Wernher
Von Braun (1912-1977) Nhà Bác Học Về Hỏa Tiễn Phạm Văn Tuấn |
||||||||
Vào
cuối cuộc Thế Chiến Thứ Hai, dân chúng nước
Anh đă kinh hoàng, điêu đứng v́ một
thứ khí giới mới: bom bay. Các quả bom không
biết từ đâu, đă rơi xuống thành
phố London cả ngày lẫn đêm. Cha đẻ
của thứ vũ khí này là một nhà bác học
trẻ tuổi mà thời bấy giờ giới Khoa
Học chưa được biết tiếng: Von
Braun. Về
sau vào thập niên 1960, các thành công của Von Braun
về hỏa tiễn liên lục địa và thám
hiểm không gian đă khiến cho toàn thể Thế
Giới phải chú ư và theo dơi. 1/ Thuở Thiếu
Thời.
Wernher
Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz,
tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước
Đức, phần đất này ngày nay đă thuộc
về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người
con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha cậu là
một điền chủ nghiêm nghị, đă
từng tham gia vào việc chính trị của nước
Đức thời Cộng Ḥa Weimar, c̣n mẹ cậu,
bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê Thiên Văn
Học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng
vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành
tinh cùng các v́ sao lấp lánh trên bầu trời. V́
vậy cậu Wernher đă ước mơ một ngày
kia cậu có thể đặt chân lên các thiên
thể xa lạ đó. Mới
13 tuổi, Wernher đă ưa thích chơi pháo. Cậu
nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của
trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe
chạy thục mạng như một con quái vật, gây
kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy
ngựa bạt vía. Cậu bị cảnh sát dẫn
về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng: "Wernher, mày không
được làm mang tiếng tao như vậy. Tao
sẽ cho mày vào ở trong kư túc xá của một trường
học cách đây 5 cây số để mày hết
nghịch ngợm đi". Thế
rồi sang niên học mới, Wernher rời gia đ́nh
theo học tại một ngôi trường hẻo lánh
tọa lạc trên một ḥn đảo miền Frise.
Tại nơi đây, cậu không chăm chỉ
học hành. Đối với các thầy giáo, cậu
là một học tṛ kém v́ vị Hiệu Trưởng
đă phê b́nh về cậu: "Học
tṛ thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán,
khó ḷng theo học nổi". Vào
năm 1925, do t́nh cờ Wernher Von Braun được
đọc một quyển sách về Thiên Văn. Trong
cuốn sách này có vẽ một chiếc hỏa
tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm
theo là một bài do Hermann Oberth viết. Oberth là một
trong vài lư thuyết gia đầu tiên về hỏa
tiễn, cũng là đồ đệ của
Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh
phục không gian. Cuốn
sách của Obeth, "Hỏa tiễn trong
không gian liên hành tinh", đă làm ngạc
nhiên nhiều người và làm điên đầu
cậu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường
của cậu dày hơn 100 trang này thật là khó
hiểu đối với cậu, v́ nó chứa đựng
rất nhiều phương tŕnh bí hiểm. Cậu
quyết định xin cha cho học tư về Toán
Học và Vật Lư. Có lần Von Braun đă nói "Toán Học rất cần thiết cho
việc hiểu biết về cách đi đường
trong không gian nên tôi quyết định t́m
học". Von Braun tiến bộ về Toán
Học và Vật Lư đến nỗi cậu có
thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn
trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt.
Vào
năm 1928, Hội Du
Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được
Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng
một tờ báo lấy tên là "Hỏa Tiễn" và tập hợp
được một số nhà bác học cùng các
thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các
độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có
một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao
lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu
lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher
Von Braun vừa học xong bậc trung học và
đă ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin. Tới
mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và
tŕnh bày với ông ta về sở thích của ḿnh
đối với sự thám hiểm không gian. Von Braun
lại muốn được ông Ley giới thiệu
vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một
hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von
Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó,
chàng Von Braun hănh diện được vác trên vai các
hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng
đi. Thời
đó, nhà sản xuất điện ảnh danh
tiếng Fritz Lang có ư định quay một cuốn
phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời
Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận
lời nhưng cũng không quên đ̣i hỏi một
số tiền thù lao đủ để chế
tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự
định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn
phim bắt đầu chiếu. Năm
đó, cuốn phim "Một người
đàn bà trên mặt trăng"
của Fritz
Lang
mang lại đầy thành công trong khi việc phóng
hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái
với lời tán dương rầm rộ của báo
chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không
Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ư
họ, sở dĩ họ gặp thất bại
về hỏa tiễn bởi v́ chưa t́m ra được
một thứ nhiên liệu có thể tạo nên
một áp suất đủ mạnh cần thiết.
Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra
một chất cháy mới. Tại
Reinickendorf, ngoại ô
của thành phố Berlin, có một khoảng đất
trống. Hội Du Lịch Không Gian liền kư một
giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày
27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên
với giá là 1,500 đồng trong một năm.
Khoảng đất này được đặt tên
một cách hănh diện là "Phi Trường Hỏa Tiễn".
Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng
chỉ vài tháng sau, đă được khắp
thế giới biết đến v́ tính cách đặc
biệt của nó. Nhiều người đă từ các
nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ
t́nh nguyện giúp sức vào công cuộc thí
nghiệm. Tại nới đây có mặt đầy
đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí:
kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội
Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng
các hỏa
tiễn Mirak
loại nhỏ cũng ra đời. Tính tới năm
1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đă thành
công trong 85 lần thử và một trong các hỏa
tiễn đă lên cao được một dặm,
đạt kỷ lục của thời đó. Mùa
xuân năm
1932, Von Braun học xong chương tŕnh kỹ sư
của Viện Kỹ Thuật Berlin (the
Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt
được văn bằng Tiến
Sĩ Vật Lư
của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên,
sự học hành không làm gián đoạn công
cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa
tiễn của Von Braun. 2/ Chế Tạo
Hỏa Tiễn.
Vào
năm 1931, quân đội Đức t́m kiếm
một thứ khí giới mới, có tầm hoạt
động xa mà không bị ngăn cấm bởi Ḥa
Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là
thứ khí giới phù hợp với điều
kiện trên. Đại
úy kỹ sư Walter Dornberger
được giao phó trách nhiệm phải viết
một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta
liền tới thăm phi trường hỏa tiễn
trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham
dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi
đó, Dornberger đă để ư đến Wernher Von
Braun v́ nghị lực, v́ sự sáng suốt và trí
hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả
kế hoạch về hỏa tiễn được
chuyển tới Bộ Tổng Tham Mưu Đức vào
mùa thu năm 1932. Vào
một ngày của tháng
8 năm 1932,
Von Braun được mời đến trung tâm
thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf.
Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông
ở phía nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20
tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ
Thuật, Đại Úy Dornberber làm Giám Đốc Quân
Sự c̣n ngân quỹ của trung tâm do Bộ Binh Đức
đài thọ. Thời
kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu
vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf. Tại
trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xẩy ra không
phải là ít. Đă có lần Von Braun thoát chết,
song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư
danh tiếng Max Valier đă chết trên vũng máu v́ máy
điều chỉnh phát nổ trước kỳ
hạn và đă phóng một mảnh thép vào ngực
ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa
học, cũng chết tan xác v́ thứ thuốc
nổ mới phát minh. Tại
trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đă say sưa làm
việc. Người ta thường thấy ông
ngủ trên các họa đồ dang dở: Von Braun
đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một
thứ dài 1,40 mét c̣n thứ kia cao 3 mét. Khi
bước chân vào trung tâm hỏa tiễn, Von Braun tưởng
Bộ Quốc Pḥng Đức sẽ bỏ ra hàng
triệu bạc để thực hiện chương
tŕnh chế tạo vũ khí này. Nhưng ông đă
lầm. Ngân quỹ đă không cho phép trung tâm tiêu quá
một số tiền giới hạn, mọi vật
liệu đều thiếu thốn. Mặc dù các
trở ngại, hai loại hỏa tiễn kể trên cũng
được hoàn thành và đă lên cao được
hơn 2,200 mét, thật là một thành công đáng
kể. Trung tâm Kummersdorf càng ngày càng trở nên
chật chội. Giới quân sự Đức
đang t́m kiếm một nơi rộng răi hơn. Vào
một dịp Giáng Sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên
của ông dự lễ trên một ḥn đảo
nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo
Peenemunde
này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một
vị trí kín đáo, rất đáng là nơi thử
vũ khí bí mật. Từ
tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc Pḥng Đức
bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde:
đường lộ, cầu cống, sân bay, băi phóng
hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô
cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận
ra các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lư
gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên…
