TRÁI
ĐẤT C̉N NUÔI NỔI LOÀI NGƯỜI KHÔNG? PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I. |
Quanh
ta có lắm chuyện tầm thường nhưng
vẫn phải bàn căi nhau dù không bao giờ có kết
cuộc. Ngày
xưa người th́ nói trái đất vuông. Người
th́ nói trái đất tṛn. Người nói trái đất
vuông nên mới đứng vững, cất nhà không
sập. Nếu trái đất tṛn th́ nó gập
gềnh làm sao cất nhà được. Trái
đất quay hay đứng yên? Ngày
xưa người ta tin rằng trái đất đứng
yên nếu không, nó phá giấc ngủ của Thần
Thánh. Có
người cho rằng nó quay chung quanh nó nên mới có
ngày và đêm. Chu
vi trái đất là 40,070 km. Kết quả này
đă được nhà toán học Eratosthenes (276-
194 trước Tây Lịch) thành Cyrenes, Libya t́m ra
trên 2,000 năm nay. Ông là quản thủ thư
viện Alexandria, thư viện đầu tiên của
nhân loại ở Ai Cập. Trái
đất quay chung quanh nó trong 24 tiếng đồng
hồ với tốc độ 1,670 km/ giờ.
Đây không phải là tốc độ nhỏ.
Thế mà không thấy nhà cửa rung rinh ngoại trừ
khi có dấu hiệu động đất. Hàng
ngày ngoài chợ người ta vẫn nghe những căi
vả, chửi bới nhau v́ đạp gót lẫn nhau
mặc dù tốc độ của người đi
bộ không quá 5 km/giờ. Tốc độ
xe hơi theo luật định ở Hoa Kỳ là 65
miles/ giờ tức lối 105 km/giờ. Với
tốc độ này mỗi khi xảy ra tai nạn
đều có thương vong. Vậy mà trái đất
quay với tốc độ 1670 km/giờ mà không ai
bị chóng mặt, nhức đầu, ói mửa v́
tốc độ di chuyển chóng mặt này. Trên
đời này có biết bao nghiêu chuyện tầm thường
trước mắt mà ta không thể giải thích cũng
không dám ghi nhận thực tế đă diễn ra như
thế. Thể tích trái đất không nở thêm
ra nhưng số người sống trên trái đất
càng lúc càng đông hơn. Nhu cầu xây cất
nhà cửa, giáo đường, trường học,
bịnh viện và muôn ngàn cơ sở khác vẫn không
làm cho trái đất chao đảo ngă nghiêng.
Trọng lượng của 1 tỷ nhân loại vào
hai thế kỷ trước quá nhỏ so với
trọng lượng của 7.5 tỷ nhân loại
của hai thế kỷ sau đó. Vào
thế kỷ XVIII và XIX nhân loại không đến 1
tỷ người nhưng nạn đói vẫn thường
xuyên xảy ra ngay ở Âu Châu nơi sớm phát
triển kỹ nghệ. Hoa
Kỳ là một quốc gia trẻ sớm phát
triển về mọi mặt.
Nhưng cho đến đầu thế kỷ XX
số người Hoa Kỳ chết v́ bịnh lao
vẫn c̣n. Ngày
nay dân số hoàn cầu gia tăng nhanh chóng mặc dù
người ta hạn chế sinh sản tự
nguyện hay thi hành đường lối của chánh
phủ. Đời sống đô thị lấn át
đời sống nông thôn. Thanh niên lo sự
nghiệp hơn là lập gia đ́nh để
truyền tử lưu tôn. Số người
lập gia đ́nh muộn gia tăng. Nhiều người
lập gia đ́nh lại không muốn có con hoặc có
một hay hai con mà thôi. Việc dưỡng
dục, vấn đề chỗ ở, nơi học hành
của con cái trong thành phố trong một nước
kỹ nghệ vô cùng nhiêu khê. Dù vậy những
con số thống kê dân số hoàn cầu dưới
đây không phản ánh đúng những ǵ chúng ta
nhận xét ở phần trên: NĂM
DÂN SỐ 1950
2.55 tỷ người 1960
3 tỷ người 1970
3.7 tỷ người 1980
4.5 tỷ người 1990
5.3 tỷ người 2000
6 tỷ người 2010
6.8 tỷ người 2020
7.585 tỷ người Trong
ṿng 60 năm từ 1950 đến 2010 nhân loại gia tăng
4.250 tỷ người (1 tỷ: 1,000 triệu).
