Lịch
Sử Tàu Ngầm - Phần 1: Từ Các Tàu Ngầm
Đầu Tiên Đến Thế Chiến Thứ
Nhất Phạm Văn Tuấn |
||||||||||||||||||
Trong
kỹ thuật chiến tranh xấu xa có một sáng
tạo chỉ nhằm mục đích phá hoại, phá
hoại cả về sinh mạng lẫn tài sản trên
một b́nh diện rộng lớn và ở một
mức độ tàn nhẫn. Sáng tạo này là
tầu ngầm với biệt danh là “tên sát nhân
của biển khơi”. Tầu
ngầm là một phát minh của Hoa Kỳ trong khi các
nước khác đă khai triển công dụng của
nó. Sự phát minh ra tầu ngầm cũng là một
kết tinh của nhiều ư tưởng đă có
từ trước. Trước khi có tầu ngầm,
đă có nhiều loại dụng cụ cho phép con người
lặn xuống nước trong một khoảng
thời gian khá lâu. 1/ Các Tầu Ngầm Đầu Tiên.
Chuyện
c̣n kể rằng một người Hy Lạp tên là
Syllias đă dùng một thứ dụng cụ lặn có
h́nh dáng giống như quả chuông để lặn
xuống nước, cắt đứt các dây neo
của chiến thuyền Ba Tư. Đại Đế
Alexander cũng đă xuống sâu dưới nước
trong một chiếc thùng kín và qua chiếc cửa
sổ bằng kính, Đại Đế đă quan sát
những hải sinh vật. Lặn
sâu dưới nước là một việc đă
được nhiều người thực hiện.
Con người c̣n mơ ước có thể di
chuyển dưới nước bằng một
thứ tầu. Dụng cụ lặn này đă
được Leonardo da Vinci sống vào thế kỷ
14 vẽ kiểu và nghiên cứu nhưng rồi công tŕnh
này bị bỏ dở. Dù sao Leonardo da Vinci vẫn
được mọi người ca tụng là ông
tổ của tầu ngầm. Tầu
ngầm tuy hứa hẹn cho con người một phương
tiện di chuyển dưới mặt nước nhưng
rất ít người thấu triệt được
các nguyên tắc liên quan tới việc đóng
tầu. Tầu phải làm sao chịu đựng
được áp suất của nước và
chống lại được sức đẩy
từ dưới lên trên. Nhiều người đă
dùng gỗ đóng vỏ tầu và v́ vậy tầu
dễ bị nước ép vỡ. Cách làm cho tầu
chuyển vận lại là một vấn đề nan
giải: người ta đă phải dùng tay quay, thêm
vào khó khăn này là đèn dùng dưới tầu không
có thứ ǵ khác hơn là nến và việc đốt
nến sẽ mang tới điều bất tiện:
tầu dễ bị phát hỏa và nhân viên dưới
tầu dễ bị ngạt hơi v́ thiếu khí
oxygen quư báu.
Tới
đầu thế kỷ 17 có Cornelius Van Drebel, một
nhà khoa học người Ḥa Lan cũng nghiên cứu
cách chế tạo tầu ngầm. Van Drebel đă dùng
gỗ để đóng tầu rồi bọc vỏ
tầu bằng một lớp da có thoa mỡ. Tầu
được vận chuyển bằng 12 tay chèo, có
thể lặn sâu dưới nước nhiều
giờ. Việc tiếp tế không khí cho tầu
được thực hiện qua các ống thông hơi
nổi trên mặt nước nhờ các phao. Tầu
ngầm của Van Drebel được ít người
biết đến và ngày nay, người ta chỉ
biết được vài chi tiết liên quan tới cách
chế tạo của nhà khoa học này. Phải đợi
150 năm sau, kỹ thuật tầu ngầm mới
thực sự thành công. Vào thời gian này, hạm
đội của nước Anh đang phong tỏa
hải cảng New York và đe dọa Washington. Một
sinh viên trường Yale tên là David Bushnell, người
miền Connecticut suy tính rằng nếu có cách nào
đặt chất nổ dưới đáy tầu Anh
th́ có thể giải quyết được việc
phong tỏa. Bushnell liền chế tạo một
kiểu tầu ngầm bằng gỗ, có h́nh dáng
giống như quả trứng, đầu thon quay
xuống phía dưới. V́ vỏ tầu do hai
mảnh như hai chiếc mai rùa ghép lại nên Bushnell
đặt tên cho chiếc tầu ngầm này là Turtle
(con rùa).
Tầu
ngầm Turtle chỉ chứa được một
thủy thủ và người này chui vào tầu qua
một cái nắp đậy ở phía trên. Muốn
cho tầu lặn, người ta mở “van” cho nước
chảy vào căn hầm dưới chân và người
thủy thủ phải bơm nước ra khi muốn
cho con tầu nổi lên. Tại đáy tầu có đeo
một khối ch́ nặng chừng 100 kilô để
giữ cho tầu ở vị thế thẳng đứng
và khối ch́ này sẽ được bỏ đi
khi tầu cần nổi lên mặt nước trong trường
hợp khẩn cấp. Tầu ngầm Turtle được
chuyển vận bằng một chân vịt nằm
ngang quay bằng tay. Một bánh lái giúp cho tầu
rẽ phải hoặc sang trái và một chân vịt
thẳng đứng cho phép tầu lên cao hay xuống sâu
hơn trong nước. Trong lần thử ngoài khơi
Long Island Sound, tầu ngầm Turtle đă lặn
được chừng 10 phút. Vào
thời bấy giờ người Mỹ đang
nổi dậy giành Độc Lập. Quân đội
Mỹ định dùng tầu ngầm Turtle để
chống lại các tầu chiến Anh đậu ngoài
khơi Long Island Sound, nhưng khi hạm đội Anh kéo
đến, tầu ngầm Turtle lại được
chở từ New Rochelle, New York, tới sông Hudson
gần New York City, rồi được chuẩn
bị cho cuộc tấn công. Việc điều
khiển tầu thực là vất vả, khó nhọc.
