Đường
Tăng một ḿnh đi lấy kinh, lúc viên tịch
đă tiết lộ một thiên cơ Lam Sơn |
Trong "Tây Du Kư",
Đường Tăng được miêu tả là
một nhà sư ôn tồn lễ độ, cung kính
thận trọng. “Tây Du Kư” là tác phẩm nổi tiếng
kể về câu chuyện bốn thầy tṛ Đường
Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, trải qua 81
kiếp nạn, cuối cùng cũng lấy được
Phật Pháp chân kinh. Nhưng trong thực tế
lịch sử, trên chặng đường Đường
Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, không hề có
Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mă
đồng hành, nhưng nó vẫn là một câu
chuyện bất hủ, chặng đường thiên
nan vạn khổ của ông cũng rất ly kỳ. Thông minh nho nhă, tướng
mạo phi phàm
Đường Tăng Huyền Trang tên là
Trần Y, quê ở Hà Nam, sinh ra ở thôn Trần Gia,
cách Lạc Dương 30 dặm (thuộc Yển Sư,
Hà Nam ngày nay) vào cuối thời Tùy Đường,
là người con thứ tư trong gia đ́nh. Phụ
thân tên là Trần Huệ, tính t́nh điềm đạm,
từ quan ẩn cư. Trong "Tây
Du Kư", Đường Tăng được miêu
tả là một nhà sư ôn tồn lễ độ,
cung kính thận trọng. Huyền Trang ngoài đời
thật mi thanh mục tú, tướng mạo phi phàm, là
một nam tử tuấn tú, từ nhỏ rất thông
minh, thích đọc sách Thánh hiền, siêu phàm thoát
tục, tĩnh tại ung dung. “Phật môn thiên lư câu”
Trần Y phải trải qua một tuổi thơ
rất khổ cực. Mẫu thân qua đời lúc 5
tuổi, lên 10 tuổi phụ thân cũng qua đời
khiến ông sớm cảm nhận được nhân
sinh vô thường. Năm lên 11 tuổi, Trần Y lúc
này mồ côi cả cha lẫn mẹ, ông theo người
anh thứ hai là Trương Tiệp đại sư,
đến chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương
học tập Phật Pháp. Ông ngày đêm chuyên tâm
nghiên cứu kinh Phật, năng lực hiểu
biết của ông rất phi thường, thậm chí
có thể thăng ṭa thuyết pháp, giảng giải
kinh Phật hết sức thấu triệt, rất
được truyền tụng ca ngợi, lúc đó
ông mới 13 tuổi. Khi Huyền Trang được 20 tuổi, ở
Thành Đô ông thụ đủ giới, chính thức
có được tư cách tăng lữ, ông phải
tuân theo 250 giới luật. Năm 24 tuổi, Huyền Trang đă được
phong là Tam Tạng, Tam Tạng tương
đương với một học vị hiện
nay, tức là thông thạo Tam Tạng kinh điển,
là Pháp sư cấp bậc cao nhất thời đó. Lúc bấy giờ, Huyền Trang đă nổi
tiếng khắp kinh thành, ông được mệnh
danh là “Phật môn
thiên lư câu”. Nhưng Huyền Trang đă gặp
phải một vấn đề nan giải. Khi học
kinh Phật, ông cảm thấy nhiều nội dung
được tŕnh bày không rơ ràng, không thống
nhất hoặc không có tiêu chuẩn xác định. V́ vậy, ông đă đi khắp núi nam bể
bắc, t́m đến các cao tăng để
thỉnh vấn, ông đă đi đến hơn
một nửa vùng đất Trung Quốc, nhưng
mối nghi hoặc của ông ngày càng lớn hơn.
Rốt cuộc th́ kinh sách gốc của Phật giáo
giảng như thế nào? Trong tâm trùng trùng nghi
hoặc, Huyền Trang hạ quyết tâm tới Tây Thiên
thỉnh kinh, quyết tâm t́m bộ kinh điển
Đại thừa "Du già sư địa luận" để
giải khai những nghi hoặc trong ḷng.
