Người phác họa lá cờ Phật giáo thế giới là ai? |
||
Cư
sĩ Henry Steel Olcott (1832-1907), một sĩ quan
truyền tin, nhà báo, luật sư, đồng sáng
lập và Chủ tịch đầu tiên Thông Thiên
học là người phác họa ra lá cờ Phật
giáo thế giới.
Cư sĩ Henry
Steel Olcott, người Mỹ gốc châu Âu, vị
phật tử hộ pháp nổi tiếng trong sự
cải tổ Phật giáo, góp phần phục hưng
trong nghiên cứu Phật học, người tiên phong
và có nhiều đóng góp quan trọng đối
với việc vận động, tổ chức và
thực hiện phong
trào chấn hưng Phật giáo
tại Sri Lanka, khởi đầu cho phong trào chấn
hưng Phật giáo quốc tế vào cuối thế
kỷ 19. Một nhân vật hiện đại Phật giáo,
bởi những nỗ lực trong việc giải thích
Phật giáo thông qua ống kính Tây phương. Cư sĩ Henry
Steel Olcott đă góp phần không nhỏ trong
việc phục hưng Phật giáo Sri Lanka, và ông
đă được vinh danh tại Sri Lanka với
những nỗ lực này. Tổ quốc và nhân dân
Sri Lanka tôn vinh ông “Một trong những vị anh hùng
trong cuộc đấu tranh giành độc lập,
một người tiên phong trong hồi sinh tôn giáo, dân
tộc và văn hóa”. Cư sĩ Henry Steel Olcott sinh ngày 02/08 tại
Orange, New Jersey, từ một gia đ́nh Thánh giáo (Tin Lành)
được định cư ở nhiều thế
hệ tại Hoa Kỳ, là con trưởng của
một doanh nhân, gia đ́nh 6 người con. Thời niên thiếu, ông học tại trường
Cao đẳng thành phố New York và sau đó là Đại
học Columbia, nơi ông tham gia hiệp hội St.
Anthony Hall, một hội của những người
danh tiếng. Năm 1851 công việc kinh doanh của người
cha thất bại và ông buộc phải rời
khỏi trường đại học. Tại Đại học New York, ông chuyên
về khoa học nông nghiệp. Chỉ mới 22
tuổi, ông đă thành công trong nông trại với mô
h́nh khoa học do ông thành lập gần thành phố
Newark, tiểu bang New Jersey, việc thành công với mô
h́nh khoa học dẫn đến việc dẫn Chính
phủ Hy Lạp đề xuất cho ông làm Chủ
tịch Nông nghiệp tại Đại học Athens.
Ông từ chối danh dự và thành lập cùng năm
trường "Westchester Farm School" gần Mount
Vernon, New York, được coi là một trong những
người tiên phong trong hệ thống giáo dục nông
nghiệp quốc gia hiện nay. Ông đă trước tác cuốn sách đầu tiên mang tên Sorgho và Imphee, mía đường Trung Quốc và châu Phi, đă tái xuất bản đến 7 lần. Năm 1858, ông Olcott đă có chuyến thăm
đầu tiên tới châu Âu, vẫn tiếp tục
cải tiến nông nghiệp, và báo cáo về các phát
hiện của ông đă được xuất
bản trong cuốn American Cyclopaedia của Appleton.
Được biết đến như là một chuyên
gia, ông đă trở thành phóng viên của tờ Mark
Lane Express nổi tiếng của Luân Đôn, Associate
Agricultural Editor của tạp chí New York Tribune nổi
tiếng và là tác giả của hai cuốn sách
nữa về nông nghiệp. Cư sĩ Henry Steel
Olcott đă
xuất bản một phả hệ của gia đ́nh
ông, ông tổ là Thomas Olcott, một trong những người
sáng lập của thành phố Hartford, thủ đô
của tiểu bang Connecticut, vào năm 1636. Năm 1860, Cư sĩ Henry Steel Olcott cưới
Mary Epplee Morgan, con gái của hiệu trưởng
của giáo xứ Trinity (Chúa Ba Ngôi), New Rochelle, New York.
