Kênh Đào Panama

Phạm Văn Tuấn

1- Kênh Đào Suez.

Từ 4,000 năm về trước, người Ai Cập đă có ước mơ mở một kênh đào trên dải đất Suez khi Vua Pharaoh cho đào một con kênh đầu tiên nối gịng sông Nile với hồ lớn Bitter. Cũng v́ chưa có kênh đào Suez nên trong nhiều thế kỷ, việc thương mại của miền Trung Đông với châu Âu phải đi qua phần đất liền của châu Á rồi sau đó, các con tầu biển chở hàng hóa từ Hồng Hải đă phải dương buồm qua mỏm cực nam của châu Phi để đi tới biển Địa Trung Hải.

Tới năm 1858, một viên kỹ sư người Pháp tên là Ferdinand de Lesseps, nhờ là bạn của Phó Vương Ai Cập Sa'id Pasha, nên đă giành được quyền tổ chức một công ty có mục đích đào một con kênh nhân tạo. Ngày 17-11-1869, kênh đào Suez đă được khánh thành tại hải cảng đầu tiên ở phía bắc là Hải Cảng Said (Port Said), được đặt bằng tên của Phó Vương Sa'id Pasha.

Kênh đào Suez dài 163 cây số, gấp hai lần chiều dài của kênh đào Panama, với 123 cây số hai bên bờ được xây tường thành bằng đá và xi măng để tránh bị sụp lở và chỉ có 39 cây số gịng kênh đi qua các hồ nước được nạo vét dưới đáy.

Gịng kênh Suez có chiều sâu 20 mét và chiều ngang di chuyển được giữa các phao nổi là 180 mét. Tầu thuyền có thể di chuyển hai chiều tại 4 đoạn kênh dài hơn 67 cây số. Các con tầu biển thật lớn với độ ch́m (draught) tới 16 mét đều có thể đi qua kênh đào Suez. Chỉ các tầu thật lớn khi di chuyển trên kênh đào mới cần tới tầu kéo và thời gian mất từ 12 tới 18 giờ. Để tránh các tai nạn có thể xẩy ra, các tầu thuyền phải di chuyển với tốc độ cố định, cách khoảng trước sau và hai bên cố định. Các đoàn tầu được tính toán cẩn thận để chạy ngược chiều nhau trên hồ lớn Bitter.

Mỗi ngày, trên kênh đào có hai đoàn tầu đi từ phía nam lên mạn bắc và một đoàn tầu đi từ phía bắc xuống, với tổng số tầu bè qua lại vào khoảng 80 chiếc. Hàng năm, có vào khoảng 20,000 con tầu chuyên chở từ 300 tới 400 triệu tấn hàng, với một nửa là tầu chở dầu và chở hàng hóa.
Tầu đi lên mạn bắc chở theo dầu lửa từ Vịnh Ba Tư để tới các nước Tây Âu, c̣n xuôi về nam là các con tầu chở sản phẩm kỹ nghệ và ngũ cốc, từ châu Âu và Bắc Mỹ, để đi tới miền nam châu Á và Viễn Đông. Ngoài ra c̣n có các con tầu chiến và tầu du lịch viễn duyên. Nhờ có kênh đào Suez, con đường biển từ thành phố London, nước Anh, tới thành phố Bombay, Ấn Độ, đă tiết kiệm được 11,670 cây số so với hải lộ qua Mũi Hảo Vọng của Nam Phi.

Kênh đào Suez dài gấp hai lần kênh đào Panama nhưng lại dễ thực hiện hơn nhiều v́ đi qua một miền đất bằng phẳng, ngang với mặt nước biển nên không cần loại cửa cống khóa nước (lock).

2- Thời Kỳ Đầu Của Kênh Đào Panama.