Người thủy thủ phải dùng tay và chân
vừa kiểm soát, vừa làm cho tầu chuyển
vận, mắt phải quan sát vị trí và trí óc
phải t́m ra cách nào đi tới mục tiêu mà không
để bị lộ. V́ sự phức tạp khi lái
tầu, v́ không đủ sức khỏe cần
thiết để điều khiển tầu, Bushnell
đă nhờ quân đội Cách Mạng cung cấp người
t́nh nguyện. Đáp lời kêu gọi này, 3 người
đă hưởng ứng và con tầu được
giao cho Trung Sĩ Erza Lee thuộc Trung Đoàn Connecticut. Vào
đêm hôm 6 tháng 9 năm 1776, Trung Sĩ Lee nhận công
tác tấn công con tầu chỉ huy HMS. Eagle của
Đô Đốc Howe, người điều khiển
cuộc phong tỏa hải cảng. Khi đó Trung Sĩ
Lee phải đợi cho nước thủy triều rút
ra bởi v́ cách chuyển vận của tầu
ngầm quá chậm chạp, không thể đi ngược
gịng nước thủy triều. Tầu ngầm Turtle
ra đi từ đảo Manhattan và được 2
chiếc thuyền săn cá voi kéo ra ngoài khơi
rồi trước khi để cho các tầu Anh quan sát
thấy, 2 chiếc thuyền kia liền tách rời
khỏi tầu ngầm và từ đó, Trung Sĩ Lee
sẽ cho tầu ngầm chạy tới mục tiêu,
gắn một khối chất nổ 70 kilô vào vỏ
tầu địch rồi rút lui. Theo như kế
hoạch, khối chất nổ sẽ cơ hành vài
giờ sau. Đêm
hôm đó, sau một hồi xoay trở, Trung Sĩ Lee
đă điều khiến được con tầu
ngầm tới đáy tầu HMS. Eagle mà không một
thủy thủ nào trên chiếc tầu Anh hay biết
cả, nhưng đến khi dùng con ốc để
vặn khối chất nổ vào thân tầu, Trung Sĩ
Lee gặp thất bại mà không hay biết rằng
vỏ tầu được bọc một lớp
đồng để tránh mọt ăn và nước
biển làm mục nát. Khi trời gần sáng, Trung Sĩ
Lee đành phải bỏ dở âm mưu và cho tầu
ngầm lặn cách đó 4 dậm rồi vứt
bỏ khối chất nổ. Sang năm sau, tầu
ngầm Turtle đươc mang ra xử dụng để
tấn công chiếc tầu chiến Anh HMS Cerberus nhưng
âm mưu này lại không thành công mặc dù khối
chất nổ bị vứt bỏ đă làm thiệt
mạng 3 thủy thủ người Anh khi họ t́m cách
vớt nó lên. Tuy
rằng trong thời kỳ Cách Mạng giành Độc
Lập, con tầu ngầm của Bushnell không đánh
ch́m được chiếc tầu chiến nào nhưng
nó đă làm cho nhà phát minh Robert Fulton phải chú ư. Dưới
thời Tổng Thống Washington, Fulton không được
giúp đỡ về tiền bạc để thực
hiện các phát minh của ḿnh nên ông ta đă bỏ
sang Pháp. Năm 1796, Fulton dâng lên Hoàng Đế Napoléon
hai phát minh quan trọng v́ khi đó nước Pháp
đang giao chiến với nước Anh. Hai phát minh
của Fulton là thủy lôi và tầu ngầm, hai
thứ vơ khí dùng để tấn công Hạm Đội
Anh Cát Lợi.
Tuy
rằng Robert Fulton thành công trong lần biểu
diễn thực nhưng ông lại không được
may mắn gặp một chiếc tầu Anh nào để
chứng tỏ khả năng thực sự của
tầu ngầm v́ thế các đề nghị của
nhà phát minh Hoa Kỳ không được Hải Quân
Pháp chấp nhận. Bộ Trưởng Hải Quân Pháp
thời bấy giờ là Pleville le Pelle c̣n gọi
tầu ngầm là thứ khí giới “vô nhân đạo”.
Đây là nhận xét đầu tiên về một phương
tiện phá hoại và cuộc tranh luận về đạo
đức xử dụng tầu ngầm c̣n kéo dài
trong nhiều năm. Chán nản v́ phát minh không được chú ư, Fulton nghĩ rằng nếu người Pháp không ưa, có thể người Anh lại cần đến. V́ vậy vào năm 1804, Robert Fulton sang nước Anh và tŕnh bày phát minh của ḿnh lên Thủ Tướng William Pitt. Pitt chú ư đến ư tưởng của Fulton. Trước khi một hội đồng họp để cứu xét về tầu ngầm, Fulton đă biểu diễn làm nổ tung một hải thuyền cũ bằng một khối thuốc nổ 170 pounds. Phương pháp của Fulton là lặn xuống nước, tiến sát vào mục tiêu mà không để lộ rồi buộc thủy lôi vào vỏ tầu, quả bom này sẽ nổ đúng lúc do một bộ phận đồng hồ. Mặc
dù là một thứ vơ khí mới, tầu ngầm
vẫn không được các thẩm quyền
Hải Quân Anh chấp nhận. Các Đô Đốc người
Anh lại cho rằng thứ khí giới này dă man.
Fulton đành trở về Hoa Kỳ và dồn hết
công sức vào việc cải tiến tầu thủy. Dù
cho tầu ngầm không được cả hai cường
quốc Pháp và Anh thực hiện nhưng ư tưởng
về tầu ngầm đă ảnh hưởng
tới nhà văn Jules Verne, người Pháp. Jules Verne
đă cho ra đời cuốn truyện khoa học
giả tưởng “20 Ngàn Dậm Dưới Đáy
Biển” bằng cách dùng gợi ư của Fulton. Vào
năm 1812 xẩy ra cuộc chiến tranh giữa nước
Anh và Hoa Kỳ. Trước hạm đội hùng
hậu của Hải Quân Anh, người Mỹ đă
cho đóng một chiếc tầu ngầm theo kiểu
của Fulton và dùng tầu ngầm này tấn công
chiếc tầu chiến HMS. Ramilies ở ngoài khơi
Connecticut. V́ bị đánh lén, Đại Tá Hải Quân
Anh, Sir Thomas Hardy, vô cùng giận dữ, đă hạ
lệnh mang các tù binh Mỹ lên tầu Ramilies để
chịu chung số phận với các thủy thủ
Anh khi tầu Ramilies bị tấn công lẫn nữa. 2/ Tầu Ngầm Pioneer Và Hunley.
