Từ thời xa xưa con người ta
đă biết sử dụng vũ khí sinh học
rồi. Thời Trung cổ, quân đội Âu châu hay Mông
cổ đă biết dùng máy bắn đá bắn xác
chết của những người nhiễm bệnh
dịch hạch vào thành luỹ đối phương,
đây thực sự là một h́nh thức vũ khí
sinh học.
Trước đó rất lâu, các bộ
lạc đă biết sử dụng mủ các loại
cây, các loại nấm độc vào hay nọc
rắn tẩm vào đầu mũi tên: đây là
một h́nh thức của vũ khí sinh học, hay cũng
có thể xem là vũ khí hoá học hay sinh -hoá
học.
Năm 1932 “Đơn vị 731”
của quân đội Nhật đă tiến hành
việc thử nghiệm các loại vi khuẩn Anthrax,
Cholera, Shigellosis, Salmonnella và Plague đối với các
tù nhân tại Măn Châu, và chương tŕnh “thí
nghiệm” này giết chết khoảng 10,000 tù nhân.
Năm 1940-1941, quân
đội Nhật đă rải ở 11 tỉnh Trung
Quốc những trái bom chứa vi sinh vật gây
bệnh dịch hạch. Họ c̣n thả những con
rận nhiễm dịch hạch, những hạt
gạo nhiễm trùng dịch hạch để thu hút
những con chuột ăn vào sau đó truyền
bệnh khắp nơi ở Trung Quốc.
Kể từ Đệ nhị thế chiến, cả
Mỹ, Anh lẫn Nga đều chạy đua để
t́m cách phát triển thứ vũ khí vi trùng từ
khuẩn đậu mùa và khuẩn Anthrax trên cừu.
Kho vũ khí này c̣n mở rộng với mầm
bệnh dịch hạch, dịch tả, những
bệnh do virus gây ra như sốt vàng da, bệnh virus
vẹt, cúm, những bệnh do trùng rận gây ra như
sốt ban chấy rận, những bệnh do độc
tố trong thức ăn, nước uống gây ra
ngộ độc hàng loạt.
Trong khi đó th́ hiệu quả của thứ vũ
khí này cũng như một canh bạc không chắc
chắn, đầy may rủi. Nhẹ th́ những
mầm bệnh có thể biến mất rất nhanh,
bị tiêu diệt khi lan ra ngoài môi trường ánh sáng,
bị các thực khuẩn tiêu diệt v.v… Nặng th́
chúng bùng phát thành những bệnh dịch không
thể kiểm soát, gây ra tác động ngược
chiều và trở thành là một thứ dao hai lưỡi.
Mầm bệnh có thể lan truyền qua đủ phương
tiện nước, bụi hay động vật, có
khả năng gây bệnh cao mà không cần phân
biệt “địch-ta”.
Đến
thập niên 60 công chúng Mỹ bắt đầu
phản đối và tháng 11.1969, Tổng thống Richard Nixon tuyên
bố đ́nh chỉ chương tŕnh nghiên cứu vũ
khí sinh học. Sau đó các cường
quốc đă ngồi lại để thảo
luận về một hiệp ước quốc
tế nhằm ngăn cấm việc phát triển và
sản xuất các loại vũ khí sinh học.
Năm 1972, Mỹ, Anh và Liên Xô cùng
kư Hiệp ước về vũ khí sinh học, nghiêm
cấm việc phát triển loại vũ khí tàn độc
này. Tuy nhiên năm 1989, khi ông
Vladimir Pasechnik –
một chuyên gia hàng đầu vũ khí sinh học
của Liên Xô – là đào thoát sang Anh, ông ta đă
tiết lộ nhiều bí mật động trời: Công ty sản xuất
dụng cụ y tế Biopreparat của Liên Xô, thành
lập năm 1973, chính là một cơ sở nghiên
cứu vũ khí sinh học.
Ba năm sau Tiến sĩ Ken Alibek (c̣n gọi là Kanatjan
Alibekov), khoa học gia trưởng tại Biopreparat, cũng
chạy sang Mỹ xin tỵ nạn và tiết lộ
nhiều tin tức khác liên quan đến chương
tŕnh sản xuất vi khuẩn bệnh đậu mùa
của “công ty”.