Nhà thám hiểm Tây Ban Nha tên là Vasco Nunez de Balboa là người đầu tiên đă khám phá ra eo đất Darien mà sau này được gọi là eo đất Panama. Ông Balboa cũng là người châu Âu đầu tiên nh́n thấy Thái B́nh Dương vào năm 1513 và đă nhận phần đất vùng Panama cho nước Tây Ban Nha, rồi vào năm 1524, Vua Charles V của Tây Ban Nha đă đề nghị một cuộc khảo sát để thực hiện một con kênh đào đi qua phần eo đất này. Thế rồi, qua nhiều thế kỷ, các nhà hàng hải vẫn thèm thuồng có một con kênh đào nối liền hai biển Thái B́nh Dương và Đại Tây Dương nhưng ước mơ này đă phải chờ đợi tới cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu.

Năm 1876, một sĩ quan Hải Quân Pháp trẻ tuổi tên là
Lucien Napoléon Bonaparte Wyse, cháu của Vua Napoléon I, đă đi tới miền Panama với đầy đủ tiền bạc để mong bắt tay vào một dự án đào kênh. Sau hai năm khảo sát địa h́nh kỹ càng trên eo đất Panama, ông Wyse đă nhận được sự nhân nhượng của chính quyền Columbia là quốc gia sở hữu giải đất Panama, để xây dựng một con kênh đào theo đường xe lửa mà người Hoa Kỳ đă lắp đặt. Dự án của ông Wyse được tŕnh lên Hội Địa Dư Paris (the Geographical Society of Paris) là một cơ quan danh tiếng và uy tín của châu Âu. Rất may cho ông Wyse là vị Chủ Tịch của Hội này lại là ông Ferdinand de Lesseps, một người bạn và cũng là người đỡ đầu của ông Wyse. Ông De Lesseps là người đă xây dựng thành công Kênh Đào Suez.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/e/e9/Canal_Interoceanique_de_Panama_1880.jpg/1920px-Canal_Interoceanique_de_Panama_1880.jpg

Cổ phiếu của công ty Kênh Đào Panama

Vào đầu năm 1879, ông De Lesseps đă triệu tập một buổi họp tại Hội Địa Dư để cứu xét các đề nghị về một con kênh đào tại vùng Trung Mỹ. Lúc bấy giờ có hai điều quan trọng phải giải quyết: địa điểm xây dựng thuộc Panama hay thuộc Nicaragua và kênh dào được xây theo phương pháp mặt nước biển hay phương pháp dùng cửa khóa nước. Buổi họp thực ra chỉ có tính cách h́nh thức v́ ông De Lesseps đă ngấm ngầm vận động sự ủng hộ cần thiết khiến cho các tranh luận đă ở mức tối thiểu và kế hoạch của ông Wyse được chấp thuận không khó khăn. Nhưng trong số các lời tán thành dự án, lại có lời phản đối từ một viên kỹ sư được ít người biết đến, với tên là Godin de Lépinay.

Ông De Lépinay đă từng ở vùng Panama nên đă lên tiếng bác bỏ phương pháp xây dựng kênh đào ngang bằng với mặt nước biển bởi v́ địa thế núi non của vùng này. Ông De Lépinay đă đề nghị một phương pháp đơn giản là ngăn chặn gịng sông Chagres của vùng Panama để lập nên một cái hồ và tạo ra kênh đào, với mặt nước cao, băng qua eo đất, rồi đặt tại mỗi đầu kênh các cửa khóa nước dẫn ra các đường biển. Các người ủng hộ ông De Lesseps đă hô hoán, chê bai đề nghị kể trên, biết đâu rằng 27 năm về sau, các ư tưởng của ông De Lépinay đă được mang ra thực hiện.

3- Ông De Lesseps Thất Bại.

Tại châu Âu và châu Mỹ, ông De Lesseps đă cho phổ biến một chương tŕnh quảng cáo rầm rộ, kéo dài tới cả năm để gây quỹ cho một công ty mới thành lập, có tên là Công Ty Kênh Đào Panama (the Panama Canal Company). Vào tháng 2 năm 1881, nhóm kỹ sư người Pháp đầu tiên đă tới eo đất Panama và việc đào bới được khởi công vào năm 1882 nhưng sau đó 7 năm, việc đào kênh đă gặp thất bại v́ băo lụt, đất lở, v́ các bệnh tật nhiệt đới đă tàn phá giới công nhân, v́ các vụ tai tiếng tài chính… khiến cho công ty đă bị phá sản vào năm 1889. Ông De Lesseps bị kết tội đă quản trị sai lầm và chết v́ già yếu vào năm 1894.