Qua
nhiều năm, tầu ngầm được
nhiều người tại nhiều quốc gia bàn
tới. Tại nước Đức có William Bauer
đă chế tạo một chiếc tầu ngầm
nhỏ tại Kiel vào năm 1850. Với chiếc
tầu ngầm này Bauer đă nhiều lần thành công
trong việc lặn xuống và nổi lên trên mặt
nước nhưng rồi một tai nạn xẩy ra
và con tầu bị ch́m xuống đáy biển. V́ không
đủ tiền đóng một chiếc thứ hai,
Bauer đành sang nước Áo để t́m người
trợ cấp. Trong khi cuộc vận động
của nhà phát minh đang tiến hành th́ giới thư
lại tại nước Áo làm khó khăn việc
chế tạo và cho rằng tầu ngầm không
phải là thứ đáng được Hoàng Đế
Áo bảo trợ. Bauer
v́ vậy sang nước Anh và chương tŕnh
chế tạo của ông ta được Hoàng Tử
Albert chú ư. Nhưng không may cho nhà phát minh, khi con
tầu đang được đóng dở dang th́ các
kỹ sư đóng tầu Anh lại đ̣i thêm vào sáng
chế này các cải tiến, khiến cho trong lần
thử đầu tiên, con tầu bị ch́m xuống
đáy nước. Lần thất bại này làm cho
Bauer nghĩ tới Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ nhưng
rồi nhà phát minh cũng vẫn bị từ chối
khéo và Bauer đành phải sang nước Nga. Ở
nước Nga tại Kronstadt, Bauer chế tạo
chiếc tầu ngầm Marine Devil dài 16 thước,
ngang 3.6 thước và cao 3.3thước. Tầu
được chuyển vận bằng chân vịt do
4 người quay bằng tay. Ngày 28 tháng 5 năm 1856,
tầu ngầm Marine Devil được hạ thủy
và phải qua lần thử thách đầu tiên. Người
ta đ̣i hỏi nhà phát minh phải cho con tầu
luồn dưới một chiếc tầu chiến
đang bỏ neo. Bauer chấp nhận đề
nghị này nhưng tới khi thi hành điều
kiện, chiếc tầu chiến lại bỏ neo
tại một nơi nông quá, khiến cho tầu
ngầm bị cắm đầu xuống bùn và Bauer cùng
các thủy thủ Nga suưt nữa mắc nạn. Vào
năm 1861 cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ bùng
nổ. Sau hai năm chinh chiến, phe Miền Nam bị
tiêu hao rất nhiều về nhân lực và khí
giới. Hải cảng Charleston lại bị Hải
Quân Miền Bắc phong tỏa khiến cho lương
thực không thể mang vào đất liền
được. Trước cảnh vây hăm này,
nhiều con tầu chiến miền Nam đă t́m cách
phá ṿng vây nhưng tất cả đều bị
bắn ch́m. Phe Miền Nam liền chế tạo
một loại tầu mang thủy lôi tên là David để
chống nhau với các tầu chiến khổng lồ
của phe Miền Bắc, giống như câu chuyện
David chống Goliath được kể trong Thánh Kinh.
Thời bấy giờ, David là thứ tầu nhỏ,
vỏ chỉ nhô lên khỏi mặt nước vài phân.
Tầu có một chiếc cần dài, ở đầu
buộc một thủy lôi. Cách chiến đấu
của tầu là nhờ đêm tối, tầu
tiến lại gần tầu chiến địch
rồi làm nổ quả thủy lôi. Vào
đêm 5 tháng 8 năm 1863, Trung Úy W.T. Glassel và 3
thủy thủ khác đă rời hải cảng
Charleston trên một con tầu David để tấn công
chiếc tầu bọc sắt New Ironsides của phe
Miền Bắc. Khi tầu David đă tiến sát
gần tầu địch, các thủy thủ của
phe Miền Bắc mới hay biết: một tiếng
nổ long trời phát ra, tầu Ironsides bị hư
hại khá nặng. Thành
công của loại tầu ngầm David đă khiến
phe Miền Nam lên tinh thần. Họ liền tiến hành
việc chế tạo loại tầu ngầm theo đúng
nghĩa. Ba nhà tiền phong trong công cuộc chế
tạo này là Đại Úy J.R. McClintock, H.L. Hunley và viên
kỹ sư dân sự Baxter Watson. Vào
khoảng đầu năm 1862, một con tầu
ngầm đầu tiên mang tên Pioneer đă được
bộ ba kể trên làm xong tại New Orleans. Tầu
Pioneer dài 9 thước, thiết diện lớn
nhất có đường kính 3 thước. Tầu
chứa được 2 thủy thủ, trong đó
một người lo việc quay chiếc chân vịt
bằng tay để làm tầu chuyển vận. Sau
nhiều lần thử trong hồ Ponchartrain, tầu
ngầm Pioneer đă thành công về các cuộc
lặn, nhưng rồi New Orleans bị hạm đội
của Đô Đốc Farragut chiếm và con tầu
ngầm Pioneer bị nhận ch́m để không rơi
vào tay phe Miền Bắc. Trong cuộc đánh chiếm
New Orleans, ba nhà chế tạo tầu ngầm đă
trốn thoát được. Họ tới Mobile và
lại lo việc chế tạo một chiếc
tầu ngầm thứ hai nhưng trước khi cho
thử tấn công tầu địch th́ con tầu
ngầm lại bị đắm trong một trận băo. Tới
lúc này phe Miền Nam không c̣n trợ cấp cho kế
hoạch đóng tầu ngầm nữa. McClintock và
Watson từ bỏ công cuộc nghiên cứu, chỉ c̣n
Hunley tiếp tục công tŕnh bằng số vốn riêng
của ḿnh. Với sự trợ giúp của Trung Úy
kỹ sư J.A. Alexander, Hunley đă dùng một
chiếc thùng sắt lớn để chế tạo
một chiếc tầu ngầm dài 9 thước, ngang
1.2 thước. Tầu cũng được
chuyển vận bằng chân vịt do 8 người
quay bằng tay. Tầu không có tiềm vọng kính nên
có một chiếc tháp nhỏ tại đó viên
thuyền trưởng đứng tại tầu, ló
đầu lên và quan sát bên ngoài qua một cửa
sổ nhỏ bằng kính. Phương pháp này
thật là nguy hiểm ngay cả đối với
thứ sóng trung b́nh. Sau
nhiều lần thí nghiệm thành công trong Vịnh
Mobile, con tầu C.S.S. Hunley được chở
bằng xe lửa tới Charleston. Chính tại hải
cảng này, tầu Hunley đă được Trung Úy
John Payne điều khiển lần thử đầu
tiên. V́ không đủ vững vàng nên khi có một
chiếc tầu thủy chạy qua, tầu ngầm
Hunley đă bị nước tràn vào, Trung Úy Payne
đă nhẩy được ra khỏi nắp tầu
và thoát nạn, trong khi 8 thủy thủ kia bị
chết ch́m trong ḷng biển.