Họ có bốn người con, hai trong số đó
đă chết trong thời thơ ấu. Khi cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ bùng
nổ vào năm 1861, niềm đam mê của ông
về tự do đă thúc đẩy ông gia nhập quân
đội. Do thấy khả năng và sự can đảm
trong xử lư t́nh huống nhanh nhẹn, ông được
cấp trên tin tưởng và giao phó việc điều
tra một số gian lận tại Văn pḥng và
giải quyết nhanh gọn tại New York. V́ sự
nghiêm khắc nhưng giải quyết các vụ
việc thấu t́nh đạt lư, khiến biết bao
sĩ quan trẻ từ tham ô móc ngoặt trở thành
vị quan tốt để phục vụ đất nước. Ông phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ
trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ và sau đó
đă được nhận làm Ủy viên đặc
biệt của Bộ Chiến tranh ở New York. Sau
đó ông được thăng cấp đại
tá và chuyển
giao cho Cục Hải quân ở Washington, DC. Ông rất
được kính trọng, và vào năm 1865, sau vụ
ám sát Tổng thống Abraham Lincoln, ông đă hỗ trợ trong việc điều
tra vụ ám sát. Sự dũng cảm, t́nh yêu thương đồng
nghiệp, trí tuệ, đạo đức trong sáng
của ông. Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng:
“Chiến sĩ Henry Steel Olcott rất quan trọng
đối với quốc gia dân tộc, bởi
những chiến công oanh liệt”. Ông được
trao quyền lực không giới hạn, bởi đă
thấy rơ “Chiến sĩ trung kiên Henry Steel Olcott,
vị quan nổi tiếng thanh liêm”. Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Hoa
Kỳ đă viết: “Tôi không thể cho phép nhân viên
đi qua, mà không nói thẳng thắn với bạn,
sự đánh giá cao của tôi đối với các
dịch vụ mà bạn đă thực hiện, trong
khi giữ vị trí khó khăn và có trách nhiệm,
từ đó bạn sắp nghỉ hưu. Các dịch
vụ này đă đánh dấu bằng sự
nhiệt t́nh, năng lực và sự trung thành, đối
với nhiệm vụ không khoan nhượng”. Năm 1868, ông trở thành một luật sư
chuyên về bảo hiểm, doanh thu và gian lận.
Với sự kiên quyết trong xử lư các vụ tham
ô, cải cách hệ thống về bảo hiểm,
doanh thu và gian lận, ông đă nhận được
lời tán than ca ngợi của thượng cấp
rằng: “Tôi chưa từng bao giờ gặp một
người đàn ông, được giao nhiệm
vụ quan trọng, năng lực, tốc độ
tin cậy cao hơn nhiều so với những ǵ
bạn đă thể hiện. Hơn tất cả, tôi muốn chứng
kiến toàn bộ, sự thẳng thắn và tính
vẹn toàn của nhân vật, điều mà tôi
chắc chắn đặc trưng cho toàn bộ
sự nghiệp của bạn, và theo kiến thức
của tôi thấy bạn chưa bao giờ bị
tấn công. V́ vậy, bạn đă thoát khỏi những
ưu phiền trong xử lư các sự vụ, trên danh
tiếng bởi sự liêm khiết của bạn, khi
chúng tôi xem xét về nạn tham nhũng táo bạo, và
quyền lực của nhiều tên cướp ở
vị trí cao trong giới quan chức, những người
mà bạn đă truy tố và bị trừng phạt
đích đáng, là một cống hiến to lớn mà
bạn có thể tự hào, hiếm thấy ai
được như bạn, chiếm một vị trí
tương tự và thực hiện các phục
vụ tương tự ở đất nước này,
bạn đă từng đạt được
những thành quả đáng ghi nhận”. Năm 1874,
ông nhận thấy có những buổi ma
hiện hồn của Eddy Brothers ở Chittenden, Vermont.
Ông bắt đầu quan tâm, và viết một bài báo
cho tờ New York Sun, trong đó ông điều tra Eddy
Farms. Bài viết của ông đă được
nổi tiếng đến nỗi các tờ báo khác,
như tờ New York Daily Graphic, đă phải đăng
lại nó. Ấn phẩm năm 1874 của ông về
"Những người
từ thế giới bên kia" bắt đầu
bằng các bài báo đầu tiên của ông liên quan
đến phong trào duy
linh (hay giáng ma học). Cũng trong năm này, Cư sĩ Henry Steel Olcott
gặp nữ Cư sĩ Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891)
trong khi cả hai đang đi thăm trang trại Eddy.
Sự quan tâm của ông đối với phong trào duy
linh và mối quan hệ vừa chớm nở của
ông với bà Blavatsky đă giúp thúc đẩy sự
phát triển của triết học tâm linh của ḿnh. Cư sĩ Henry Steel Olcott tiếp tục công
việc luật sư
trong những năm đầu thành lập của
Hội Thông Thiên Học, ngoài việc là một người
ủng hộ tài chính của phong trào tôn giáo mới.