Sự thất bại của người Pháp tại Kênh Đào Panama có thể tóm lược v́ hai nguyên do.

1.    Thứ nhất, lỗi lầm căn bản là do ông De Lesseps đă cố gắng giữ lập trường xây dựng kênh đào giống như Kênh Suez kiểu mẫu. Việc đào kênh không đơn giản v́ hai miền Suez và Panama không thể so sánh tương đương. Kênh đào Suez đă lợi dụng được ba hồ nước có sẵn và gịng kênh đi qua một vùng đất thấp. Trái lại, eo đất Panama mặc dù chỉ hẹp 40 dặm theo chiều ngang nhưng lại là một miền núi, với các đường nứt địa chấn (faults) khiến cho nền móng không ổn định và việc đào sâu xuống phần đá để tạo nên đáy của gịng kênh là một việc không thể làm nổi đối với kỹ thuật thời bấy giờ.

2.    Lỗi lầm thứ hai là do ông De Lesseps đă không quan tâm tới các lời cảnh cáo về hai thứ bệnh nhiệt đới đang hoành hành tại vùng Trung Mỹ, đó là bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng da (yellow fever). Do thăm viếng vùng Panama vào mùa khô, lúc không có nhiều muỗi, ông De Lesseps đă chủ quan cho rằng Panama là một trong các nơi có môi trường sống lành mạnh nhất thế giới.  

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/a0/Anopheles_Culex_adult_resting_position-USDA.jpg/440px-Anopheles_Culex_adult_resting_position-USDA.jpg

Muỗi Anopheles - đứng thẳng (A,B)

mui thường nằm ngang (C)

Vào năm 1884, bệnh sốt vàng da và bệnh sốt rét đă lan tràn, cướp đi hàng ngàn mạng sống của các công nhân. Tính tới cuối 7 năm đào xới, 22,000 người đă bỏ mạng v́ các bệnh nhiệt đới. Số tổn hại này tương đương với hai lần tổng số công nhân xây dựng, bởi v́ số thợ không quá 10,000 người mỗi kỳ. Các nhà xây dựng người Pháp vào thời kỳ đó đă không biết rằng bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng da là do hai loại muỗi mang bệnh có tên là Aedes Aegypti và Anopheles. Các bác sĩ người Pháp lại cho rằng người mắc bệnh là do bị cắn bởi một loài kiến hay côn trùng ḅ vào người bệnh nhân, v́ thế các chân giường được lệnh kê trên các chậu nước nhỏ, việc này càng làm gia tăng nơi sinh sống thuận tiện cho hai loại muỗi kể trên là thứ đă dày đặc tại các đồng lầy, các ao tù và các gịng suối cạn. Muỗi là thứ côn trùng dễ sinh nở tại miền nhiệt đới, mưa nhiều.

Về mặt tài chính, các vấn đề kỹ thuật gặp phải càng làm cho phí tổn lên cao, cộng với các sự ăn bớt, các lạm dụng… khiến cho
vào năm 1898, ban giám đốc của công ty kênh đào Panama đă phải đề nghị bán tất cả tài sản của công ty cho Hoa Kỳ với giá 100 triệu mỹ kim.

Lúc đầu, lời đề nghị này đă không gây được chú ư mà c̣n gặp sự chống đối. Công ty Hỏa Xa Panama e sợ rằng việc đào kênh sẽ tạo nên sự cạnh tranh trong việc chuyên chở hàng hóa giữa các bờ biển đông-tây, v́ thế họ đă vận động với Quốc Hội Hoa Kỳ để cản trở việc chấp nhận đề nghị của người Pháp nhưng một biến cố đă xẩy ra, đó là
trận chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha bùng nổ vào tháng 3 năm 1898.