Trung b́nh dân số địa cầu trong thời gian
trên tăng 70 triệu người mỗi năm.
Nhưng nhân loại không rơi vào nạn đói trái
lại loài người lâm vào t́nh trạng béo ph́.
Những nước có dân số gia tăng cao thường
là những quốc gia có: - kinh
tế yếu kém - c̣n
theo chế độ đa thê - sự
b́nh đẳng Nam- Nữ trong xă hội mất quân b́nh.
Chế độ đa thê c̣n duy tŕ. Trung
Hoa và Ấn Độ là hai quốc gia có dân số
cao nhất trên thế giới. Trong vài thập niên
qua Trung Quốc thi hành chánh sách một con. Trong vài
năm gần đây Beijing (Bắc Kinh) nới
rộng chánh sách 01 con lên chánh sách 02 con. Ảnh hưởng
Khổng Giáo trong tư tưởng người Trung
Hoa- dù theo chủ nghĩa Marx- Lenin- Mao Zedong- về
trọng nam và truyền tử lưu tôn vẫn c̣n
đậm nét. Chính sách 01 con cho thấy chánh
quyền lo ngại không nuôi nổi số dân khổng
lồ. Nó dẫn đến những hậu
quả không mấy tốt đẹp: - v́
người sinh con gái t́m cách phá thai hay sinh con gái
rồi đem bỏ rơi ngoài đường cho xă
hội lo liệu. Người ta chỉ muốn
sinh con trai để nối dơi tông đường và
báo hiếu cha mẹ lúc về già. - chênh
lệch giữa tỷ lệ NAM - NỮ càng lúc càng
rơ nét. NAM.>. NỮ. T́nh trạng nam
thừa, nữ thiếu gây ra cảnh Nam nhân sống
trong cảnh độc thân gia tăng. Một
số người nhờ mai mối cưới vợ
Việt Nam, Lào hay Cambodia. Nạn buôn người
diễn ra trên thế giới để hành nghề măi
dâm hay làm vợ tập thể. Nam tử trở
thành quí tử. Tỷ lệ người già nua ph́nh
to nhờ thuốc men và sự dinh dưỡng khá
đầy đủ khiến cho tuổi thọ gia tăng
so với quá khứ. T́nh
trạng trọng Nam khinh Nữ và sự chênh lệch
rơ rệt về tỷ lệ Nam-Nữ trở thành
điểm chung của hai nước đông dân
hất thế giới: Trung Quốc và Ân Độ. Trong
thời kỳ giữa hai thế chiến dân số
Nhật Bản gia tăng và được báo động
nhân măn.
NĂM
DÂN SỐ NHẬT
1930
64, 450 triệu
1935
69, 254 triệu
1945
72, 147 triệu Hiện
nay Nhật Bản báo động về t́nh trạng
tỷ lệ người già trong nước lên cao
trong khi dân số Nhật sụt giảm. Dân
số Nhật năm 2010 là 128, 057 triệu người.
Năm 2015 dân số gỉam xuống c̣n 127, 110
triệu người! Năm
1945 dân số Việt Nam là 23,697,000 người.
Sau 09 năm chiến tranh dân số Việt Nam là
30,468,000 người (gia tăng 6. 77100 người).
Từ năm 1960 đến 1975 Việt Nam trải qua
một cuộc chiến tranh đẫm máu ghê rợn
nhưng dân số Việt Nam (kể cả hai
miền) tăng từ 34,740,000 người lên 46,506,000
người (gia tăng: 11,766,000 người).