Sau
hai lần thất bại, Tướng Beauregard đắn
đo trước việc xử dụng lại con
tầu ngầm này nhưng khi đó lại có Trung Úy
George Dixon thuộc Trung Đoàn 21 Alabama Bộ Binh t́nh
nguyện điều kiển con tầu ngầm xấu
số một lần nữa mặc dù con tầu này
được mọi người tại Charleston
gọi là “chiếc quan tài đi ra biển” (seagoing
coffin). Trong khi giới có thẩm quyền c̣n đang phân
vân th́ một sĩ quan tham mưu luống tuổi can
thiệp vào vấn đề. Ông này biết chút ít
về tầu ngầm nên đă đề nghị dùng
tầu ngầm như một chiếc tầu thủy
mang thủy lôi. V́ vậy tầu ngầm được
lắp thêm một chiếc cần dài, một đầu
có buộc 40 kilô thuốc nổ. Buổi
chiều ngày 17 tháng 2 năm 1864, sau khi mặt trời
đă lặn, con tầu ngầm Hunley từ Port Sumter
bắt đầu ra khơi. Mục tiêu của tầu
là chiếc tầu chiến mới USS. Housatonic của
phe Miền Bắc. Sau khi chạy với tốc độ
tối đa 4 hải lư, tầu Hunley tới gần
mục tiêu lúc 21 giờ. Trên tầu Housatonic có
một thủy thủ đă trông thấy chiếc
Hunley bơi cách 100 thước nhưng lại nhầm
tưởng là một khúc cây trôi dạt, tới khi
nhận thức được và kéo c̣i báo động
th́ đă quá muộn, một tiếng nổ long
trời phát ra, chiếc tầu Housatonic bốc lửa
ngùn ngụt rồi ch́m dần sau vài phút. Sau cuộc phá hoại tại hải cảng Charleston, dân chúng ngóng đợi mà không thấy con tầu ngầm Hunley trở về. Tầu đă biệt tăm. Nhiều năm sau cuộc Nội Chiến kết thúc, các người thợ lặn khi khám xét chiếc tầu Housatonic ch́m dưới đáy biển, đă t́m thấy con tầu ngầm Hunley nằm nghiêng gần đó. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một chiếc tầu chiến bị tầu ngầm đánh ch́m. Mặc dù vậy, các nhân vật Hải Quân vẫn chưa dám tin tưởng rằng tầu ngầm là một thứ khí giới khả dụng.
Sau
hai năm nghiên cứu công phu cùng với một người
phụ tá và đứa con trai 12 tuổi, Whitehead đă
thành công về thứ thủy lôi “tự động”
đầu tiên. Loại thủy lôi này có đường
kính 36 cm, đầu mang 8 kilô chất dynamite và có
vận tốc là 6 hải lư trong 200 mét. Chính vào năm
1868, Whitehead đă hoàn thành bộ phận “ngăn thăng
bằng” (balance chamber), bộ phận này gồm
một pistông thủy tĩnh (hydrostatic piston) và một
con lắc phối hợp với nhau để kiểm
soát các bánh lái nằm ngang (horizontal rudders). Nhờ
“ngăn thăng bằng”, các thủy lôi đă
được điều hành rất chính xác,
khiến cho bộ phận này trở nên một “bí
mật quân sự”. Chính v́ vậy Whitehead đă
được Hải Quân Anh mời sang nước
Anh vào năm 1870 để biểu diễn rồi sau hàng
trăm lần phóng thử thủy lôi thành công, chính
phủ Anh đă trả cho nhà phát minh 15,000 bảng và
quyền chế tạo thủy lôi thuộc về nước
Anh. Về
sau vào năm 1884, thủy lôi c̣n được Trung Tá
Hải Quân Hoa Kỳ John A. Howell cải tiến
bằng cách dùng con quay (gyroscope). Cũng bằng phương
pháp sau này, Ludwig Obry, một kỹ sư hàng hải người
Áo hồi hưu, đă đem phối hợp vào
thủy lôi của Whitehead để trở thành
một thứ vơ khí chính xác hơn. 3/ Tầu Ngầm Peral.
Trong
nhiều thế kỷ, Tây Ban Nha là một quốc gia
có Hải Quân hùng hậu nhất nhưng tới
hậu bán thể kỷ 19, nước Đức
trở nên một cường quốc mới và đă
nắm giữ một vai tṛ quan trọng trên biển
cả. Để bảo vệ danh dự của
quốc gia, một sĩ quan Hải Quân Tây Ban Nha là
Trung Úy Issac Peral đề nghị với chính phủ
chế tạo tầu ngầm để Hải Quân Tây
Ban Nha có thể xếp ngang hàng với Hải Quân Anh,
Đức và Hoa Kỳ. Nhưng đề nghị này
đă bị giới thư lại Hải Quân của
Tây Ban Nha nghiên cứu và xếp xó.
Năm
1889, tầu ngầm Peral được hạ thủy.