Không lâu sau tháng lâm chiến này, chiến hạm Hoa Kỳ tên là S.S. Oregon
được phái đi từ Vịnh San Francisco tới vùng biển Caribbean. Sau hải tŕnh dài 13,000 dặm và 68 ngày vượt biển ṿng qua mũi Horn, Nam Mỹ, chiến hạm S.S. Oregen đă tới được vùng giao tranh th́ cuộc chiến cũng gần tàn. Sự kiện này đă khiến cho Quốc Hội Hoa Kỳ nhận rơ được chân giá trị và sự quan trọng của một con kênh đào cắt ngang qua eo đất Panama và Quốc Hội này bắt đầu hành động.

Vào tháng 6 năm 1902,
đạo luật Spooner đă cho phép Tổng Thống Theodore Roosevelt mua lại tất cả các cổ phần của người Pháp với số tiền 40 triệu mỹ kim. Sau đó là một dự thảo hiệp ước với xứ Columbia, cho phép Hoa Kỳ độc quyền xây dựng một con kênh đào và quản trị vùng kênh đào rộng 6 dậm trong 100 năm để đổi lấy 10 triệu mỹ kim tính ra vàng và tiền thuê hàng năm là 250,000 mỹ kim rút ra từ tiền thuế qua kênh. Dự ước này đă được Thượng Viện Mỹ phê chuẩn vào tháng 3 năm 1903 nhưng Quốc Hội của xứ Columbia lúc đó tŕ hoăn để đ̣i trả thêm rồi vào tháng 6 năm 1903, đă giận giữ bác bỏ dự ước.

4- Việc Đào Kênh Panama Bắt Đầu.

Việc làm của Quốc Hội Columbia đă gây bất măn cho cư dân vùng Panama, nhất là giới quân nhân tại nơi này. Ngày 3-11-1903, với sự khuyến khích và giúp đỡ ngấm ngầm của Hoa Kỳ, một nhóm người Panama đă nổi lên, làm một cuộc cách mạng. Cũng vào lúc này, một chiến hạm Hoa Kỳ đă bỏ neo tại hải cảng Colon và đồng thời, một lực lượng thủy quân Mỹ cũng được gửi tới Panama, lấy cớ là để bảo vệ tài sản của Hoa Kỳ nhưng cũng đă ngăn cản không cho quân đội Columbia tới gần khu vực nổi dậy tại thành phố Panama. Sau đó 3 ngày, Hoa Kỳ lên tiếng chính thức công nhận nước Cộng Ḥa Panama.

Vào tháng 2-1904, Hiệp Ước Hay-Bunau-Varilla
đă phê chuẩn, cho phép Hoa Kỳ có quyền quản trị vĩnh viễn Vùng Kênh Đào có chiều ngang rộng 10 dậm, mỗi bên 5 dậm, ngang qua eo đất Panama, để đổi lấy 10 triệu mỹ kim và tiền thuê hàng năm là 250,000 mỹ kim. Sau đó, công ty kênh đào của Pháp cũng đồng ư sang nhượng lại tất cả tài sản cho Hoa Kỳ với trị giá 40 triệu mỹ kim.

Kể từ giữa mùa hè năm 1904, việc khởi công đào kênh của Hoa Kỳ được bắt đầu. Với sự thương lượng kể trên, người Mỹ đă thừa hưởng của người Pháp các công tŕnh đáng kể:
78 triệu thước khối đất đă được đào đi, 47 dặm đường xe lửa, một số lượng khổng lồ máy móc và cuối cùng là một thư viện tài liệu vô giá, gồm các bản đồ, bản khảo sát, bản thiết kế, các hồ sơ ghi chép tỉ mỉ và công phu, được sưu tầm trong hai thập niên vừa qua.

https://i.pinimg.com/originals/be/60/25/be60257fd4216c77c1c652278f11fc6c.jpg

Đại Tá William Crawford Gorgas

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/42/George_W._Goethals_cph.3a02121.jpg