Huyền
Trang hạ quyết tâm tới Tây Thiên thỉnh kinh,
quyết tâm t́m bộ kinh điển Đại
thừa "Du già sư địa luận" để
giải khai những nghi hoặc trong ḷng. Hành tŕnh đi Tây Thiên
thỉnh kinh, lúc đầu là “vượt biên trái
phép"
Trong "Tây
Du Kư", Đường Tăng được mô
tả là lúc khởi hành đi Tây Thiên thỉnh kinh, bái
kiến hoàng đế Đường Thái Tông,
nhận lộ phí, rồi đường đường
chính chính lên ngựa mà đi. Nhưng t́nh huống thực tế là ông
phải “vượt biên trái phép". Vào thời đầu nhà Đường, biên cương
chưa an ổn, người dân bị cấm xuất
ngoại. Ông đă nhiều lần đến
thỉnh cầu để được đi Tây Thiên
thỉnh kinh, nhưng không lần nào được
chấp thuận. Vào năm Trinh Quán thứ ba (năm 629), phía
bắc bị sương giá nghiêm trọng, Trường
An không có lương thực, triều đ́nh mở
cửa thành cho người dân đi lánh nạn.
Huyền Trang lúc đó 29 tuổi nhân cơ hội này
đă rời Trường An và đi về phía Tây.
Mặc dù thường xuyên bị các quan viên địa
phương chặn đường, nhưng họ
đă bị cảm hoá trước quyết tâm
của ông và cuối cùng đă tạo điều
kiện cho ông. Huyền Trang t́m được một người
Hồ tên là Thạch Bàn Đà chỉ đường
cho ông, ban ngày ở trong nhà, ban đêm lại đi,
lẻn ra khỏi Ngọc Môn quan. Tuy nhiên, sau khi
rời khỏi quan, Thạch Bàn Đà không c̣n
chịu khổ được nữa và từ bỏ,
thế là chỉ c̣n lại một ḿnh Huyền Trang. Trên chặng đường về phía Tây đằng
đẵng đầy gian nan hiểm nguy này, một ḿnh
Huyền Trang phải vượt qua như thế nào? Tuyệt xứ phùng sinh
Khảo nghiệm đầu tiên mà Huyền Trang
phải đối mặt là một ḿnh cưỡi
ngựa vượt qua 800 dặm sa mạc để
đến Y Ngô (nay là Ha Mi, Tân Cương). Nhưng trên
đường đi, ông vô t́nh làm đổ túi nước
và mất hết nước uống.
Khảo
nghiệm đầu tiên mà Huyền Trang phải đối
mặt là một ḿnh cưỡi ngựa vượt
qua 800 dặm sa mạc để đến Y Ngô (nay là
Ha Mi, Tân Cương). Trên sa mạc không có nước th́ chỉ có
thể chết mà thôi, thế là Huyền Trang phải
quay về lấy nước, trên đường quay
về ông chợt nhớ đến lời thề
đă lập: “Ta
thà đi về phía tây mà chết, cũng tuyệt không
đi một bước quay lại phía đông.” Thế
rồi, ông quay đầu ngựa và tiếp tục
đi về phía tây bắc. Giữa sa mạc mênh mông vô bờ, phía trên không
có chim chóc, phía dưới không có dă thú, chỉ có xương
cốt của người chết, thường xuyên
có huyễn tượng "quỷ mị gió nóng",
rất đáng sợ. Huyền Trang cưỡi con
ngựa già gầy c̣m suốt bốn ngày năm đêm,
người kiệt sức, ngựa hết hơi,
miệng khô khan, ngă xỉu xuống đất nằm
thoi thóp, nhưng trong miệng vẫn lẩm bẩm,
thỉnh Quan Âm Bồ Tát gia tŕ: Huyền Trang đi
chuyến này không v́ tài phú danh lợi, chỉ v́
cầu được chính Pháp! Mong Bồ Tát từ
bi, cứu thoát khỏi khổ nạn... Sau đó ông ngất đi, giữa đêm có gió
mát làm ông tỉnh lại, ông cảm thấy thể
lực có chút khôi phục, muốn ngủ một chút,
đột nhiên trong mộng, ông nh́n thấy một người
mặc giáp vàng đứng ở trước mặt,
bảo ông: "
Sao không nhanh lên đường? C̣n đang ngủ
sao!” Huyền Trang tỉnh dậy, lập
tức lên ngựa khởi hành. Không lâu sau khi ông đi, con ngựa già đột
nhiên mất kiểm soát, chạy điên cuồng và
đưa ông đến một ḍng suối trong
vắt, v́ thế mà Huyền Trang được
cứu sống. Quốc vương Cao Xương
Hai ngày sau, Huyền Trang đến Y Ngô, Quốc
Vương của Cao Xương là Văn Thái sau khi
hay tin, th́ vui mừng khôn xiết, và mời Huyền
Trang đến Cao Xương. Vương quốc Cao Xương
nằm ở chân núi Hỏa Diệm Sơn, tức là
thành phố Turpan ở Tân Cương ngày nay, nước
này không nằm trên chặng đường đi
về phía Tây của Huyền Trang, nhưng v́
thịnh t́nh khó chối nên Huyền Trang đă đi
bộ sáu ngày để đến Cao Xương.