Cũng năm đó, một nhân viên KGB đào ngũ
sang phương Tây đă tiết lộ về thông
tin tương tự về chương tŕnh phát
triển vũ khí bằn vi khuẩn đậu mùa.
Tại sao Liên Xô lại
mặn mà với đậu mùa như vậy?
Vũ khí đậu mùa
Có lẽ đậu mùa là chứng bệnh làm
phiền lịch sử lâu dài nhất, gây nhiều
thay đổi nhất.
Tại Việt Nam, năm 1801 – chỉ một năm
trước ngày toàn thắng, trong lúc dẫn quân
đẩy mạnh cuộc tấn công dọc theo duyên
hải miền Trung c̣n quân Tây Sơn phải di
tản từ Huế ra Bắc, Nguyễn Ánh nhận tin
Hoàng tử Nguyễn Cảnh qua đời tại Gia
Định v́ bệnh đậu mùa.
Việc này khiến Gia Long có mối quan tâm đặc
biệt đến Tây y, hệ quả là trong số
ngự y của chăm lo cho sức khoẻ của ông
ta có một bác sĩ Pháp là Jean
Marie Despiau. Viên bác sĩ Pháp này được tin
cậy và có thể ngồi bên Gia Long đến giây
phút cuối cùng, cùng với các thái y Việt khác.
Trước đó, bệnh đậu mùa đă
được danh y
Tuệ Tĩnh, người được hậu
thế suy tôn là tiên thánh của ngành thuốc Nam,
nhắc đến trong tác phẩm Nam Dược
thần hiệu viết khi sống lưu vong trên đất
Tàu. Nổi tiếng có tài chữa bệnh, nhà Minh ép
nhà Trần cống cho ḿnh vào khoảng năm
1385, lúc ông đă 55 tuổi, sau đó đưa
về Bắc Kinh phong là “Đại
y thiền sư”. Gần bốn trăm năm sau, danh
y Lê Hữu Trác (1720-1791) lại đề cập
đến bệnh này trong Hải Thượng Lăn Ông
y tâm tâm lĩnh: “Gặp khi có dịch
đậu nghiêm trọng th́ cứ mỗi tối trước
khi đi ngủ, cha mẹ lấy ngón tay giữa nhúng
dầu mè mà xoa xát vào đầu, trán, gáy, lưng, eo
lưng, hai cổ tay chân của trẻ rồi cho
trẻ đi ngủ.”
Tại
Mỹ Châu, chính virus đậu mùa đă khiến
đế chế Inca hùng mạnh sụp đổ
chỉ trong ṿng hai năm trước đội quân Tây
Ban Nha không quá 200 người.
Năm 1532, chỉ trong
một ngày, đội quân chưa đầy hai đại
đội của viên chỉ huy Francisco
Pizarro đă đánh bại một đội quân hùng
mạnh hàng ngàn người và bắt sống Hoàng
đế Atahualpa, nhà cai trị hiếu chiến
của Đế chế Inca. Một năm sau, Pizarro hoàn
toàn kiểm soát hoàn toàn Đế chế Inca.
Sự sụp đổ của đế chế này
bắt nguồn từ đà suy vong sau những năm
tháng triền miên nội chiến, tuy nhiên c̣n có cơn
cớ từ bệnh đậu mùa.
Sau khi vua cha Huayna Capac
chết vào năm 1527, hai anh em Atahualpa và Huasca chia
nhau, em kiểm soát phía bắc, ông anh Huascar nắm
giữ phía nam có nhiều mối lợi hơn.
Năm 1529 Atahualpa dấy quân chống lại người
anh và chiến sự kết thúc năm 1532 khiến
Inca mệt mỏi, cạn kiệt tài nguyên. NĂm
1532, khi đến đây, hai đại đội Tây
Ban Nha có vũ khí tối tân hơn, lại cưỡi
ngựa nên cơ động hơn, có sức tấn
công vũ băo.