Đại Tá George Washington Goethals

Với công tŕnh xây dựng dang dở này, Ủy Ban Kênh Đào Eo Đất (the Isthmian Canal Commission) bắt đầu làm việc dưới quyền của Đô Đốc John G. Walker, với bộ chỉ huy đặt tại Washington, nhưng tất cả c̣n ở trong t́nh trạng hỗn độn. Việc đào đất c̣n nhỏ nhoi, phần khoan đất trong núi không có chỗ di chuyển đất dư. Nơi ăn ở của công nhân c̣n thiếu thốn và thiếu vệ sinh. Đồ ăn, nước uống và các phương tiện y tế không đủ. Các đơn xin tiếp liệu phải chờ vài tuần lễ mà vẫn chưa có kết quả. Chính trong t́nh trạng rối ren này, hai nhân vật đă lần lượt xuất hiện, đó là Đại Tá William Crawford Gorgas thuộc binh chủng Quân Y và Đại Tá George Washington Goethals, vị kỹ sư chính sẽ điều khiển công tŕnh xây dựng sau năm 1907. 

Nhờ thời gian phục vụ vừa qua tại Havana, xứ Cuba, Đại Tá Y Sĩ Gorgas đă xác nhận lần đầu tiên sự liên quan giữa các loại muỗi và hai chứng bệnh sốt rét và sốt vàng da nhưng vào thời đó, chưa có ai tin tưởng ở khám phá này. Vào tháng 12-1904, bệnh sốt vàng da đă bộc phát. Số người chết và số người mắc bệnh đă làm cho tất cả các công nhân đào kênh hoảng sợ.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/99/John_Frank_Stevens.jpg

John F. Stevens

Mùa xuân năm 1905, công tŕnh đào kênh bị ngưng hẳn lại. Báo chí liền loan đi các tin xấu. Dân chúng Hoa Kỳ bất măn và lo lắng. Tổng Thống Theodore Roosevelt bèn giải nhiệm các sĩ quan trong ủy ban điều hành và thiết lập một ban chỉ huy dân sự mềm dẻo hơn. Sau đó là một quyết định đáng kể: Tổng Thống đă bổ nhiệm ông John F. Stevens, Phó Tổng Giám Đốc của Công Ty Đường Sắt Rock Island, làm vị kỹ sư trưởng mới.

Nói về thành quả của Đại Tá Gorgas, phải kể tới hai khám phá trước đó. Năm 1898,
Bác Sĩ Ronald Ross, một y sĩ thuộc Quân Đội Anh, đă khám phá ra rằng bệnh sốt rét được truyền đi do muỗi Anopheles đốt và mang bệnh từ người này qua người kia. Năm 1901, Bác Sĩ Walter Reed cũng là một y sĩ trong Quân Đội Hoa Kỳ cùng các người cộng sự, đă chứng minh rằng bệnh sốt vàng da là do muỗi Aedes.

Khi phục vụ là sĩ quan y tế trưởng tại Havana, Đại Tá Gorgas đă căn cứ vào 2 khám phá y học kể trên để làm phát triển ra các phương pháp vệ sinh thực dụng. Tại vùng Panama, Đại Tá Gorgas đă cho khai thông tất cả các hồ, đầm lầy, vũng nước khi có thể, và tại các vũng nước tù không thể rút nước đi được th́ cho đổ một lớp dầu mỏng lên trên mặt nước. Các bụi rậm cũng được khai quang hay đốt sạch. Mọi căn nhà được làm trên nền cao, với cửa sổ, cửa lớn có lưới và những bể nước, lu nước đều phải đậy nắp. Các toa xe lửa tại vùng Panama cũng được trang bị cửa lưới và trên mỗi đoàn tầu, lại có toa bệnh viện. Nhiều bệnh viện được lập nên để cô lập và điều trị bệnh nhân. Ngoài ra, cũng có các chương tŕnh trừ chuột và các loại bọ chét tại các gia đ́nh dân chúng. Các con tầu biển tới từ các vùng mắc bệnh dịch đều bị giới hạn tại khu vực pḥng ngừa.