Con tầu này chuyển vận bằng động cơ
điện và điện năng do một b́nh điện
cung cấp. Tốc độ của tầu là 10
hải lư khi chạy trên mặt nước và 8
hải lư nếu lặn xuống sâu. Tầu c̣n có
bộ phận giữ mực sâu tự động,
một máy đo tầm xa, một thứ địa bàn
mới và một phương pháp loại bỏ khí
oxid carbon. Trong
lần biểu diễn, tầu ngầm Peral đă
bắn 3 thủy lôi Whitehead trúng mục tiêu. Sự thành
công của Peral khiến cho dân chúng Tây Ban Nha tôn sùng
ông ta như một vị anh hùng. Trước danh
tiếng này, Nữ Hoàng Tây Ban Nha có vẻ không
bằng ḷng. Rồi một hội đồng hoàng gia
được thành lập để cứu xét
sự hoàn bị của tầu ngầm và hội
đồng đă cho rằng con tầu chưa đủ
khả năng cần thiết. V́ thế thứ vơ khí
này lại bị dẹp bỏ khiến cho 7 năm
về sau, hạm đội của Đô Đốc
Hoa Kỳ Dewey đă thắng được Hải Quân
Tây Ban Nha tại Phi Luật Tân mà không gặp phải
“tên sát nhân tàn bạo của biển cả”. Đô
Đốc Dewey phải tuyên bố rằng nếu người
Tây Ban Nha có 2 chiếc tầu ngầm tại Manila th́
hạm đội của ông không thể nào chiếm
được thành phố này. Do ảnh hưởng
của Đô Đốc Dewey, Bộ Hải Quân Hoa
Kỳ liền quan tâm đến tầu ngầm.
Bộ đă đặt ra giải thưởng để
trao tặng cho những ai chế tạo được
thứ tầu ngầm hữu dụng. Vào
thời đó tại Thụy Điển có nhà phát
minh Thorsten Nordenfelt cũng đóng tầu ngầm nhưng
thất bại. Trở ngại lớn nhất cho
việc đóng tầu lúc này là người ta
thiếu một động cơ thích hợp, nhưng
rồi các phát minh mới về động cơ
điện, b́nh điện và động cơ
chạy săng khiến cho các nhà kỹ thuật
thực hiện được ư định. Nhờ
động cơ điện và b́nh điện, Gustave
Zédé người Pháp đă chế tạo được
2 chiếc tầu ngầm, chiếc sau dài 49 thước,
ngang 6.4 thước và có trang bị thủy lôi
Whitehead loại 45 phân. Tuy nhiên ư tưởng về
thứ tầu ngầm tối tân là của hai nhà phát
minh người Mỹ, tên là Simon Lake và John Phillip
Holland. 4/ Simon Lake Và John Holland.
Mục
đích của Simon Lake không phải là đóng tầu
dùng cho chiến tranh. Lake thấy một số lớn
các tầu hàng bị đắm ch́m, đă mang
xuống đáy biển những kho tàng lớn lao. Ư tưởng
của Lake là muốn có một thứ tầu ngầm
mang được các đồ vật từ dưới
nước lên.
Chiếc
tầu ngầm đầu tiên của Lake được
đóng vào năm 1894 và được đặt tên
là Argonaut Junior. Nó chỉ dài 4.3 thước, ngang 1.5 thước
và cao 1.2 thước, lại được lắp bánh
xe để có thể di chuyển dưới đáy
biển. Tại đầu tầu có một căn pḥng
từ đây người thợ lặn có thể bước
ra ngoài mà nhặt lấy đồ vật. Giới
hạn xuống sâu của con tầu này là 6 thước. Kết
quả tốt đẹp trong lần thử đầu
tiên tại Vịnh Chesapeake đă khiến cho Lake đóng
thêm 2 chiếc tầu ngầm khác và cả hai
chiếc này đều được trang bị động
cơ săng, lại có giường cho thủy
thủ và không khí nén, đủ cho phép tầu
lặn 48 giờ liền. Loại tầu ngầm này
đă chạy được với vận tốc 8.5
hải lư trên mặt biển và 5.4 hải lư khi
lặn xuống nước. Mặc
dù Simon Lake đă chứng tỏ được
rằng tầu ngầm của ông có đủ khả
năng không những vớt đồ vật dưới
đáy biển mà c̣n có thể di chuyển an toàn dưới
nước nhưng chính phủ Hoa Kỳ vẫn không
lưu ư đến và không mua lại phát minh của
ông. V́ vậy tầu ngầm của Lake được
bán cho chính phủ Nga và được đặt
tại Vladivostok. Đồng
thời với Simon Lake, John Holland cũng nghiên cứu
rất nhiều tầu ngầm. Lư thuyết của
Holland khác xa lư thuyết của Lake. Nếu Lake chủ
trương cho tầu ngầm vẫn nằm ngang mà ch́m
dần xuống nước bằng cách để
trọng lượng tầu lớn hơn sức đẩy
Archimède một chút, th́ Holland lại cho rằng
tầu ngầm phải là một thứ tầu
biển dùng sức mạnh của nó và phải chúi mũi
để lặn xuống trong khi sức đẩy
của nước và trọng lượng của
tầu cân bằng nhau. Holland lại khác Lake ở
chỗ không quan niệm tầu ngầm là một
thứ xe chạy được dưới đáy
biển v́ vậy, tầu ngầm của Holland không
được lắp bánh xe như thứ của Lake. Sau
7 năm trời cố gắng thuyết phục các
thẩm quyền Hải Quân Hoa Kỳ về tầu
ngầm, năm 1895 John Holland đă kư với Hải Quân
một khế ước và nhận 150,000 mỹ kim
để đóng một chiếc tầu ngầm
mạnh 150 mă lực nếu chạy trên mặt nước
và 70 mă lực khi lặn. Khế ước trên c̣n
bắt buộc chiếc tầu ngầm phải xử
dụng động cơ hơi nước nếu
chạy trên mặt biển và động cơ điện
khi lặn ở dưới sâu. Sau
hai năm trời chế tạo tại xưởng
Columbian Iron Works tại Baltimore, MD, chiếc tầu
ngầm Plunger của Holland được hạ
thủy vào năm 1897. Tầu dài 25.6 thước, có h́nh
dáng một con thoi và hoàn toàn được vẽ
kiểu với mục đích chiến tranh. V́ Hải
Quân đ̣i hỏi quá nhiều về đặc tính
của con tầu nên Holland đă phải cho làm các
động cơ quá lớn, sự kiện này
khiến cho khi chạy máy, bên trong con tầu quá nóng
nực và một thủy thủ khỏe mạnh cũng
không chịu đựng nổi. V́ vậy chỉ ít lâu
sau, tầu Plunger không xử dụng được. Công
ty đóng tầu của Holland là The Holland Torpedo Boat
Company mà ngày nay trở thành The Electric Boat Division of
General Dynamics Corporation, lại bắt tay vào việc
đóng nhiều tầu ngầm mới. Chiếc
tầu ngầm thứ 9 của John Holland được
chính phủ Hoa Kỳ mua và được chính
thức công nhận làm một thành phần của
Hải Quân vào ngày 11/4/1909. Tầu được
đặt danh hiệu là USS. Holland để ghi
nhớ công lao của nhà phát minh.