Ngựa không phải là sinh vật bản địa
của châu Mỹ, khi thấy các chiến binh Tây Ban
Nha cưỡi ngựa bắn súng, những chiến
binh Inca đă phát hoảng.
Nhưng quan trọng hơn là những
con virus đậu mùa: chúng chưa từng
hiện diện tại Nam Mỹ mà do người Tây
Ban Nha mang tới, làm suy yếu chủng người này.
Trong nhiều thế kỷ, Âu châu là nơi phát sinh
của hàng loạt các căn bệnh nan y, một
số bắt nguồn từ vật nuôi, một
số bắt nguồn từ châu Á và châu Phi.
Những mầm bệnh phát sinh từ vật nuôi
đă bùng phát mạnh mẻ ở các thành phố
đông đúc và chật chội. Nhiều người
đă chết nhưng những người sống sót
đă phát triển khả năng miễn dịch,
nhờ vậy người châu Âu có thể chống
chịu những bệnh như đậu mùa tốt hơn.
Chưa từng đối phó với dịch này, cũng
như không có thói quen nuôi thú trong nhà, người
bản địa châu Mỹ không có khả năng
miễn dịch như vậy.
Chính v́ vậy khi người Tây Ban Nha hay Bồ Đào
Nha đến Tân lục địa, những mầm
bệnh mang theo đă truyền nhiễm sang dân cư
địa phương, làm bùng phát những trận
dịch với tốc độ khủng khiếp.
Dịch bệnh lan ra toàn lục địa và dân
số suy giảm rơ rệt, đây mới là yếu
tố quan trọng nhất giúp đoàn quân của
Pizarro chiến thắng.
Người ta c̣n tin rằng có thể chính bệnh
đậu mùa đă giết chết ông vua Huayna Capac.
Tuy nhiên lúc này cả người Tây Ban Nha cũng chưa
biết ǵ về con virus, và họ cũng không hề
sử dụng nó như một thứ vũ khí.
Cho đến khi người Anh đàn áp người
da đỏ tại Canada.
Có thể nói rằng Anh là nước
đầu tiên sử dụng vũ khí sinh học,
trong cuộc chiến chống lại người da
đỏ tại Canada vào thế kỷ 18.
Đó là năm 1763, khi
người da đỏ ở Pontiac nổi dậy
chống quân Anh, Tư lệnh lực lượng Anh
tại Bắc Mỹ là tướng
Jeffrey Amherst (1717-1797) hạ lệnh cho đại
tá Henry Bouquet, chỉ huy trưởng đơn
vị đồn trú tại đây, phải sử
dụng vũ khí vi trùng.
Viên tướng này nhấn mạnh: “Ông không thể gieo
rắc bệnh đậu mùa cho bọn da đỏ
bất trị này hay sao? Chúng ta phải dùng mọi cách
có thể để giảm dân số bọn chúng càng
nhiều càng tốt!”.
Vâng lệnh thượng cấp, đại tá Bouquet dùng
những tấm chăn hay khăn tay của người
mắc bệnh đậu mùa rồi cố t́nh “đánh
rơi” hay “bỏ quên” tại những địa
điểm ở gần nơi cư trú của người
da đỏ.
Kết cục những tấm chăn ấm áp này
đă làm giảm đi 10 phần trăm dân số người
da đỏ tại Pontiac.
Phân loại vũ khí sinh học
Thành phần chính của vũ khí sinh học gồm các
các loại virus và vi khuẩn có thể gây ra bệnh
tật. Người ta phân loại chúng bằng
nhiều cách khác nhau dựa trên mục tiêu gây
mầm bệnh cho con người, vật nuôi hay cây
trồng.
Trong đó vũ khí sinh học nhắm vào con người
được xem là nguy hiểm nhất, loại này
gồm các mầm gây bệnh chính:
§
Vi khuẩn:
Là những sinh vật đơn bào có thể gây ra
bệnh tật, ví dụ như khuẩn h́nh que anthrax
(gây bệnh than), khuẩn gây bệnh dịch hạch.