Công tŕnh pḥng bệnh của Đại Tá Y Sĩ Gorgas bắt đầu được thực hiện vào tháng 5-1904 th́ tới tháng 6-1906, chỉ c̣n một bệnh nhân chót mắc bệnh sốt vàng da. Việc chinh phục bệnh sốt rét chậm chạp hơn nhưng số bệnh nhân đều giảm dần mỗi năm rồi tới năm 1914, khi kênh đào Panam được khánh thành, chỉ có 82 bệnh nhân bị sốt rét trên số 1,000 công nhân. Nhờ Đại Tá Gorgas, trong 10 năm xây dựng kênh đào Panama, tỉ lệ tử vong về hai bệnh nhiệt đới kể trên là 1.7 phần trăm, thấp hơn cả số tử vong của các thành phố tại Hoa Kỳ.

Về công tŕnh xây dựng, kỹ sư John F. Stevens đă phân quyền cho các người cấp dưới khi điều hành lực lượng lao động. Để tuyển mộ công nhân, ủy ban đào kênh đă cho đặt các văn pḥng tại Hoa Kỳ, châu Âu và vùng Tây Ấn. Các ṭa nhà mới được xây dựng, làm chỗ trú ngụ cho công nhân. Công nhân không có tay nghề hay bán tay nghề được trả lương bằng tiền "bạc", c̣n các thợ giỏi, các nhân viên văn pḥng và kỹ sư được lănh lương bằng tiền "vàng". Sự việc này đă khiến cho giới công nhân được chia ra làm hai loại là "vàng" và "bạc" và măi về sau, họ mới được trả lương bằng tiền giấy.

Đồng thời với số công nhân gia tăng tới gần 42,000 người, các dụng cụ, máy móc cũng đổ về Panama, gồm các loại máy súc đất, máy đào bới, máy nạo vét, đầu tầu xe lửa, tầu kéo, xà lan… Một chính phủ dân sự cũng được tổ chức tại đây gồm cả ṭa án, cảnh sát, sở cứu hỏa, các sở thuế quan và thuế vụ cùng bưu điện.

Một lư do thành công của kỹ sư trưởng Stevens là do ông đă nhận thức được vấn đề chính trong công tác là làm sao di chuyển hữu hiệu khối lượng khổng lồ đất và đá đă được đào lên. Ông Stevens đă cho đặt đường xe lửa hai chiều dài 47 dậm để vừa chở đất đá, vừa chở công nhân hay dụng cụ cùng các đồ tiếp tế. Cuối cùng c̣n lại một vấn đề vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính chính trị: ông Stevens phải chọn lựa một trong hai giải pháp là xây dựng kênh đào Panama theo mực nước biển hay dùng các cửa khóa nước.

Vào cuối năm 1905, hội đồng kỹ sư quốc tế do Tổng Thống Theodore Roosevelt chỉ định, đă chia làm hai phe với 8 kỹ sư ủng hộ giải pháp mực nước biển, so với 5 người chống đối. Tại Quốc Hội Hoa Kỳ, vấn đề đă được thảo luận gay cấn trong 6 tháng. Cuối cùng
kỹ sư Stevens đă thuyết phục được Tổng Thống Roosevelt rằng kênh đào với các cửa khóa nước là giải pháp tốt đẹp nhất bởi v́ các dụng cụ và phương pháp kỹ thuật, dù cho tối tân nhất vào thời đó, cũng không thể đào sâu ḷng kênh để có mực nước ngang bằng với mặt biển. Ngoài ra gịng sông Chagres chảy mạnh chỉ có thể thuần hóa bằng các đập chắn và các cửa khóa nước.

Qua năm 1906, khi việc đào kênh đang được tiến triển tốt đẹp th́ vào ngày 30-1-1907, kỹ sư Stevens từ chức và Tổng Thống Roosevelt đă chỉ định Đại Tá George Washington Goethals làm kỹ sư trưởng và chủ tịch của ủy ban đào kênh. Kể từ nay, việc xây dựng này không c̣n được giao cho các nhà thầu tư nhân nữa mà do chính phủ Hoa Kỳ thực hiện dưới sự giám sát của quân đội. Kỹ sư Goethals tới Panama vào tháng 3 năm 1907 và đă xác nhận rằng không một kỹ sư nào của nước Mỹ đă làm được một hệ thống chuyên chở như ông Stevens.
Ông Goethals cũng mô tả kênh đào Panama là một thứ "cầu bằng nước, gồm các hồ, các cửa khóa nước và các phần nước dẫn ra biển".