Lúc
đầu các sĩ quan Hải Quân chỉ nghĩ
rằng công dụng của tầu ngầm là do thám
vị trí của tầu địch rồi báo cáo cho
các tuần dương hạm để các tầu này
giao chiến. Ít người dám tin rằng tầu
ngầm có thể tiến gần một tầu
chiến lớn mà đánh đắm loại tầu này,
v́ vậy vào những năm trước Thế
Chiến Thứ Nhất, mọi người đều
coi tầu ngầm là “con mắt” của hạm
đội, dùng làm vơ khí do thám hơn là loại
tầu giao chiến. Khi
Hoa Kỳ công nhận tầu ngầm USS. Holland vào ngành
Hải Quân th́ hành động này không gây được
ảnh hưởng tại các nước khác. Ở nước
Anh, nhiều người đă thảo luận vấn
đề này trước Hạ Nghị Viện và
Bộ Hải Quân đă trả lời rằng “đối
với tầu ngầm, Bộ Hải Quân không cần
cải tổ ǵ v́ loại tầu này chỉ là
thứ khí giới của một quốc gia yếu kém”. Tại
nước Pháp, có lẽ vào lúc này người dân
mới nhận thức được khuyết điểm
của Hoàng Đế Napoléon khi bác bỏ những
đề nghị của Fulton, nên dân chúng Pháp đă
lạc quyên được 300,000 quan để giúp chính
phủ chế tạo tầu ngầm. Trong khoảng
từ năm 1912 tới năm 1914, nước Pháp
đă đóng xong 49 chiếc. Tới khi Thế
Chiến Thứ Nhất bùng nổ, số tầu
ngầm của Pháp lên tới 67 chiếc và nước
Pháp trở nên quốc gia có lực lượng
tầu ngầm hùng hậu nhất và v́ nước
Đức không có nhiều tầu chiến xử
dụng trên mặt biển nên tầu ngầm của
Pháp không đoạt được các thành tích
vẻ vang. Một khuyết điểm lớn mà nước
Pháp phạm phải hồi này là Bộ Trưởng
Hải Quân đă bác bỏ kiểu mẫu tầu
ngầm của nhà phát minh M. d’Equeville. Nhận
thấy nước Pháp bắt tay vào một kỹ
thuật chiến tranh mới, Bộ Hải Quân Anh lúc
này mới lo lắng cho số phận của ḿnh. V́
không có người vẽ kiểu, nước Anh
đành phải mua kiểu tầu ngầm Holland
của Hoa Kỳ. Việc cứu xét chương tŕnh
chế tạo được giao cho Đại Tá
R.H.S. Bacon, thuộc về Hải Quân Hoàng Gia. Đại
Tá Bacon lúc này nhận thức được vài nguyên
tắc sai nhầm nên Hải Quân Anh cho áp dụng các
sửa chữa khi đóng 5 chiếc tầu ngầm.
Tuy nhiên nước Anh vẫn đặt tin tưởng
vào các con tầu chiến lớn, mạnh, trọng
tải nhiều và coi thường các tầu ngầm
nhỏ bé. 5/ Tầu Ngầm Kiểu U.
Tại
nước Đức, nhà phát minh d’Equeville đă
thuyết phục được chính phủ trong
việc đóng tầu ngầm và Hải Quân Đức
đă dùng kiểu mẫu của ông ta để
chế tạo loại tầu ngầm Unterseeboot. Vào năm
1906, chiếc tầu ngầm U-1 đầu tiên
được hạ thủy. Hai
quốc gia khác là Nga Sô và Nhật Bản trước
kia không quan tâm ǵ tới sự tiến triển
của tầu ngầm nay v́ chiến tranh, đă
vội vă t́m kiếm những sức mạnh mới
cho hải quân. Thời đó, Nhật Bản đặt
mua của Công Ty Holland Torpedo Boat 5 chiếc tầu
ngầm trong khi Nga Sô lại giao dịch với Simon
Lake để mua lại chiếc Protector. Vào
năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ.
Sau 2 tháng giao tranh, quân Đức đă tiến vào
đất Bỉ và Pháp. Trên mặt biển các
thiết giáp hạm của Anh vẫn liên tục
tuần hành. Vào tháng 9, Hải Quân Đức sẵn
sàng nghênh chiến. Ngày 22 tháng 9, Đại Úy Hải
Quân Đức Otto Weddingen và 27 thủy thủ
được lệnh ra đi trên con tầu ngầm
U- 9. Weddingen đă quan sát thấy các tầu thả
thủy lôi chạy trên Bắc Hải (Mer du Nord) nhưng
v́ muốn tấn công một mục tiêu lớn hơn
nên viên thuyền trưởng này đă cho tầu
lặn xuống nước. Lúc 6 giờ 10 sáng, qua
tiềm vọng kính, Đại Úy Weddingen nhận rơ 3
thiết giáp hạm Anh là HMS. Aboukir, HMS. Hogue và HMS.