hoạt động tại đây. Họ làm việc
quần quật từ sáng tới tối. Phương
châm của họ được khắc trên mặt
tiền của trung tâm nghiên cứu: "Các vật lư gia, kỹ
sư, kỹ thuật gia là những người
tiền phong của Thế Giới Mới". Tại
nơi đây, các tai nạn xẩy ra không phải là
ít nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết
được nhiều bài toán mới lạ. Các
hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều
đó không khiến cho các tướng lănh Quốc Xă
đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng
ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ
khí giới mới lạ này. Đă có lần Hitler
tới thăm Trung Tâm Hỏa Tiễn Peenemunde mà không
nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản. Sau
khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra
đời một loại hỏa tiễn lên cao
được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi
phim chụp tới Hitler nhưng không được
trả lời. Các tướng lănh cao cấp Đức
cũng bắt chước thái độ im lặng
của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư
của Von Braun. Các phương tiện thiếu
dần làm cho kết quả trở nên tại hại.
Quân đội Đức lại bắt đầu
thua ở khắp các mặt trận, v́ vậy Hitler
hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa
tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh tra quân
đội tới dự các cuộc phóng thử,
hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng
đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại
Tướng Becker,
được Hitler gọi đến: ông ta được
quyền chọn đến trại tập trung
hoặc tự sát. Ông Becker đă tự tử. C̣n Von
Braun, ông biết rằng nếu sau một lần
bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông
sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành
hạ. May mắn thay, lần thử thứ ba đă thành
công. Vào
ngày 7-7-1943, Von
Braun
được phong tặng chức Giáo Sư c̣n Dornberger
được thăng chức Thiếu Tướng,
rồi hai người được gọi đến
Văn Pḥng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xă
đă tỏ ra hối tiếc rằng nếu có
hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đă không
có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc
chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san
phẳng các thành phố London và New York trong một
thời gian ngắn. Von
Braun trở về đảo Peenemunde và được
toàn quyền hành động. Đảo này được
tăng cường về mặt quân sự cũng như
an ninh. Giám đốc Sở T́nh Báo Gestapo đích thân
theo dơi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh
pḥng ngày đêm, chung quanh đảo là các băi ḿn
tự động và hàng rào dây kẽm có mắc
điện cao thế làm cho ḥn đảo trở nên
bắt khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa
hết, người ta c̣n gạch tên Peenemunde trên
bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng
kế cận Karlshagen. Von
Braun có 5,000 người dưới quyền. Tất
cả các kỹ thuật gia đều gắng sức
làm việc để lấy lại thời gian đă
mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của
Von Braun đă bị gián điệp Đồng Minh
biết. Các người dân chài Thụy Điển thường
kể lại rằng họ thấy các vật lạ
bay rất nhanh và phát ra những tiếng động
đinh tai nhức óc. Có người lại nhặt
được các mảnh vỡ trong đó có
chứa đựng những phụ tùng điện
tử. London
rất lo lắng. Lệnh oanh tạc ḥn đảo
Peenemunde được ban ra vào cuối
tháng 7 năm 1943.
Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt
rồi đến ngày 17-8
mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn
tấn bom đă đổ xuống ḥn đảo. Toàn
đảo ch́m trong biển lửa. Hàng ngàn người
chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt
hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên
đảo, Von Braun đă phải khóc cho công tŕnh
của ḿnh. Một
trung tâm hỏa tiễn thứ hai được
thiết lập tại Volkenrode trong dăy núi Hartz. Người
Đức lại cố gắng làm việc. Loại
bom bay được lắp hàng loạt tại hai
trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên
cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và
loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu
ngầm. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng
bị bắt giam trong nửa tháng: Himmler đă tố
cáo ông phá hoại v́ ông đă chú trọng đến
việc chinh phục không gian hơn là t́m cách tàn phá
các thành phố London và New York. Tới khi Đại Tướng
Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun
mới được trả lại tự do. Từ
năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công
nhận rằng không có thứ vơ khí nào chống
lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho
bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn.