Dân số Việt Nam năm 1975 là 46,506,000 người.
Năm
2017 dân số Việt Nam là 96,160,000 người (gia
tăng: gần 50 triệu dân trong ṿng 42 năm.
Trung b́nh mỗi năm dân số Việt Nam gia tăng
lối 1.2 triệu người). Trái
đất không tăng diện tích. Không phải
nơi nào cũng là nơi cư trú được.
Nơi cư trú là nơi có nước, có sông,
suối, ao, hồ với khí hậu ôn lương
dễ chịu. Trái lại những vùng băng giá,
núi non chập chùng hay sa mạc nóng bức và
thiếu nước không thể là nơi sinh sống
tốt mặc dù những vùng ấy được
thiên nhiên ưu đăi về dầu khí, quặng
mỏ kim khí, đá quí. Có những nơi đất
đai màu mỡ, khí hậu ôn ḥa, các nguồn nước
phong phú nhưng lại có chánh quyền khắc
nghiệt không tôn trọng quyền làm người và
phẩm giá con người. Từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX người Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Ḥa Lan, Pháp, Anh t́m đặt thực dân
ở Bắc Mỹ (Canada , Hoa Kỳ ), các
quần đảo trong biển Caribbean (Pháp, Tây Ban
Nha, Anh), Trung Mỹ (Tây Ban Nha), Nam Mỹ (Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha), Nam Phi (Ḥa Lan, Anh), Úc Đại
Lợi (Anh, Ái Nhĩ Lan, Âu Châu), Tân Tây Lan (Anh,
Ái Nhĩ Lan, Âu Châu). Vào thế kỷ XX Hoa
Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan là
những vùng đất trù phú có thể chế chánh
trị dân chủ lư tưởng để sống.
Đến thế kỷ XXI ḷng nhân ái của các
quốc gia dân chủ Tây Phương trong việc dung
chứa người từ các nước nghèo hay chinh
chiến trở nên khắc khoải. Nguồn
gốc của sự mỏi mệt nầy xuất phát
từ những hành động khủng bố của
một số người Hồi Giáo quá khích cũng
như khả năng tôn trọng luật pháp và
hấp thụ văn hóa nước chủ nhà kém
cỏi của người nhập cư mà ra. Dân số càng gia tăng. Diện tích đất
đai do loài người chiếm ngữ càng gia tăng
để lập đường xá, cầu kỳ, nhà
ở, bến xe, giáo đường, học đường,
bịnh viện, nghĩa trang, hố rác v.v. Con người
phá rừng, xẻ núi để xây dựng làng
mạc, thành phố. Không
bao lâu các quốc gia nhỏ hẹp và đông dân
sẽ theo gương hỏa táng người chết
như Ấn Độ đă làm để tiết
kiệm không gian. Người sống lấn đất người
chết. Các nghĩa trang nhỏ hẹp dần và
biến mất một khi nhân loại hỏa táng người
chết để người chết không phải chôn
cất và không chiếm đất thổ cư
của người sống. Các loại thú rừng sẽ mất đất
sống. Các loài động vật to lớn như
voi, hà mă, tê giác, trâu rừng, ḅ rừng sẽ có
nguy cơ diệt chủng v́ thiếu thức ăn,
thiếu đất sống và v́ việc săn
bắn để bán ngà, sừng và răng. Trâu,
ḅ, ngựa không c̣n vai tṛ trong việc cày, bừa, kéo
xe. Trâu và ḅ được nuôi để ăn
thịt, lấy sữa, da và sừng. Ngựa
được nuôi để diễn binh, tuần tra
an ninh trong thành phố, dùng trong các cuộc đua
ngựa và các môn thể thao khác. Thịt ngựa
sẽ không c̣n xa lạ như đă thấy trong quá
khứ. Các giống thú chỉ c̣n được
nuôi giữ trong các sở thú lớn mà thôi. Các
loài thú ăn thịt như heo, dê, trừu, trâu, ḅ, gà,
vịt, thỏ được nuôi trong các nông
trại bằng cỏ khô, rơm rạ hay thức
ăn biến chế từ các loại hột hay khoai
củ. **** Người Việt Nam thường nói: “Trời
sinh voi sinh cỏ.” Con người được
tạo ra tất phải có sự sống. Các gia
đ́nh đông con lại khá giả mặc dù cha
mẹ phải lo lắng rất nhiều về sự
sống trong nhà cũng như tương lai của
đàn con của ḿnh. Những cặp vợ
chồng không con chẳng những cô đơn mà cũng
không khá giả ǵ. Đó là luật Trời sinh
Trời nuôi. Nhưng giữa người và người lại t́m
cách vất bỏ hay giựt phần ăn của người
khác để được tự hào ḿnh được
no ấm mà thôi. Sự phát triển khoa học kỹ thuật mang
nhiều tiện ích cho loài người. Máy móc càng
ngày càng tinh vi khiến con người tin vào máy và
bớt tin vào chính ḿnh. Cơ thể con người
thiếu vận động trở nên yếu kém và
nhỏ lại. Tuổi thọ con người có tăng
nhưng sức khỏe không đầy đủ.