Quốc
Vương của Cao Xương là Văn Thái sau khi
hay tin, th́ vui mừng khôn xiết, và mời Huyền
Trang đến Cao Xương. Quốc vương Cao Xương như nhặt
được bảo vật trân quư, ông vô cùng thành
kính, tha thiết cung phụng, cầu xin Huyền Trang
ở lại Cao Xương, nhưng Huyền Trang
từ chối; thế nên quốc vương Cao Xương
đă dùng một thủ đoạn xấu để
ép buộc Huyền Trang, nếu Huyền Trang không
ở lại, th́ ông sẽ đưa Huyền Trang
trở về Đông Thổ, Huyền Trang lập
tức tuyệt thực ba ngày, Quốc vương Cao
Xương cảm thấy vô cùng hổ thẹn, nên
đành để cho Huyền Trang đi Tây Thiên
thỉnh kinh. Và ông cũng trước tượng
Phật tổ, cùng Huyền Trang kết bái làm huynh
đệ. Trước khi rời đi, Quốc vương
Cao Xương thỉnh cầu Huyền Trang thuyết
Pháp, Quốc vương Cao Xương nằm phục
trên mặt đất, lấy lưng của ḿnh làm
chỗ đạp chân cho Huyền Trang, mời
Huyền Trang thượng tọa. Quốc vương Cao Xương đă chuẩn
bị 30 bộ quần áo, bao tay, khăn che mặt,
ủng và giày được đặc chế để
chống gió và lạnh, c̣n tặng 100 lượng vàng,
3 vạn đồng bạc và 500 tấm lụa, dùng làm
lộ phí cho Huyền Trang đi đường trong 20
năm. Ông c̣n lệnh cho 25 tuỳ tùng đi theo
bảo vệ Huyền Trang, ông c̣n chuẩn bị
lễ vật hậu hĩnh cho 24 vị quốc vương
trên đường đi, căn dặn họ
chiếu cố cho Huyền Trang. Ngày lên đường, quốc vương Cao Xương
dẫn đầu các quan đại thần và dân chúng
cùng từ biệt Huyền Trang, quốc vương
Cao Xương ôm lấy Huyền Trang, tiễn biệt
ông mà nước mắt đầm đ́a. Nửa số người
ngựa bị chôn vùi ở Lăng Sơn
Họ đi được hơn 300 dặm
về phía tây bắc, đến Lăng Sơn cao vút
tận mây, lạnh giá vô cùng, băng tuyết quanh năm
không bao giờ tan. Người và ngựa đi trên
con đường hẹp quanh co, nếu không cẩn
thận có thể rơi xuống vực, bảy ngày
sau ra được khỏi Lăng Sơn, th́ hơn
chục người đă chết, trâu ngựa cũng
chết hơn nửa.