Cressy di chuyển cách đó 3 dậm với đội
h́nh tam giác. Weddingen liền cho tầu ngầm U- 9
lặn vào giữa 3 tầu chiến Anh, rồi hạ
lệnh phóng một thủy lôi thứ nhất vào con
tầu Aboukir, thủy lôi phá đúng kho đạn nên
chỉ trong chốc lát, con tầu 12,000 tấn đă
bị nổ tung và vỡ làm hai. Tầu Aboukir ch́m
dần xuống đáy biển quá mau khiến cho người
ta không kịp thả một con thuyền cấp
cứu nào. Trong
khi 2 chiến hạm Hogue và Cressy c̣n đang phân vân chưa
biết nguyên do tai nạn th́ chiếc U- 9 lại phóng
luôn 2 thủy lôi nữa, nhắm vào tầu Hogue. Các
thủy thủ trên con tầu Anh Quốc này lúc
nhận biết được tầu ngầm Đức
th́ đă quá muộn. Đến khi này, tầu Cressy
mới bắt đầu khai hỏa th́ tầu
ngầm Đức bèn phóng thêm 2 thủy lôi nữa,
chiến hạm Cressy cũng ch́m dần xuống
biển. Chỉ
trong ṿng một giờ, 2 tầu chiến hùng mạnh
nhất của nước Anh, với phí tổn
chế tạo trên 4 triệu mỹ kim một chiếc
vào thời kỳ đó, đă bị triệt hạ.
1,300 sĩ quan và thủy thủ trong số 2,100 người
bị thiệt mạng. Từ khi chiếc tầu
ngầm Hunley đánh đắm chiếc Housatonic, đây
là chiến công đầu tiên của tầu ngầm
được ghi vào Lịch Sử Hải Chiến.
Đại Úy Weddingen và thủy thủ đoàn sau
đó trở về căn cứ vô sự và
được Hoàng Đế Wilhelm ân thưởng
huy chương “Chữ Thập Thép” (Iron Cross).
Weddingen được dân chúng Đức coi như
vị anh hùng và được chuyển sang chỉ
huy con tầu ngầm mới U- 29
Nhờ
khả năng của tầu ngầm và nhờ số
tầu ngầm kiểu U tăng lên, nước Đức
đă lấn át được Hải Quân Anh trên
mặt biển v́ vậy vật liệu chiến tranh
đă có thể đưa từ các nước trung
lập và từ thuộc địa của Đức
vào nước Đức qua ngả biển Manche và
Bắc Hải. Đến
bây giờ Hải Quân của các quốc gia khác
mới nhận thức được tầm quan
trọng của tầu ngầm, cả hai phe Đức
và Anh/Pháp đều t́m cách khai thác thứ vơ khí này.
Tháng 12 năm 1814, chiếc tầu ngầm B- 11 của
Anh đă lặn qua eo biển Dardanelles và đánh đắm
được con tầu chiến Messudien của
Thổ Nhĩ Kỳ. Tầu ngầm Áo cũng bắn
ch́m thiết giáp hạm Léon Gambetta của Pháp. Vào
lúc đầu của cuộc Thế Chiến, các
tầu ngầm c̣n dè dặt không dám tấn công
tầu bè của các nước trung lập. Ngay
cả khi gặp tầu địch chở hành khách, các
viên thuyền trưởng chỉ huy tầu ngầm thường
ra lệnh cho tầu địch ngừng lại,
bắt thủy thủ và hành khách phải rời
khỏi tầu bằng các con thuyền cấp cứu,
trước khi phóng một trái thủy lôi đánh ch́m
tầu hay gắn vào thân tầu một khối
chất nổ. Tới
mùa xuân năm 1915, Bộ Chỉ Huy Tối Cao Đức
thấy rằng mặc dù số tầu ngầm U
được gia tăng, hạm đội Đức
vẫn chưa triệt hạ được khả năng
về hàng hải của nước Anh. Người
Đức c̣n lo ngại số vật liệu tiếp
tế khổng lồ đưa từ Hoa Kỳ sang nước
Anh. V́ vậy các tầu ngầm U được
lệnh phong tỏa các hải đảo của nước
Anh. Vào thời gian này, việc khám xét tầu trước
khi đánh ch́m là một công tác nguy hiểm đối
với thứ tầu ngầm bé nhỏ nên người
Đức đă công bố rơ các vùng biển chung
quanh nước Anh, tại những nơi này, tất
cả mọi loại tầu bè sẽ bị đánh
ch́m, ngoài ra ở mọi nơi, tất cả tầu
bè Anh đều bị tấn công khi tầu ngầm
Đức bắt gặp. Ngày
7 tháng 5 năm 1915, chiếc tầu ngầm U- 20 do Đại
Úy Walther Schwieger chỉ huy đang đi tuần ngoài khơi
phía nam Ái Nhĩ Lan. Lúc 1 giờ trưa, Schwieger trông
thấy một chiếc tầu lớn 2 cột
buồm, 4 ống khói đang chạy với tốc
độ 22 hải lư một giờ tức là hơn
hai lần tốc độ lặn của tầu
ngầm. Chiếc U- 20 liền lặn xuống và đành
để cho con tầu đó đi khỏi v́ ở
ngoài tầm bắn của thủy lôi. Nhưng
bỗng dưng con tầu thủy kia lại đổi
hướng để đi vào tầm súng. Lúc
2 giờ 09 phút, chiếc U- 20 phóng đi một
thủy lôi trúng ngay thân tầu. Trong lịch sử
hải chiến, chưa có lần nào một quả
thủy lôi lại gây ảnh hưởng đến
cục diện của Thế Giới như lần này
bởi v́ con tầu thủy kia là chiếc RMS. Lusitania
chở 1917 hành khách và thủy thủ, vừa mới
rời bến cảng New York được
một tuần lễ. Chỉ trong vài phút, con tầu
Lusitania ch́m dần xuống biển, mang theo 1152 nạn
nhân trong đó có 124 người Mỹ. Các báo chí Hoa
Kỳ nhân việc này đă lên án hành động
của nước Đức và đây cũng là nguyên
do khiến cho Hoa Kỳ nhẩy vào ṿng chiến bên
cạnh nước Anh hai năm sau. Tới lúc này,
việc chống tầu ngầm Đức của phe
Đồng Minh được gia tăng. Tính tới
cuối năm 1915, nước Đức đă bị
tổn thất gần 50 tầu ngầm và các tầu
buôn đều bị đe dọa. Mùa
xuân năm 1916, Charles Fryatt, thuyền trưởng con
tầu buôn Brussels của nước Anh bị
chiếc tầu ngầm U- 33 chận xét giữa
đường từ Anh sang Ḥa Lan. Đáng lẽ
phải ngừng tầu lại để bị đánh
đắm, Fryatt cho tầu đâm thẳng vào tầu
ngầm rồi chạy trốn được. Khi
về tới hải cảng Harwich, thuyền trưởng
Charles Fryatt được dân chúng ca tụng về hành
động gan dạ và được tặng một
chiếc đồng hồ vàng. Ba tháng sau, con tầu
Brussels lại bị người Đức bắt.