Đô Đốc Canaris, Giám Đốc Sở Phản
Gián Đức Quốc, là người lo xa nên đă
phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt
các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu
tại nóc những ṭa nhà chọc trời tại thành
phố New York. Các máy phát sóng này sẽ hướng
dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức
nổi lên tại ngoài khơi Đại Tây Dương. Các
bom bay đă được sẵn sàng từ đầu
năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau
khi xẩy ra cuộc đổ bộ của Đồng
Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí
mật đó mới xuất hiện. Quả
bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất
Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho Chiến
Dịch Vergeltung (Báo Thù).
Người Đức đă dùng chữ V để
đặt tên cho bom bay. Nhiều
người đă kể lại rằng vào 4 giờ sáng
hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một
vật sáng bay lại. Vật càng tới gần,
tiếng rú của máy càng được nghe rơ,
rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của
thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn
phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường,
trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi
xuống đất Anh. Người ta tính rằng
chỉ trong ṿng 3 tuần lễ, thành phố London
đă lănh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng
Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương
pháp pḥng không. Nhưng phải chờ đợi
tới 3 tháng sau, người Anh mới t́m ra cách
chống đỡ.
Tới
ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt
đầu tung hoành. Đây là một thứ vơ khí có
thể mang 800 kilô chất nổ tới các mục tiêu
xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ
siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong
khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ
thống hoàn hảo nào báo động sự lao
tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đă
tàn phá thành phố London và nước Ḥa Lan cả ngày
lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đă
đánh dấu một bước tiến trong lịch
sử chiến tranh của Nhân Loại. Vài
năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của
Tạp Chí New Yorker, Von Braun đă nói về thứ khí
giới đó: "Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa
tiễn của chúng tôi được sinh ra v́
một lư tưởng, nhưng lại bị áp
dụng vào công việc giết người. Chúng tôi
đă vẽ ra hỏa tiễn với mục đích
mở đường tới các hành tinh khác, chứ
không phải để tàn phá chính Trái Đất này". Ngoài
bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí
giới bí mật. Người Đức c̣n định
dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn
lần: bom nguyên tử. Thực vậy, ngay
từ năm 1939, nhà vật lư người Đức
Otto Hahn
đă thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên
tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đă chế
tạo được chất Plutonium. Rồi kết
quả của công tŕnh khảo cứu của Otto Hahn
trong năm 1944 đă khiến ông đoạt Giải
Thưởng Nobel về Vật Lư của năm 1945.
Tất cả các sự kiện này khiến người
ta tin chắc rằng nước Đức đă
bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử. Vào
năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến
dần vào lănh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi
vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa
tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay
phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân c̣n cách Peenemunde 100 cây
số, Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung
tâm hỏa tiễn: người ta dùng anatol, chất
nổ của bom V-2, để phá hủy tất
cả các cơ xưởng. Von
Braun và đại đa số chuyên viên quyết định
tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn
xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng
qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von
Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu
tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc
đi đường, 5
kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp
Hồng Quân Liên Xô.
12 năm sau, họ là những người có công
đầu trong việc phóng lên không trung vệ
tinh Spoutnik.
Trong cuộc hành tŕnh di tản, Von Braun bị thương
ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông
rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa
đựng một dự án về hỏa tiễn liên
lục địa và một dự án về vệ tinh
nhân tạo. 3/ Chương Tŕnh Không
Gian.
Từ
tháng 4 năm 1945, Đại Tướng Eisenhower được
lệnh thu thập, kiểm soát và ǵn giữ mọi
giấy tờ, hồ sơ, kế hoạch liên quan
tới kỹ nghệ và khoa học cùng các tài
liệu khác của các tổ chức Đức
phục vụ cho mục tiêu quân sự. Vào tháng 5 năm
đó, lệnh trên được nới rộng
tới các khoa học gia, kỹ sư và kỹ
thuật gia về hỏa tiễn của Đức
Quốc. Do Chiến Dịch Paperclip này, hồ sơ các
nhà khoa học Đức đă được cứu
xét và chọn lựa để dùng vào việc di
chuyển các nhà bác học Đức sang Hoa Kỳ. Khi
nghe thấy đoàn chiến xa Hoa Kỳ tiến
lại gần, Von Braun đă đứng ra thương
thuyết.