Đến
Lăng Sơn cao vút tận mây, lạnh giá vô cùng, băng
tuyết quanh năm không bao giờ tan. Sau hơn một năm rời Trường An,
Huyền Trang cuối cùng đă đến Bắc Thiên
Trúc (Bắc Ấn Độ). Không ngờ, một
mối nguy hiểm lớn hơn đang chờ đợi
ông ở đó. Gặp nạn ở sông
Hằng
Khi Huyền Trang cùng đoàn tùy tùng đi phà
dọc sông Hằng th́ bất ngờ từ rừng cây
hai bên bờ, mười mấy chiếc thuyền
của bọn cường đạo ập đến,
ép phà của họ phải vào bờ, rồi cướp
bóc đồ đạc của mọi người. Bọn cướp rất vui khi thấy Huyền
Trang, v́ tướng mạo Huyền Trang khôi ngô
tuấn tú, chúng chưa từng thấy một người
nào khôi ngô như vậy. Những tên cướp này
tin vào một tà giáo, vào mùa thu hằng năm sẽ
giết một người đàn ông để
hiến tế. Họ chúng nhắm thấy Huyền
Trang rất phù hợp để hiến tế. Bọn cướp dựng đàn tế trên
bờ sông, Huyền Trang đi lên đàn tế mà không
hề sợ hăi. Thấy ông vẫn an nhiên thản
đăng, bọn cường đạo không khỏi
nể phục. Huyền Trang tập trung niệm lực, đả
tọa nhập định, nguyên thần lập
tức ly thể. Vào thời điểm đó, ông
đă phát nguyện: "Hy vọng đệ tử lần này nếu
cầu Pháp không thành, th́ có thể văng sinh đến
Phật Quốc, đến Thiên giới nghe Pháp, sau
đó chuyển sinh trở lại nhân gian, để
hoá độ những tên cường đạo này." Nguyên thần của ông bay lên núi Tu Di, bay lên
từng tầng trời từng tầng trời, nh́n
thấy Bồ tát và nhiều vị Thần, trong ḷng
hoan lạc. Lúc này ở dưới nhân gian bất
ngờ gió lớn cuồn cuộn nổi lên, cát bay,
đá bay, cây to bật gốc, sóng gió đánh lật
nhiều tàu trên bờ. Bọn cướp bàng hoàng, hiểu được
là Thần Phật nổi giận, vội vàng khấu
đầu tạ tội Huyền Trang. Huyền Trang
thuyết Pháp cho họ, bọn cướp liền ném
hết gươm giáo xuống sông Hằng, thụ Ngũ
giới và đảnh lễ Huyền Trang. Lúc này, gió
băo mới lặng yên, bọn cướp đảnh
lễ Huyền Trang rồi cáo biệt. Người Trung
Quốc được tôn kính nhất ở Ấn
Độ
Đi về phía tây hơn 5 vạn dặm,
nếm trải qua muôn vàn gian hiểm, cuối cùng
Huyền Trang đă đến được trung
tâm nghiên cứu Phật học của Ấn Độ
cổ đại, đây chính là điểm đến
cuối cùng trong cuộc hành tŕnh của Huyền Trang
- chùa Nalanda. Cuối
cùng Huyền Trang đă đến được
trung tâm nghiên cứu Phật học của Ấn
Độ cổ đại. Sư phụ Giới Hiền, trụ tŕ chùa
Nalanda, lúc đó đă hơn một trăm tuổi.
Ông hỏi Huyền Trang: "Ông
từ đâu tới?" Huyền Trang trả lời: "Ta từ Đông Thổ Đại Đường
xa xôi, đến đây để học hỏi ngài
"Du già sư địa luận", để
hồng dương Phật Pháp ở Đông
Thổ.” Nghe xong lời của Huyền Trang, đại sư
Giới Hiền bỗng dưng trào nước
mắt. Hà cớ ǵ mà ông lại khóc như vậy? Hóa ra ba năm trước đại sư
Giới Hiền bị bệnh thấp khớp
nặng, mỗi lần bạo phát tựa như
lửa thiêu dao cắt. Một đêm, ông nằm mơ
thấy một vị Bồ tát nói với ông rằng
bệnh này là do nghiệp chướng ở kiếp
trước, ba năm sau sẽ có người từ
Đông Thổ đến học Phật Pháp, lúc
đó hăy truyền thụ thật cặn kẽ kinh "Du
già sư địa luận", như thế có
thể hoán trả nợ nghiệp, bệnh sẽ hoàn
toàn b́nh phục. Huyền Trang biết rơ ngọn nguồn sự
việc, buồn vui lẫn lộn, nghĩ rằng cơ
duyên này này chính là Thiên ư! V́ vậy Huyền Trang bái
Giới Hiền làm thầy, học tập Phật Pháp
trong năm năm, đồng thời ông cũng
học cả tiếng Phạn nữa. Sau đó, Huyền Trang đi nhiều nước
ở tiểu lục địa Ấn Độ để
giao lưu Phật Pháp, danh tiếng của ông ngày càng
lớn. Một lần, quốc vương của Ấn
Độ cổ đại là Giới Nhật Vương,
đă tổ chức một cuộc tranh luận
học thuật Phật Pháp toàn quốc với quy mô
chưa từng có tại ở thủ đô Khúc
Nữ Thành (nay là Kanaoje, Ấn Độ). Tại
hội nghị đó Huyền Trang đă đọc bài
luận của ḿnh bằng tiếng Phạn và
khiến mọi người sửng sốt, trong
suốt 18 ngày hội nghị diễn ra, không ai
phản bác lại luận điểm của ông.