§
Trùng
rận (Riketsi): Là những nhóm vi khuẩn sống kư
sinh như Coxiella burnetii, Rickettsia prowazekii và Rickettsia
rickettsii.
§
Virus: Là loại siêu vi khuẩn có trong
tất cả các cơ thể sống từ vi
khuẩn, nấm cho đến các loài động
vật và cây cối. Một số loại virus
nguy hiểm cho con người tiêu biểu như virus
Ebola, virus Marburg, virus bệnh đậu mùa và virus
bệnh đau màng năo Venezuelan equine.
§
Độc
tố: Là những chất độc do sinh vật
sống tạo ra (như động vật, vi
khuẩn, nấm, cây cối &). Ví dụ có độc
tố Aflatoxin, độc tố saxitoxin và trichothecene
mycotoxin (do nấm tạo ra), độc tố Botulinus
(Clostridium botulinum), độc tố ricin (do loài hải
ly tạo ra).
Những
loại khuẩn này đều được liệt
vào danh sách cấm của Công ước quốc
tế về vũ khi sinh hóa, do đó nguời ta lo
sợ đến kẻ hở của công ước này:
những chất cải biến “yếu tố di
truyền” (gene): thí dụ gieorắc các hạt lúa
mạch, luá ḿ đă biến đổi gene để
gây tác hại mùa màng hay gây bệnh tật ở người
tiêu thụ: hệ thống miễn dịch của con
nguời, thực vật hay động vật không
thể chống lại được bệnh đó.
Vũ khí sinh học trong tay khủng bố
Cái ǵ sẽ diễn ra nếu các nhóm khủng bố
hay tội phạm thủ đắc được các
loại vũ khí sinh học?
Theo các chuyện gia th́ sau khi Liên Xô sụp đổ
vào năm 1991, nhiều nhà khoa học chuyên về vũ
khí của Nga lâm cảnh thất nghiệp, và do đó
rất dễ bị đồng tiền cám dỗ và có
thể đă bán những kỹ thuật, bí mật và
thậm chí cả những chủng khuẩn để
sản xuất vi khuẩn cần thiết cho các
quả bom sinh học cho các nhóm khủng bố hay các
chính phủ độc tài.
Nhân loại hằng lo lắng nghĩ đến
một cuộc chiến khủng bố bằng vũ
khí sinh học mà thế giới hầu như chưa
sẵn sàng để đối phó.
Riêng tại Úc, các chuyên viên của chính phủ liên
bang cho rằng nếu cuộc tấn công bằng các
loại virus cúm mới th́ nước Úc sẽ hoàn toàn
lúng túng v́ không có đủ thuốc chủng
ngừa và vũ khí này có thể gây bệnh đến
25% dân số. Họ nhẩm tính; chỉ trong ṿng
từ 6 đến 8 tuần sẽ có:
§
từ 13,000
đến 44,000 người mất mạng
§
từ 57,900
đến 148,000 phải nhập viện
§
từ 2.6
đến 7.5 triệu người phải điều
trị ngoại trú.
Lúc này
bệnh viện sẽ bị quá tải, các công
sở và xưởng thợ cũng không có người
đến làm việc v.v.. và kinh tế sẽ bị
đ́nh đốn.
Năm 2008 Ngân hàng Thế giới (World Bank) đă
ước tính rằng một đại dịch cúm có
thể gây tốn kém 3,000 tỷ Mỹ kim và giảm
5% tổng sản phẩm thế giới. WB cũng
ước tính rằng hơn 70 triệu người
trên thế giới có thể chết v́ một đại
dịch.
Hiện tại, các cơ quan t́nh báo phương Tây
cho rằng có ít nhất ba nước vẫn đang
tiếp tục công việc nghiên cứu vũ khí sinh
học là Bắc Hàn, Iraq và Nga. Một số nước
khác cũng bị họ nghi ngờ là Trung Quốc,
Cuba, Ấn Độ, Pakistan và Iran.
Nói về vũ khí sinh học, chúng ta bàn luôn đến
vũ khí hoá học.
