đến
cháo yến mạch.
Các phi hành gia cũng có được chi một
khoản tiền theo một thỏa thuận của
NASA với tạp chí ảnh Life.
Khi họ rời khỏi chương tŕnh không gian,
nhiều phi hành gia đă được các
kỹ nghệ săn đón đưa vào các
vị trí điều hành có lương cao.
Những người khác trở thành những khuôn
mặt trên truyền h́nh hoặc kiếm tiền
qua việc xuất hiện ở các sự
kiện và chứng thực (endorse) các
sản phẩm.
Hiệp thông trên Mặt
trăng
Ai cũng biết rằng chuyện những người
đầu tiên đáp xuống Mặt trăng là
một sự kiện toàn cầu, và chắc chắn
là sẽ được cả thế giới
theo dơi. Vì thế, NASA đã yêu cầu các phi
hành gia trên con tàu Apollo 11 không thực hiện
bất kỳ hoạt động tôn giáo nào để
tránh bị hiểu là xúc phạm, lăng
mạ hoặc cô lập phần c̣n lại của
thế giới.
Theo phi vụ lệnh, khi đă hạ
cánh an toàn trên Mặt trăng, Armstrong và Aldrin phải
chờ một lúc trước khi mở
cửa chiếc Eagle. Lúc đó, Buzz
Aldrin đã làm một việc bất ngờ.
Ông mở máy liên lạc với Trái
đất và ngập ngừng, “Tôi
muốn xin một vài phút im lặng. Tôi muốn
mời từng người đang lắng nghe,
ở bất cứ nơi nào và có thể
là bất cứ ai, cùng suy ngẫm một
lúc về các sự kiện đã diễn
ra trong vài giờ qua và tạ ơn theo cách riêng
của mình”.
Sau đó, ông lấy ra một bình rượu
vang nhỏ và bánh ḿ mà ông đã mang lên không gian.
Ông rót rượu vào chén thánh mà nhà
thờ Presbyterian của ông đă tặng, đọc
đoạn Tin mừng trong Sách của Thánh
John: “Ta là gốc nho, các người
là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta
trong họ thì sinh ra lắm trái; vì
ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi
được.”(John 15:5)
Neil Armstrong kính cẩn im lặng theo dơi
nhưng không tham gia.
Buzz Aldrin trở thành người đầu
tiên tham gia vào nghi thức rước lễ của Cơ
đốc giáo trên Mặt trăng.
Chuyện này có hai dị bản, nhưng
đã diễn ra. Có nguồn cho rằng
Aldrin đã lén lút mang rượu
và bánh lên Nguyệt cầu trong lúc có
nguồn khẳng định ông đã
được NASA cho phép.
Aldrin không phải là phi hành gia duy nhất đã
trải nghiệm các nghi lễ tôn giáo trong không gian. Năm
1994, ba phi hành gia Công giáo đă rước lễ trên
tàu con thoi Endeavour. Phi hành gia người Israel Ilan
Ramonreported đă đọc kinh cầu nguyện Shabbat
Kiddush của người Do Thái trong không gian (ông
này thiệt mạng khi tàu con thoi
Columbia phát nổ năm 2003). Phi hành gia người
Nga Sergei Ryzhikov đă đem một thánh tích của St.
Serafim of Sarnov, một vị thánh Chính thống giáo
Nga, lên vũ trụ vào năm 2017.
Mùi
của Chị Hằng
Trong truyện thần thoại Tây phương,
các vị tiên thường được
thấy rắc những hạt bụi trăng
sao lấp lánh. Ba phi hành gia của Apollo 11
là những người đầu tiên
được thưởng thức mùi
vị của những hạt bụi thần tiên
đó, bụi của Chị Hằng.
Khi di chuyển và làm việc – thu thập
các mẫu vật đất đá, những
bộ đồ không gian và giày của
họ bị bám bụi Mặt trăng. Lúc
đã trở vào bên trong chiếc Eagle, gỡ
mũ ra, họ bị bụi bám đầy tay
và mặt. Các phi hành gia nhận
xét rằng khi những hạt bụi tồn
tại hàng tỷ năm này tiếp xúc với
dưỡng khí bên trong LM, chúng phát ra một
mùi khét khói chịu, khét như thuốc
súng cháy. Nhiều phi hành gia của các
chuyến Apollo sau đó cũng thấy như vậy.
Neil Armstrong mô tả mùi hương
của Chị Hằng giống như mùi tro
ướt trong ḷ sưởi. Cái mùi
lạ lùng này nay vẫn c̣n là một bí
ẩn v́ bụi trên mặt trăng và thuốc súng
không có các hợp chất tương tự với
nhau.
Từ
Apollo đến Artemis, từ nỗi cay cú
của Kennedy đến nỗi cay cú của
Trump
Trong thần thoại Hy lạp, Apollo
là vị thần mặt trời.
Tất cả các phi hành gia của chương
trình này đều là nam giới.
Chương trình hiện nay của NASA
được đặt tên là Artemis,
theo tên của người em gái song sinh của
Apollo, bà này là nữ thần
Mặt trăng.
Như cái tên, chương
trình Artemis sẽ đưa một phụ nữ
(cùng với một người đàn
ông) lên Mặt trăng vào năm 2024.
Trong 15 năm qua, mục tiêu của NASA đã thay
đổi từ Mặt trăng sang Hỏa tinh.
Nhưng rồi với quyết định
của Tổng thống Trump, điểm đến
gần nhất của NASA lại phải trở
về với Mặt trăng.
Lệnh của ông Trump – phải đưa bằng
được người Mỹ trở
lại Mặt trăng vào năm 2024,
được cho là xuất phát từ
ý muốn tranh đua với Trung cộng. 2024
là năm chót của nhiệm kỳ tổng
thống thứ hai của ông Trump (nếu ông thắng
cử).
Có thể đúng là như thế, Trung cộng
đã đưa được thám xa lên Mặt
trăng năm 2013, năm 2018. Rồi đến năm
2019, họ hạ cánh chiếc Hằng Nga 4 xuống
mặt bên kia của Chị Hằng. Kế
hoạch của họ là đưa người
Nguyệt Cầu “trong vòng 10 năm tới”,
tức là khoảng 2019 – 30.
Đỗ
Quân (lượm lặt)
|