Thuyền trưởng Fryatt bị xử bắn như
một tên cướp biển v́ đă cố ư đánh
đắm một tầu ngầm Đức trong khi ông
ta không thuộc Hải Quân Hoàng Gia Anh. Ngoài
kế hoạch xử dụng tầu ngầm để
đánh ch́m những tầu bè của phe Đồng
Minh, người Đức c̣n dùng tới các tầu
ngầm chuyên chở hàng hóa bởi v́ vào thời
bấy giờ, đường biển bị đe
dọa. Ngày 10 tháng 7 năm 1916, chiếc tầu
ngầm Đức Deutchland dài 84 thước, điều
khiển do 29 sĩ quan và thủy thủ, đă
chở 750 tấn thuốc nhuộm tới hải
cảng Baltimore để bán cho Hoa Kỳ. Khi đi qua
biển Manche, tầu đă lặn 4 giờ liền dưới
đáy biển và trong khi ở trên mặt nước
các khu trục hạm Anh đang t́m kiếm tầu
ngầm th́ ở dưới sâu, các thủ thủ
Đức ca hát và uống rượu Champagne. Sau 3
tuần lễ tới Hoa Kỳ, tầu ngầm
Deutchland lại lặn xuống biển và trở
về b́nh yên, mặc dù nó bị các tầu chiến
Đồng Minh đợi sẵn ngoài khơi để
bắn ch́m. Cũng
vào mùa thu năm đó, chiếc tầu ngầm U- 53
của Đức xuất hiện tại Newport, Rhode
Island, thuộc Hoa Kỳ, và viên thuyền trưởng
đă lên bờ để trao cho Ṭa Đại Sứ
Đức tại Washington một bức thư. Ba
giờ sau, con tầu này ra đi và trên đường
về, chiếc U- 53 này đă bắn ch́m 6 tầu
chiến Đồng Minh ở ngoài khơi Hoa Kỳ. Tính
tổng cộng nó đă đánh đắm 126 con
tầu và thắng 17 trận hải chiến. Vài
tuần sau khi từ Newport trở về, Đại Úy
Hạm Trưởng Arnauld de la Perrière được
ân thưởng Quân Công Bội Tinh (Ordre pour le Mérite),
một huy chương cao quư nhất của nước
Đức. Vào
khoảng năm 1916, Đại Đô Đốc Von
Tirpitz đă thúc dục Hoàng Đế Wilhelm ban
lệnh xử dụng lại chiến thuật tầu
ngầm nhưng nhà Vua đă từ chối v́ c̣n e
ngại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào
chiến cuộc. Tới tháng 2 năm 1917, Hoàng Đế
Đức bắt buộc phải tuyên bố lối
chiến tranh dùng tầu ngầm “không giới
hạn” hầu mong đánh bại lực lượng
Đồng Minh. Nhưng quyết định này
được ban ra quá muộn trong khi đó trên
mặt biển, các con tầu chuyên chở Anh Cát
Lợi vẫn ra đi từng đoàn, có khu trục
hạm và tuần dương hạm hộ tống. Các
cuộc tấn công bằng tầu ngầm của nước
Đức vẫn tiếp tục cho tới ngày đ́nh
chiến 11 tháng 11 năm 1918. Tính tới ngày chiến
tranh kết liễu, trong số 360 tầu ngầm
được người Đức chế tạo,
tuy 200 chiếc bị đánh ch́m nhưng những thành
tích do tầu ngầm lập được không
phải là không đáng kể: tổng số tầu
thuyền của phe Đồng Minh bị ch́m dưới
ḷng biển lên tới hơn 13 triệu tấn, trong
số này có 349 tầu chiến Anh Cát Lợi. Ngoài
ra với vài ngàn thủy thủ phục vụ cho ngành
tiềm thủy đĩnh, người Đức
đă cầm chân được 250,000 hải quân Anh
và như vậy, tầu ngầm đă làm thay đổi
hẳn chiến thuật dùng trên mặt biển cũng
như khiến cho các nhà quân sự phải t́m cách
sửa đổi các phương pháp tiếp vận
cho những lực lượng ngoài khơi. Mặc
dù vào giai đoạn cuối Thế Chiến Thứ
Nhất, tầu ngầm đă được công
nhận là thứ vơ khí quan trọng, đoạt
nhiều thành tích vẻ vang và chiếm ưu thế
trên biển cả, việc điều khiển
tầu ngầm vẫn c̣n là một công tác nguy
hiểm. Mỗi lần tầu lặn là một
lần phiêu lưu với Tử Thần bởi v́ người
thủy thủ không dám tin tưởng sẽ có
một chuyến lặn về sau. Các tầu ngầm
thường ra đi, gặp tai nạn rồi không có
ai trở về, nên người ta cũng khó ḷng t́m
hiểu được các nguyên nhân làm đắm
tầu. Muốn tránh bớt các rủi ro, người
ta chỉ c̣n cách bắt buộc các thủy thủ
phải là những người cẩn thận. V́
thế đức tính này và ḷng can đảm là hai
yếu tố cần thiết để tuyển
chọn các thủy thủ phục vụ trên tầu
ngầm. Do
kỹ thuật c̣n thiếu sót, các tai nạn xẩy
ra cho tầu ngầm không phải là ít. Vụ đắm
tầu thê thảm nhất trong lịch sử tầu
ngầm tính tới năm 1939 là vụ gặp nạn
của con tầu Thetis. Chiếc tiềm thủy
đĩnh này vừa được đóng xong
tại Công Xưởng Hải Quân Liverpool. Trong
chuyến chạy thử trước khi được
Bộ Hải Quân Anh chấp nhận, tầu Thetis
đă gặp nạn, khiến cho 99 thủy thủ
thiệt mạng và mặc dù việc cấp cứu
được thực hiện cấp thời, chỉ
có 4 thủy thủ được cứu sống. Phạm
Văn Tuấn
|
||||||||||||||||||