Sự đề kháng của cơ thể đối
với vi trùng ngoại nhập yếu đi rất
nhiều. Năo bộ loài người bớt
hoạt động v́ đă có máy tính lo liệu giùm.
Học sinh không cần biết 1+1= 2 hay không cần
biết cửu chương làm ǵ cho mệt óc. Óc
con người hoạt động nghèo nàn th́ cảm
xúc của con người không thể dồi dào phong
phú hơn được. Máy móc thay thế con người
giải quyết các vấn đề của con người.
Người máy thay thế con người làm mọi công
việc có hiệu năng và chính xác hơn con người.
Các chủ xí nghiệp không phải tốn hao tiền
bảo hiểm sức khỏe, những đấu
tranh của thợ thuyền đ̣i mọi phúc lợi
dành cho công nhân. Chủ nhân chỉ cần dùng người
máy sản xuất và bán sản phẩm để thu
lợi tối đa mà không phải lo nghĩ ǵ đến
những ǵ xảy ra trong xă hội và quốc gia mà
họ sống. Việc thất nghiệp là một
vấn nạn xă hội hay là con người đă
đạt được cảnh thiên đàng hạ
giới: không làm vẫn có ăn? Số
thanh nam, thanh nữ độc thân gia tăng. Hàng loạt rào cản làm cho họ chùn bước
trước ước muốn lập gia đ́nh:
- công việc - chỗ ở - thời gian sống với gia đ́nh - quan hệ vợ chồng trong xứ
kỹ nghệ và máy móc - tánh t́nh vợ chồng dễ xung đột
nhau v́ mệt nhoài sau những ngày dài làm việc căn
thẳng - lo lắng về việc giáo
dục và lo cho tương lai con cái v.v. Kỹ
nghệ sản xuất mỹ nhân của Nhật và
Trung Quốc đă đạt đến tŕnh độ
tinh vi.
Nhiều thanh niên trên thế giới bắt đầu
làm bạn với những mỹ nhân “búp bê”
nầy. Tỷ lệ người sống độc
thân trên thế giới gia tăng. Nhưng không v́
vậy mà dân số hoàn cầu sụt giảm. Hy
vọng cuộc sống trên địa cầu không có
ǵ bi quan cả nếu cứ vững niềm tin “Trời
sinh voi sinh cỏ”. Mỗi con người có
phần số riêng. Phần số ấy tốt,
xấu hay b́nh thường căn cứ vào phúc đức
bản thân của người đó. Phúc đức
đó bao gồm: TÂM, Ư, NGỮ, HÀNH được
tích luỹ trong quá khứ. Một quốc gia cũng có
định số riêng của nó tùy vào TÂM, Ư,
NGỮ, HÀNH của tập thể dân tộc sống
trong quốc gia đó. Đó
là hy vọng đầu năm Mậu Tuất gởi
đến toàn thể bạn đọc. PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I. |