Huyền Trang nhận được sự kính
trọng của các nước Ấn Độ lúc
đó, danh tiếng của ông không ai sánh kịp,
một số vị quốc vương thậm chí c̣n
muốn xây dựng một trăm ngôi chùa để
thờ phụng ông. Ngày nay tên của Huyền Trang vẫn c̣n trong sách
giáo khoa của Ấn Độ. Ở Ấn Độ,
ông vẫn là người Trung Quốc nổi tiếng
nhất và được kính trọng nhất. Huyền Trang trở
về Đông thổ
Huyền Trang vẫn chưa quên nguyện ban đầu
của ḿnh đó là mang kinh Phật về Đông
thổ. Năm 641, Huyền Trang từ biệt quốc
vương Giới Nhật Vương và chuẩn
bị trở về nước. Vào năm Trinh Quán 18 (năm 644), khi Huyền Trang
trở về, ở kinh thành Trường An người
người đổ xô ra đường, quan viên và
dân chúng xếp hàng dài 10 dặm nghênh đón. Nhớ
lại 16 năm trước, Huyền Trang rời Trường
An trong ḍng người chạy nạn. Nhưng với
một niềm tin vững chắc vào Phật Pháp, ông
đă bắt đầu cuộc hành tŕnh đầy
chông gai. Khi trở về, ông được nghênh
đón nồng hậu, trọng đại chưa
từng có. Ở cuối phía nam của đường Chu Tước
ở Trường An, bóng dáng Huyền Trang dần
dần hiện ra, ông đă từ Tây Thiên trở
về với 20 con ngựa chở 520 bọc kinh sách
với tổng cộng 657 bộ, 150 xá lợi nhục
thân Như Lai, và bảy bức tượng Phật
bằng vàng và bạc. Vào ngày hôm đó, trên bầu trời hiện lên
những đám mây lành đủ màu sắc, bay ṿng
tṛn ngay phía trên kinh Phật.
Vào
ngày hôm đó, trên bầu trời hiện lên
những đám mây lành đủ màu sắc, bay ṿng
tṛn ngay phía trên kinh Phật. Bái kiến Đường
Thái Tông
Tháng 2 năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645),
Đường Thái Tông triệu Huyền Trang vào cung,
hai người gặp nhau vẫn thân thiết như xưa,
nói chuyện tương thông tương ư, chuyện
tṛ từ lúc mặt trời mọc cho đến khi
trời tối. Đường Thái Tông c̣n đặc biệt
tặng cho Đường Tăng một chiếc áo cà
sa và một chiếc dao cạo. Chiếc áo cà sa này
khả năng chính là chiếc áo cà sa được
nhắc đến trong “Tây du kư" do Quan Âm Bồ
Tát tặng, chiếc áo cà sa này trị giá ngàn vàng,
phải mất mấy năm mới may xong, vô cùng tinh
mỹ, có thể nói là “áo
trời không vết chỉ khâu.” Đường Thái Tông Lư Thế Dân có mối
liên hệ sâu sắc với Phật giáo. Khi Lư
Thế Dân 9 tuổi từng bị bệnh về
mắt, phụ hoàng của ông là Đường Cao
Tổ Lư Uyên v́ thế mà đến chùa Hoa Đường
ở Trường An bái Phật, sau đó Lư Thế Dân
quả thật đă khỏi bệnh, điều
đó đă để lại ấn tượng
rất lớn đối với Lư Thế Dân. Nhờ sự ủng hộ của Đường
Thái Tông, Phật giáo thời Đại Đường
phát triển đến cực thịnh, tư tưởng
của Phật gia ăn sâu vào tâm khảm của người
dân, văn vơ bá quan tin vào nhân quả, bách tính tu tâm
hướng thiện, xă hội an định, buổi
đêm không cần đóng cửa. Huyền Trang dịch
kinh sách, Đường Thái Tông viết lời
tựa
Khi Huyền Trang lấy kinh trở về, ông
đă khoảng 45 tuổi. Ông dành hầu hết
thời gian trong 20 năm cuối cuộc đời
để phiên dịch kinh sách thành tiếng Trung. Dưới
sự giúp đỡ của Đường Thái Tông,