5- Công Tŕnh Hoàn Thành.

Đại Tá George W. Goethals đă làm việc theo kiểu mẫu quân sự, phân chia công tŕnh ra làm ba phần là phần Đại Tây Dương, phần trung tâm và phần Thái B́nh Dương, mỗi phần lại có giám đốc riêng, lực lượng lao động riêng và thời khắc biểu riêng.

Công việc của phần Đại Tây Dương là nạo vét một con kênh dẫn qua vịnh Limon, đắp một đập và các cửa khóa nước tại Gatun và dùng gịng nước của con sông Chagres để biến thung lũng Chagres dài 22 dậm trở thành một thủy lộ nâng cao và ổn định. Công việc của phần này được hoàn tất vào đầu năm 1913.

Tại phía nam là phần Thái B́nh Dương. Công tác gồm vạch một con sông qua vịnh Panama và đắp hai cửa khóa nước tại Miraflores và Pedro Miguel. Do các cuộc tranh luận tại Washington về địa điểm của các cửa khóa nước mà công tác tại phía nam bị tŕ hoăn một năm nhưng rồi tất cả cũng được làm xong vào cuối năm 1913.

Khó khăn nhất là đoạn giữa. Phần này bao gồm thung lũng Chagres và phần rặng núi Phân Chia Lục Địa (Continental Divide). Qua rặng núi này phải đào một lối thông. Khó khăn nhất ở tại đoạn cắt Culebra mà sau này được gọi là đoạn cắt Gaillard, theo tên của vị kỹ sư trưởng phần giữa là Thiếu Tá David Gaillard. Người ta đă phải đắp đập tại nhiều gịng sông chảy vào đoạn cắt này. Ngoài ra phần này c̣n gặp các trận mưa băo, ngập lụt, các vết nứt địa chấn, nền đất không ổn định và phần cốt lơi của núi lửa… tất cả thường gây nên các trận đá lở to lớn và nguy hiểm.

Dù tại phần đất nào, công tác đào kênh cũng rất cực nhọc. 6,000 công nhân đă làm việc mỗi ngày 10 giờ dưới sức nóng 120 độ F. Ngoài các cuốc, xẻng, khoan…, các dụng cụ và máy móc thông thường, c̣n có các cần cẩu múc đất, các xà lan vĩ đại nổi trên mặt các vịnh, các đầm lầy, với các cần trục to lớn, các máy hút bùn và nạo vét khổng lồ. Trên bờ là các toa xe lửa chở đất đá, chuyển dịch hàng ngàn khối đá đă được đào lên để đắp đập Gatun.

Người ta tính ra rằng tổng số đất đá di chuyển là 239 triệu thước khối, đủ để xây nên 70 kim tự tháp loại lớn nhất của xứ Ai Cập. Người ta cũng dùng các khối chất nổ, có khi lớn tới 40,000 cân Anh để phá đi các phần núi của rặng Phân Chia Lục Địa. Và cuối cùng, đập Gatun đă được xây đắp xong, dài 2.4 cây số, có móng rộng 800 mét và phần trên rộng 30 mét.

Mặc dù nhiều trở ngại, nhất là sau 2 vụ lở đất tai hại vào tháng 1-1913, mọi công tác xẻ núi lấp sông đă được hoàn thành dần, đáng kể nhất là đoạn cắt Gaillard rộng 600 mét ở phần trên và sâu tới 130 mét. Tới giữa năm 1913, cả 3 công tŕnh được coi như gần xong.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/53/Thomas_Woodrow_Wilson%2C_Harris_%26_Ewing_bw_photo_portrait%2C_1919.jpg/1024px-Thomas_Woodrow_Wilson%2C_Harris_%26_Ewing_bw_photo_portrait%2C_1919.jpg