Vũ khí hoá học
Đọc sử Tàu chúng ta đă
biết đến các loại tên tẩm thuốc
độc, chế tạo từ các loại nhựa cây
động, và đây chính là một h́nh thức thô
sơ của vũ khí hoá học. Rồi
đọc kiếm hiệp Tàu, chúng ta c̣n biết
rằng các hiệp khách thuộc “danh môn chính phái”
thường tỏ vẻ khinh bí trước các chiêu
thức sử dụng độc dược của các
môn phái “tà ma ngoại đạo” v.v… Tên độc,
chất độc phun trong gió hay bỏ trong thức
ăn, nước uống cũng là một h́nh
thức của vũ khí hoá học.
Từ thế kỷ thứ 6 trước
công nguyên (CN) người Ba Tư đă biết
sử dụng các lại cây cỏ độc để
thả xuống các giếng nước hay đầu
nguồn các con sông của kẻ thù. Trong
cuộc vây hăm thành Ambracia
năm 187 trước CN, binh sĩ La Mă đă đốt
cây xông khói và phun tro để đối phương
bên trong ngạt thở.
Năm 673, người
Hy Lạp phát minh ra một thứ khói độc
gọi là “Lửa Hy Lạp” và họ đă giữ
kín bí mật pha chế của vũ khí này trong
suốt 5 thế kỷ sau đó.
Giữa thế kỷ 13, người Anh đă phóng vôi
bột vào tàu chiến Pháp, khiến những binh sĩ
bị dính vôi bột vào mắt không thể nào
chiến đấu. Ngay lúc đó họ phải lo
đi t́m nước để rửa nếu không th́
mắt sẽ sưng và sau đó có nguy cơ bị mù.
Cũng trong thời trung đại,
thổ dân da đỏ ở vùng Amazon đă lấy các
da cóc để ngâm thuốc độc tẩm vào
đầu mũi tên, cách thức tẩm độc này
được họ sử dụng cho tới thế
kỷ 20.
Theo thời
gian, vũ khí hoá học càng ngày càng phát triển tuy
nhiên phải đợi đến Đệ nhất
thế chiến (1914-1918), vũ khí hóa học mới
được sản xuất trên quy mô kỹ
nghệ và đưa đên những hậu quả
thảm khốc trên quy mô lớn.
Người có “công” mở đường cho
kiểu cách giết người này là Fritz Haber, một nhà hoá học Đức gốc Do
Thái.
Fritz Haber
Fritz
Haber sinh năm 1868 trong
một gia đ́nh khá giả, cha là một doanh nhân, có
một xưởng hoá học nhỏ. Sau khi tốt
nghiệp đại học Heidelberg và sau đó Berlin
(1886-1891) Haber trở về làm việc tại xưởng
hoá chất của cha ḿnh.
Sau một thời gian, ông đến Viện kỹ
thuật Zurich làm phụ tá cho giáo sư Georg
Lunge và từ đây trở nên say mê với
việc nghiên cứu nhiều hơn. Sau khi cho công
bố nhiều t́m ṭi chung với các đồng
nghiệp, năm 1896 Haber
bảo vệ luận án tiến sĩ hoá học
với đề tài «Tổng
hợp và phân hủy các hợp chất hydro-carbon». Ngay sau đó, ông được bổ
nhiệm làm giáo sư Lư-Hoá và Điện-Hoá tại
một viện nghiên cứu tại Karlsruhe.
Năm 1898, Haber cho xuất bản cuốn sách giáo khoa
Điện hoá học, vốn là tập hợp các bài
giảng tại Karlsruhe. Trong lời nói đầu
của cuốn sách này, ông bày tỏ ước
muốn “nối kết việc nghiên cứu hoá
học với các hoạt động kỹ
nghệ”.
Trong những năm đầu của thế kỷ 20
ngành nông nghiệp tiêu thụ rất nhiều phân
đạm mà nguồn cung cấp chủ yếu là phân
chim của Chile. Các loại chim biển thường
thải phân tại dọc theo một vùng bờ
biển dài 220 dặm của Chile. Tuy nhiên, Đức đang bị Anh chơi ép và
Hải quân Anh đang phong toả đường
biển của Đức đến Chile khiến ngành
nông nghiệp Đức lâm cảnh điêu đứng
v́ thiếu phân đạm. Haber
tự đặt cho ḿnh nhiệm vụ: tự chế ra phân đạm.