Vào đầu năm 1875 ông đă được
những thành viên nổi tiếng của hội
Giáng Ma Học nhờ điều tra một cáo
buộc về gian lận đối với các người
đồng cốt Jenny và Nelson Holmes, v́ họ đă
tuyên bố thực hiện được sự
gọi hồn của hồn ma nổi tiếng Katie
Kinh (Doyle 1926: tập 1, 269-277). Từ năm 1874 trở đi, ông phát triển
và tăng trưởng tâm linh với bà Helena Petrovna
Blavatsky và các nhà lănh đạo tinh thần khác đă
dẫn đến việc thành lập Hội Thông Thiên
Học. Năm 1875, nhị vị Cư
sĩ Henry Steel Olcott và Cư
sĩ Helena Petrovna Blavatsky, và những người khác,
đáng chú ư là William Judge, thành lập Hội Thông
Thiên Học ở thành phố New York, Mỹ. Cư sĩ
Henry Steel Olcott hỗ trợ tài chính những năm
đầu tiên của Hội Thông Thiên Học và
đă là vị chủ tịch trong khi Blavatsky là thư
kư của Hội. Trong tháng 12/1878 họ rời New York để di
chuyển trụ sở của Hội đến
Ấn Độ.
Họ đă hạ cánh xuống Bombay vào ngày 16 tháng 2
năm 1879. Cư sĩ Henry Steel Olcott đặt ra để
trải nghiệm những quê hương của nhà lănh
đạo tinh thần của ḿnh, đức
Phật. Các trụ sở của Hội đă
được thành lập tại Adyar, Chennai,
thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ là trụ sở
hội Thông Thiên Học Adyar, cùng thư viện Adyar và
trung tâm nghiên cứu.
Trong khi đó ở Ấn Độ, Cư sĩ
Henry Steel Olcott vẫn cố gắng để t́m ra các
bản dịch của các văn bản giáo lư phương
Đông đă có sẵn như là kết quả nghiên
cứu của phương Tây. Mục
đích của ông là để tránh những sự
giải thích phương Tây thường gặp
ở Mỹ, và khám phá ra những thông điệp
tinh khiết những tôn giáo như là Phật giáo,
Ấn Độ giáo, và các tôn giáo Zoroastrian, để
dạy lại đúng cách cho người phương
Tây. Đó đây nghiên cứu, học hỏi
nhiều tôn giáo trên thế giới, nhưng sự
lựa chọn đối với ông là Phật giáo và
ông được biết đến là bởi sự
đóng góp của ông trong công cuộc cải cách
Phật giáo Sri Lanka.
Sau bao tháng ngày, trao đổi thư tín với Ḥa thượng
Piyarathne Thissa, hai
người Helena Petrovna Blavatsky và Henry Steel Olcott, đă
đồng phát tâm quy y Tam bảo, thụ Ngũ
giới tại tu viện Wijayananda Viharaya, thành phố
thủ phủ của tỉnh Nam của Sri Lanka, lễ
truyền thụ giới vào ngày 25/05/1880 từ đó
hai người trở thành cư sĩ, phật
tử. Nhị vị Cư sĩ Henry Steel Olcott và Cư
sĩ Helena Petrovna Blavatsky tự nguyện quy y Tam
Bảo với một sự lư giải của
những tín đồ Thanh giáo (Tin Lành như sau: “Nếu
đạo Phật chứa đựng một giáo
thuyết độc đoán, buộc chúng tôi phải
chấp nhận, th́ chúng tôi sẽ không thụ Tam quy
y, tŕ Ngũ giới và tự phát tâm theo đạo
Phật trong 10 phút. Đạo Phật của chúng ta
do đức Đạo sư Thích Ca khai sáng, là đạo
của từ bi, trí tuệ, linh hồn của tất
cả những tín ngưỡng thế giới cổ
đại”
(Lập luận của Cư sĩ Henry Steel Olcott có
lẽ cũng là sự suy nghĩ của nhiều người
Âu - Mỹ “cải đạo” theo Phật giáo khá phổ
biến đương thời và các giai đoạn
sau này. Trong thời gian ở Sri Lanka Cư sĩ Henry
Steel Olcott phấn đấu để phục hưng
Phật giáo trong khu vực này, trong khi biên soạn các
giáo lư của Phật giáo để giáo dục người
phương Tây. Trong thời gian này, ông đă
viết giáo lư
Phật giáo (1881),
mà vẫn c̣n được sử dụng ngày hôm
nay. Việc xây dựng một số trường
học Phật giáo của Hội Thông Thiên Học
ở Tích Lan, đáng chú ư nhất trường Cao
đẳng Phật học Ananda tọa lạc tại
Colombo (Khánh thành ngày 01/11/1886), trường Phật
học Mahinda, tọa lạc tại Galle, Sri Lanka (thành
lập vào 03/1892), trường Cao đẳng Phật
học Dharmaraja, tọa lạc tại Kandy (thành
lập vào ngày 30/06/1887), Trường Cao đẳng
Phật học Maliyadeva, tọa lạc tại Kurunegala
(thành lập vào ngày 30/09/1888). Cư sĩ Henry Steel Olcott với vai tṛ cố
vấn cho Ủy ban bổ nhiệm để thiết kế một lá cờ Phật giáo vào
năm 1885. Lá
cờ Phật giáo được thiết kế
với sự hỗ trợ của Cư sĩ Henry
Steel Olcott, đă được thông qua như là
một biểu tượng của t́nh linh sơn pháp
lữ Phật giáo thế giới, lá cờ phổ quát
của tất cả các truyền thống Phật giáo
thế giới. Lá cờ được chính thức chấp
nhận trên đất Tích lan vào dịp
Phật đản ngày 28/4/1885.