Tổng thống Woodrow Wilson

Vào ngày 10 tháng 10 năm 1913, Tổng Thống Woodrow Wilson ở Thủ Đô Washington cách xa 4,000 dậm, đă nhấn vào một cái nút điện. Tín hiệu này được truyền tới Panama và một khối chất nổ dynamite đă phá đi con đập cuối cùng đặt tại đầu phía nam của đoạn cắt Gaillard và như thế, ở trên độ cao 24 mét cách mặt nước biển, nước của Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương đă ḥa lại với nhau. Giấc mộng về Kênh Đào Panama đă thành hiện thực. Vào ngày này, các kỹ sư Hoa Kỳ đă làm được một công tŕnh kỹ thuật lớn lao nhất trong lịch sử, trị giá tới 380 triệu mỹ kim vào thời đó. Một câu châm ngôn đă được dùng để đánh dấu ngày lịch sử thông thương này và được khắc lên trên con dấu của kênh đào: "Một vùng đất được phân chia, Thế Giới được kết hợp" (A Land Divided, the World United).

Vào ngày 15-8-1914, Kênh Đào Panama chính thức được mở cửa cho việc thông thương hàng hải. Con tầu biển đầu tiên đi qua kênh đào là Tầu Ancon, chở theo các khách danh dự và đây là giấc mộng của các nhà thám hiểm 400 năm về trước.

Vào năm tài khóa 1915, năm đầu tiên hoạt động, kênh đào Panama đă cho phép đi qua 5 triệu tấn hàng hóa. Tới năm 1924, một khối lượng hàng hóa 27 triệu tấn đă được các con tầu biển chở qua kênh rồi vào các năm giữa 1925 và 1941, khối lượng trọng tải qua kênh thay đổi từ 18 triệu tấn tới 31 triệu tấn. Chỉ vào thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, số lượng hàng hóa chở qua kênh mới giảm bớt nhưng rồi lại tăng lên tới 30 triệu tấn vào năm 1950. Vào thập niên 1960, số lượng hàng tăng gấp hai rồi lên trên 100 triệu tấn vào cuối thập niên này.

Ngày nay đă có hơn 70 quốc gia có tầu biển đi qua Kênh Đào Panama với số lượng trung b́nh mỗi ngày 32 chiếc. Mỗi con tầu phải trả chi phí là 28,000 mỹ kim cho một lần đi qua trong khi số tiền của các tầu biển loại lớn cao hơn gấp nhiều lần. Tuy thời gian đi qua Kênh Đào mất vào khoảng từ 8 tới 10 giờ và số tiền phí tổn phải đóng khá cao, nhưng cách đi tắt này đă tiết kiệm được nhiều ngàn dậm đường và nhiều ngày hải hành, chẳng hạn như một con tầu biển khởi hành từ San Francisco, California, để đi New York, nếu không qua Kênh Đào Panama, sẽ phải đi thêm 7,900 hải lư, qua các vùng biển Nam Mỹ thường có băo táp và sóng lớn.

Nhờ Kênh Đào Panama, 140 triệu tấn hàng hóa mỗi năm đă được chở qua lại, tới các quốc gia ở hai phía Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương. Nhóm hàng chính là dầu lửa và các phó sản, chiếm vào khoảng 22 phần trăm, sau đó là ngũ cốc 16 phần trăm. Kể từ khi kỹ nghệ xe hơi bộc phát, hàng năm đă có 2.4 triệu tấn xe hơi được chuyên chở qua, phần lớn từ Nhật Bản tới Hoa Kỳ.

Danh tiếng của Kênh Đào Panama không phải là do cỡ lớn của nó, bởi v́ con kênh này chỉ dài 51 dậm (miles) nhưng chính v́ công dụng của con kênh đối với nền Thương Mại Quốc Tế. Kể từ cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ của thế kỷ 18, chưa có một công tŕnh kỹ thuật nào táo bạo hơn, phức tạp hơn và to lớn hơn Kênh Đào Panama. Đây quả là một công tŕnh vĩ đại về các phương pháp cộng tác tập thể, có tầm vóc rất to lớn và là một thành công huy hoàng trong lịch sử ḥa b́nh thế giới.

Bản đồ Kênh Đào Panama

Phạm Văn Tuấn

Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia.

Mời xem tiếp: Kinh đào Panama

Trở lại