Năm 1905 ông công bố công tŕnh nghiên cứu
về hiện tượng “nitrat hoá” trong tự nhiên:
chính sấm sét đă
kết hợp hai nguyên tố nitrogen và hydro thành amonia. Sau đó, mô phỏng thiên nhiên, Haber cho khí
nitrogen kết hợp với khí hydrogen trong điều
kiện nhiệt độ 500 độ C và dưới
áp suất từ 150 đến 200 atmosphere với
sự xúc tác của sắt để tạo nên
amonia, thành phần chính để tạo nên phân đạm.
Phát minh của Haber là bước ngoặt lớn
của kỹ nghệ hoá học và nền nông
nghiệp thời đó và giúp cho Đức nắm
được độc quyền sản xuất và
xuất cảnh phân đạm nhân tạo. Năm 1911,
Haber được bổ nhiệm làm Giám đốc
Viện Lư-Hoá Kaiser Wilhelm ở Berlin
Đệ nhất thế chiến khai diễn vào tháng
8 năm 1914. Thoạt đầu, Đức tỏ ra
rất tự tiên với những chiến thắng
dồn dập, nhưng rồi quân đội Đức
bị sa lầy và chiến tranh rẽ sang một hướng
mới khi hai bên giằng co trong những hệ
thống giao thông hào lầy lội, ẩm thấp.
Binh sĩ hai bên càng ngày càng mệt mỏi trong khi thương
vong và bệnh tật ngày càng chồng chất.
Haber nghĩ đến một thứ khí độc có
thể len lỏi vào những hầm hố để
thay đổi cục diện chiến trường. Khí
ở đây là chlorine, có thể đốt cháy
buồng phổi của người hít phải:
với tỷ lệ 30 trên một triệu trong không khí,
chlorine khiến người hít ho rất nặng;
với tỷ lệ 1,000 trên một triệu, nó
sẽ gây tử vong.
Tuy nhiên, khi Haber tiếp xúc với giới quân sự
Đức để rao bán ư tưởng này, ông
đă bị khước từ. Không nản chí, ông
mời họ chứng kiến một cuộc thí
nghiệm và khi thấy được tác dụng
của khí độc này, giới lănh đạo Đức
bèn gắn quân hàm cho Haber để giúp đỡ
họ thành lập một binh đoàn hoá học. Ngày 22.4.1915, Đức đă đặt 5,730 b́nh
chứa chlorine ở gần pḥng tuyến quân Pháp và
Algeria tại lănh thổ Bỉ và mở khoá: cả
thảy 180 tấn chlorine thoát ra, tạo nên một
đám khói dày đặc và cuốn về đối
phương.
Kết quả thật là kinh khủng: lính Pháp và
Algeria bị ngạt, bị cháy phổi và chết
từ từ. Tối 23.4 và rạng sáng 24.4 Đức
lại sử dụng vũ khí này vào pḥng tuyến
của quân đội Canada với kết quả tương
tự. Chỉ sau hai đợt tấn công, vũ khí
mới của Đức đă sát hại 5,000 binh sĩ
và khiến 10,000 binh sĩ khác trở thành thương
binh.
Báo chí Đức tỏ ra khích động với
thứ vũ khí mới này, cho rằng nó c̣n “nhân
đạo hơn cả đạn và pháo”. Haber
được thăng lon đại úy và mở
tiệc ăn mừng. Tuy nhiên Clarra, vợ của Haber, cũng
là một nhà hoá học, tỏ ghét cay ghét đắng
“phát minh” của chồng, cho rằng khoa học
phải phục vụ việc xây dựng chứ không
thể phục vụ chiến tranh. Sau ngày đăi tiệc, hai người
đă căi nhau rầm trời, Clara gọi Haber là làm
một nhà khoa học suy đồi, Haber gọi Clara là
“phản bội Đức quốc”. Đến
tối, bà đă lấy súng lục của chồng
để tự sát bằng cách dùng súng bắn vào
ngay trái tim ḿnh.