Sau vài ngày, Von Braun và 125 nhân viên dưới quyền
đă lên máy bay sang nước Mỹ. Các nhà bác
học Đức được chở tới Fort
Strong, thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 20-9-1945
rồi được bí mật đưa tới
Aberdeen Proving Ground, Maryland.
Tới tháng 5 năm 1948, con số các chuyên viên
hỏa tiễn Đức và Áo được
đưa sang Hoa Kỳ lên tới 1,136
người.
Họ làm việc theo hợp đồng với các
bộ Lục Quân, Hải Quân, Không Quân và Thương
Mại. Đa số các nhà bác học này về sau
đă nhập quốc tịch Mỹ, kể cả Von
Braun (1955) và Dornberger. Công
tác đầu tiên của Von Braun tại Hoa Kỳ là
chọn lọc và đối chiếu lại các tài
liệu khoa học thu thập được từ nước
Đức, rồi ông được đưa
tới White Sands, gần El Paso trong tiểu bang Texas.
Tại miền biên giới Mễ Tây Cơ này, Von
Braun thấy lại tất cả các cơ xưởng,
đài quan sát như tại Peenemunde khi trước, nhưng
ông không khỏi cảm thấy chán nản v́ chính
phủ Hoa Kỳ đă không chú ư đến chương
tŕnh thám hiểm không gian bằng hỏa tiễn. Các
bom bay V-2 được cải tiến hơn trước,
nhưng khí cụ này không thể bay thật cao và
chỉ được dùng vào các công cuộc khảo
cứu khí tượng. Tới
năm 1947, Von Braun được phép trở lại
miền Bavière trong một thời gian ngắn. Tại
nơi này, ông kết hôn với cô em họ 18 tuổi
tên là Marie Louise Von Quistorp. Để đề pḥng ông
bị Liên Xô bắt cóc, các thám tử luôn luôn canh
chừng ông, ngay cả trong thời kỳ trăng
mật. Cuộc
chiến tranh Triều Tiên xẩy ra. Năm 1950, các
nhà bác học Đức được đưa
về Huntsville, Alabama, và được lệnh
chế tạo cho Lục Quân một loại hỏa
tiễn có tầm hoạt động xa và có thể
mang đầu đạn nguyên tử. Von Braun trở nên
Giám Đốc Kỹ Thuật của chương tŕnh
vơ khí phi đạn của Lục Quân Hoa Kỳ (the
U.S. Army ballistic-weapon program). Vào
năm 1953, hỏa tiễn Redstone của Von Braun
được phóng lên tại Mũi Canaveral khiến
cho nhiều người hy vọng rằng chương
tŕnh thám hiểm không gian có thể thực hiện
được. Mùa hè năm 1954, Von Braun cùng một nhóm
kỹ thuật gia tới Washington đề nghị phóng
lên không gian một vệ tinh nặng từ 2 tới 3
kilô. Nhưng Trung Tâm Nghiên Cứu Hải Quân cam đoan
sẽ phóng một vệ tinh có chứa máy ghi lên
quỹ đạo của trái đất mà chỉ dùng
tới 88,000 mỹ kim. Người ta quyết định
giao cho Bộ Hải Quân v́ chương tŕnh Vanguard
đẹp về mặt lư thuyết hơn, và vệ
tinh sẽ được phóng lên không gian vào Năm
Địa Cầu Vật Lư Học (1957-58). Von
Braun và nhóm chuyên gia của ông thực ra là vô địch
về phương diện hỏa tiễn, tuy nhiên
họ chỉ được phép chế tạo
loại hỏa tiễn có tầm hoạt động
trung b́nh. Tháng 9 năm 1956, hỏa tiễn Jupiter-C đă
bay được 5,300 km, nghĩa là vượt qua
tất cả các loại phi đạn tự động
của Hoa Kỳ. Von Braun hy vọng sẽ dùng loại
hỏa tiễn Jupiter-C này vào việc phóng vệ tinh.