Huyền Trang thiết lập một trung tâm dịch
thuật quốc gia, trong khoảng thời gian gần
20 năm, Huyền Trang chủ tŕ phiên dịch
được 1335 cuốn kinh Phật, mỗi 5 thiên
lại phiên dịch thành một cuốn. Việc phiên dịch Kinh Phật thành tiếng
Trung trước đó, nếu phiên dịch theo nghĩa
đen, th́ sẽ không phù hợp với thói quen ngôn
ngữ của người Hán; c̣n nếu phiên
dịch theo ư, th́ lại làm mất đi nghĩa nguyên
gốc. Huyền Trang chủ trương là phiên
dịch theo nghĩa đen, đồng thời cũng
kết hợp dịch ư, vừa không làm mất đi
nghĩa gốc, vừa dễ dàng lư giải. Trong
lịch sử phiên dịch, ông đă thiết lập
một quy phạm mới. Hậu nhân gọi kinh
Phật mà Huyền Trang phiên dịch là Tân dịch, c̣n
kinh Phật phiên dịch trước đó gọi là
Cựu dịch. Năm Trinh Quán thứ 22 (năm 648),
Huyền Trang phiên dịch xong 100 cuốn “Du già sư
địa luận". Sau đó ông dâng lên Đường
Thái Tông xem trước, Thái Tông xem xong mà tán
tụng: Phật Pháp quảng đại, rồi đích
thân viết lời tựa. Hoàn thành sứ
mệnh, dự báo thăng thiên
Trong thời gian Huyền Trang phiên dịch kinh Bát
Nhă ở chùa Ngọc Hoa, ông từng nói với các
đệ tử rằng, thân thể con người
yếu nhược, không thể trường tồn măi
được, khi ta 65 tuổi, nhất định
sẽ chết ở trong chùa Ngọc Hoa. 5 năm sau,
600 cuốn kinh Bát Nhă cuối cùng đă được
phiên dịch hoàn tất. Huyền Trang bắt đầu
dặn ḍ việc hậu sự cho các đệ
tử. Ngày 24 tháng giêng năm 664, Huyền Trang
triệu tập các đệ tử phiên dịch kinh sách
lại bên cạnh và dặn ḍ: Ta đă hoàn thành
sứ mệnh của ḿnh tại thế gian, không c̣n
phải tiếp tục ở lại nhân gian nữa, ta
mong nguyện tương lại khi Phật Di Lặc
hạ thế, ta có thế theo Ngài hạ thế,
trợ giúp Ngài cứu thế, đắc được
giác ngộ tối cao. Huyền Trang cũng nhắc
nhở, việc hậu sự phải tiết kiệm,
chỉ cần lấy một cái chiếu thô bọc ta
lại, rồi chôn ở chỗ núi sông vắng
vẻ là được rồi. Vào canh 3, ngày 15 tháng 2, Huyền Trang qua đời
thanh thản, dung mạo tường hoà c̣n hơn
cả lúc c̣n sống, giống như đang nằm
trong giấc mộng an ḥa, sắc mặt hồng hào. Tin buồn truyền đến, Đường
Thái Tông băi triều 3 ngày, hô lên: Trẫm đă
mất đi quốc bảo. Ngày 14 tháng 4 năm 664,
lễ an táng Huyền Trang được cử hành
tại đô thành Trường An, người
đưa tang hơn 100 vạn. Dân số của Trường
An lúc đó cũng khoảng hơn 100 vạn người.
Có thể nói, từ hoàng thất cho đến bách tính,
từ người của Phật môn cho đến người
thế tục, tất cả đều tham gia
đưa tang Huyền Trang. Pháp Sư Huyền Trang
được an táng sau khi qua đời 60 ngày. Theo “Đại
Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư
Hành Trạng" ghi chép: Huyền Trang khi hạ
táng, sắc mặt như c̣n sống, tỏa ra hương
thơm, thậm chí c̣n mọc thêm tóc. Huyền Trang cả một đời không
quản sinh tử, dưới sự bảo hộ
của Thần Phật, dốc hết sức lực
đến tận cuối đời, đă hoàn thành
sứ mệnh to lớn, v́ sự phát triển và
phồn thịnh của Phật Pháp tại Đông
Thổ, lập nên công lao bất hủ. Lam Sơn |