Ngay sau đó Haber lại băng ra mặt trận
miền Tây, để đám tang của vợ ḿnh cho
người khác lo liệu. Nhiều người cho
rằng chính gốc gác Do Thái của Haber đă
khiến ông cố tỏ ra “Đức hơn cả
người Đức”.
Dù sao th́ Đức đă không chuẩn bị đầy
đủ: quân đội chưa trang bị đủ
các dụng cụ bảo vệ để “thừa
thắng xông lên” và do đó họ đă đánh
mất một cơ hội chiến thuật mà Haber
đưa lại. Tháng 5.1915, Đức lại
tiến hành một trận tấn công tương
tự và dù quân đội đồng minh đă
được trang bị mặt nạ với bộ
phận lọc dùng nước soda, những dụng
cụ này đă tỏ ra vô dụng và kết quả
vẫn tỏ ra kinh hoàng.
Tháng 9.1915, Anh lại sử dụng khí độc tương
tự này, với 5,500 b́nh gas để chống quân
Đức, tuy nhiên gió lại xoay chiều giữa
chừng nên cả hai đều bị thiệt
hại nặng nề.
Tháng 12.1915,
Haber lại đưa ra một loại khí độc
mới là “phosgene”, một loại khí khó nhận, không gây
triệu chứng ǵ trong hai ngày đầu trừ
triệu chứng ngứa ngáy, phải đợi đến
hai ngày sau mới phá nát buồng phổi.
Tuy nhiên Anh lại khám phá thứ vũ khí mới này.
Đầu tiên họ phát minh một loại mặt
nạ khá an toàn, sau đó lại dùng cả phosgene và
chlorine để tấn công Đức. Tháng sáu 1916,
Anh đă phun hai loại khí này thành một đám mây
dày đặc trên một bề rộng 27 cây số,
và đám mây này đă len sâu vào bên trong pḥng
tuyến tới 19 cây số, sát hại bất cứ
sinh vật nào không có phương tiện bảo
vệ.
Cứ như vậy đến năm 1918, chiến
tranh hoá học giữa hai bên leo thang và Haber nghĩ
đến cách đưa các b́nh nén khí độc
trong đầu đạn đại bác. Khi chiến
tranh kết thúc, người ta ước lượng
vũ khí hoá học đă giết chết 100,000 người
và làm bị thương 1,000,000 người.
Tuy gây ra
một thảm hoạ khủng khiếp như vậy,
năm
đó Hàn lâm viện Thụy Điển lại trao
giải Nobel Hoá Học cho Haber dựa trên đóng góp
của ông đối với nhân loại qua việc
chế tạo phân đạm.
Khi Hitler lên cầm quyền th́ cuộc đời Haber
rẽ sang hướng khác. Dù có chứng tỏ ḿnh
“Đức hơn người Đức”, gốc gác
Do Thái đă khiến ông trở nên cảm thấy
bất an và năm 1933 Haber sang Anh làm
việc. Sau đó ông chuyển qua
định cư tại Thụy Sĩ và qua đời
tại đây vào năm 1935.
Trước khi qua đời, ông yêu cầu được
mai táng cạnh người vợ cũ Clara.
Sự lo lâu mới
Về mặt vũ khí hoá học th́ hiện thế
giới đang lo ngại bom bẩn, tức thứ bom
dùng để tung rác thải hạt nhân để
tạo nên t́nh trạng nhiễm phóng xạ trên quy mô
lớn. Những quả bom như thế không giết
người tức khắc mà, với ảnh hưởng
của phóng xạ, sẽ khiến con số các
bệnh nhân ung hư, hoại tử tăng vọng,
khiến các trung tâm thương mại, các vùng dân cư,
các cao ốc trở thành những nơi không thể cư
ngụ được, và do đó sẽ làm nền
kinh tế kiệt quệ.
Phạm Đức Đồng Hùng
|