Ông chờ đợi. Bỗng
vào ngày
4-8-1957, Liên Xô đă phóng thành công lên không gian vệ
tinh Spoutnik,
làm cho Thế Giới Tự Do hoảng hốt. Von Braun
biết rằng giờ đă điểm. Ông tới
Thủ Đô Washington và xin phép phóng một vệ tinh
lên quỹ đạo trong 60 ngày. Việc phóng vệ
tinh Vanguard của Hải Quân đă thất bại
đau đớn. Bây giờ tới lượt Von
Braun. Ngày
31-1-1958 tại Mũi Canaveral, hỏa tiễn Jupiter-C 4
tầng đă đặt vào quỹ đạo của
trái đất vệ tinh "Thám Hiểm I"
(Explorer I) nặng 14 kilô. Một loại hỏa
tiễn khác của Von Braun tên là Redstone đă
đưa Alan B. Shepard, Jr., phi hành gia đầu tiên
của Hoa Kỳ lên quỹ đạo của Trái
Đất vào năm 1961. Vào
năm 1958, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo
luật cho phép thành lập một cơ quan liên bang
mới gọi tên là Cơ Quan Quản Trị Hàng Không
và Không Gian NASA (the National Aeronautics and Space Administration).
Nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu các
kỹ thuật bay trong và ngoài lớp khí quyển
của trái đất, chế tạo, thử
nghiệm và điều hành các phi thuyền trong không
gian, khám phá vũ trụ bằng các phi thuyền không
người và có người lái, cộng tác với
các quốc gia khác trong nhiều dự án xử
dụng không gian v́ ḥa b́nh. Trong số các nhân vật
đầu tiên được bổ nhiệm vào Cơ
Quan NASA có Von Braun, một chuyên gia hàng đầu
về hỏa tiễn, giữ chức Giám Đốc
Trung Tâm Không Gian George C. Marshall (the George C. Marshall Space
Flight Center) tại Huntsville, Alabama. Trong
các năm sau, Von Braun đă giúp công vào 3 chương
tŕnh bay trong không trung là Mercury, Gemini và Apollo, chương
tŕnh đáp xuống Mặt Trăng. Chính nhờ Von
Braun, hỏa tiễn khổng lồ Saturn V đă
được chế tạo. Đây là loại
hỏa tiễn 3 tầng, cao gần 110 mét (hơn 360
feet), nặng khoảng 3,000 tấn. Khi phóng đi,
sức đẩy của hỏa tiễn này là 7,500,000
pounds, đốt cháy hơn 10 tấn nhiên liệu trong
mỗi phút đồng hồ. Năm 1969, hỏa
tiễn Saturn V đă đưa các phi hành gia lên
Mặt Trăng. Các thành công về kỹ thuật
của các hỏa tiễn loại Saturn đă là các
kỷ lục của thời đại đó. Cuộc
chạy đua về thám hiểm không gian giữa Hoa
Kỳ và Liên Xô đă làm cho ngành Hàng Không Liên Hành
Tinh tiến vượt mức. Con người từ
nay đă có hy vọng vượt khỏi trái đất
chật hẹp của ḿnh để đi t́m các
thế giới xa lạ. Vào
năm 1975, ông Von Braun tổ chức Viện Không Gian
Quốc Gia (the National Space Institute). Đây là một cơ
quan tư, có mục đích t́m hiểu và phổ
biến các hoạt động khoa học về không
gian với sự ủng hộ của đại chúng.
Do các đóng góp về kỹ thuật không gian, ông
Von Braun đă lănh được rất nhiều
bằng khen, phần thưởng… Ông
Von Braun qua đời vào ngày 16-6-1977 tại Alexandria,
Virginia. Von
Braun tin chắc rằng chỉ trong một thời gian
gần đây, con người có thể tới
được Hỏa Tinh, hành tinh mà vào thời ông c̣n
trẻ, mẹ ông thường chỉ cho ông nh́n
thấy qua kính thiên văn vào những đêm quang
đăng. Von Braun tin tưởng vào trật tự
của Vũ Trụ và cho rằng con người
sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi
nhưng không kém phần đẹp đẽ và
huyền bí. Phạm
Văn Tuấn Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia. |
||||||||