Tuy nhiên măi đến
ngày 25/5/1950, trong lần hội nghị Phật giáo
quốc tế ở thủ đô Colombo (Tích lan),
với 26 quốc gia tham dự, lá cờ ngũ sắc
mới được chính thức và nhất trí
chấp nhận, nói lên sự thống nhất của
Phật giáo thế giới. “Ngày nay, một lá cờ chung cho toàn thể
Phật giáo - biểu tượngcủa ḥa b́nh,
từ bi và trí tuệ, không phân biệt màu da và
chủng tộc, không phân biệt giữa con người
và tất cả những sự sống khác - đă
phất phới trên lănh thổ của hơn 50
quốc gia trên thế giới. Ngày
24/2/1951, Ḥa thượng Thích Tố Liên (1903-1977),
đại diện Ủy ban Phật giáo thế
giới tại Việt Nam, đi dự Hội nghị
Colombo đă đích thân mang lá cờ quư báu này
về cho quê hương đất nước
Việt Nam”. Cuối cùng, Cư sĩ Helena Petrovna Blavatsky
đă sống tại London, Vương quốc Anh, nơi
bà về cơi Phật vào năm 1891, Cư sĩ Henry
Steel Olcott ở lại quê hương đức
Phật Ấn Độ và tiếp tục công
việc của Hội Thông Thiên học. Cư sĩ
Henry Steel Olcott vẫn tiếp tục trên cương
vị Chủ tịch Hội Thông Thiên học của
bà Annie Besant (1847-1933) đă tạo ra một kỷ nguyên
mới cho phong trào. Sau khi Cư sĩ Henry Steel Olcott
về cơi Phật, Hội Thông Thiên học bầu bà
Annie Besant tiếp nhận chức vụ Chủ
tịch và lănh đạo cho phong trào. Cư sĩ Henry Steel Olcott đă chịu đựng
những chuỗi dài bởi chiếc thân tứ đại
già nua, nhiều bệnh tật và sự kiên nhẫn,
luôn đối mặt với tử thần, nhưng
niềm an ủi lớn đối với ông cuối
đời, sự viếng thăm của các nhà
hiền triết Ấn Độ vĩ đại, mà
ông đă cho sức mạnh về nhân tính và ḷng
tận tụy của cuộc đời ḿnh. Hiện
thân cư sĩ suốt đời phụng sự
Phật pháp, viên măn báo thân, ông an nhiên về cơi
Phật vào ngày 17/02/1907 tại Ấn Độ, để
lại công tŕnh quư báu tuyệt vời. Cư
sĩ Henry Steel Olcott chính là người tiên phong và có
nhiều đóng góp quan trọng đối với
việc vận động, tổ chức và thực
hiện phong trào chấn hưng Phật giáo tại Sri
Lanka, khởi đầu cho phong trào chấn hưng
Phật giáo quốc tế vào cuối thế kỷ
19. Nhờ những hoạt động tích cực
và hiệu quả của vị cư sĩ hộ pháp
tuyệt vời, Phật giáo đă trở nên
thịnh hành không chỉ ở Sri Lanka mà c̣n ở Hoa
Kỳ, quê hương ông trong một diện mạo
mới. Cựu
Thủ tướng Chính phủ Sri Lanka từng ca
ngợi: “Cư sĩ Henry Steel Olcott là một trong
những vị anh hùng phật tử, đấu tranh
cho nền độc lập của chúng ta và là
một người tiên phong trong phong trào phục hưng
nền văn hóa Phật giáo ngày nay”. |
||