Từ
câu chuyện "Xá lợi tóc" gây ồn ào dư
luận gần đây, cũng có nhiều người
muốn t́m hiểu xem: Xá lợi là ǵ? Xá lợi
Phật có hay không? Xá lợi tóc Phật có hay không? Có
phải là răng, xương, sỏi không? Xá lợi
Phật có linh thiêng như người ta đồn
đại hay không? Chúng ta hăy cùng t́m hiểu về
những vấn đề huyền bí và thú vị này.
-‘Xá lợi tóc’ Phật hay
cỏ Pili?
-Xá lợi là ǵ? Xá lợi tử là ǵ?
-Xá lợi tóc Phật
-Xá lợi, xá lợi tử có phải là sỏi, xương,
răng không?
-Nghiên cứu khoa học cho thấy xá lợi và xá
lợi tử là ǵ?
-Xá lợi có linh thiêng không?
‘Xá lợi tóc’ Phật hay cỏ Pili?
Mấy ngày qua trên mạng bàn tán xôn xao về
chuyện chùa Ba Vàng ‘cung thỉnh’ cái gọi là ‘xá
lợi tóc’ của Đức Phật, Phật tử
khắp nơi đến chiêm bái, cúng dường
rất đông. ‘Sợi tóc’ này có thể tự
động đậy, co duỗi, xoay, rất kỳ
lạ, dù không có bất kỳ ngoại lực nào tác
động. Chùa Ba Vàng c̣n đưa ra thông tin như:
Xá lợi tóc Phật vô cùng linh thiêng, ai chiêm bái, cúng
dường sẽ được vô lượng phước
báo… Khiến các Phật tử khắp nơi đến
chùa rất đông
Tuy nhiên, có một số ư kiến cho rằng đó là
cỏ Pili, một loài cỏ có nguồn gốc Nam Phi,
Nam Á, Bắc Úc, Bắc Mỹ… Hạt giống
của cỏ Pili trông khá giống sợi tóc, và có
đặc điểm là sẽ co duỗi, uốn cong
liên tục, tạo thành sự chuyển động
khi gặp ẩm hoặc nước. Trên mạng cũng
cung cấp rất nhiều h́nh ảnh về loại
cỏ này, và trông khá giống với ‘xá lợi tóc’
mà chùa Ba Vàng trưng bày.
Trước dư luận, Ban trị sự Giáo
hội Phật giáo Quảng Ninh đă đưa ra 2 yêu
cầu đối với chùa Ba Vàng:
Một là việc Trụ tŕ Chùa Ba Vàng thỉnh xá
lợi sợi tóc của Đức Phật từ ai,
ở đâu, xác thực ra sao?
Hai là hiện nay xá lợi này của Ngài đang
ở đâu?”.
Đại diện chùa Ba Vàng cho biết, xá lợi
đă được hộ tống lên máy bay để
trả về cố quốc, tức Miến Điện.
Về việc ‘Xá lợi tóc’ Đức Phật
ở chùa Ba Vàng là thật hay là giả, ai là người
trách nhiệm, và trách nhiệm ra sao… những câu
hỏi này cần chờ Giáo hội Phật giáo
Việt Nam và các cơ quan chức năng liên quan xem xét
và trả lời dư luận. Chúng ta không bàn, mà
ở đây chúng ta cùng xem xét một số vấn
đề mà nhiều người quan tâm: Xá lợi là
ǵ? Xá lợi Phật có hay không? Xá lợi tóc
Phật có hay không? Xá lợi Phật có linh thiêng như
người ta đồn đại hay không?
Xá lợi là ǵ? Xá lợi tử
là ǵ?
Xá lợi (cũng gọi là xá lị) là dịch
chữ Hán từ tiếng Phạn “Sarira”, ư nghĩa
là thi thể, xương cốt, thường chỉ
tro cốt, trong đó có các viên kết tinh với các
sắc màu khác nhau. Từ xá lợi được
sử dụng ban đầu là chỉ, sau khi Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, sau khi hỏa
thiêu, phần c̣n lại được gọi là Xá
lợi. Sau này tro xương, tóc, răng của các
cao tăng viên tịch hỏa thiêu, cũng được
gọi là xá lợi.
Xá lợi Phật ở
Bảo tàng New Delhi Ấn Độ.
C̣n những viên hạt kết tinh các màu cứng, theo
thói quen, mọi người cũng gọi là Xá
lợi, nhưng nếu gọi chính xác phải là “Xá
lợi tử” (viên xá lợi). Thể kết tinh này
vô cùng rắn chắc, kích thước to nhỏ khác
nhau, có viên như quả trứng, có viên chỉ như
hạt gạo, và có các màu sắc khác nhau.
Do đó, để phân biệt rơ xá lợi là xương,
tro cốt, răng, tóc… và các viên kết tinh cứng
nhiều màu sắc, chúng ta nên gọi các viên kết
tinh này là viên xá lợi, hay xá lợi tử.
Theo Kinh Phật ghi chép, sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni
nhập niết bàn và hỏa táng, các đệ
tử t́m được xương đầu, răng,
xương ngón tay giữa của Phật và 84.000 viên
Xá lợi tử. Quốc vương 8 quốc gia
cổ đại Ấn Độ đă chia Xá lợi
và Xá lợi tử của Phật thành 8 phần, xây
dựng tháp để thờ cúng.
Đến thế kỷ thứ 3, vị quân vương
thứ 3 của vương triều Khổng Tước,
Ấn Độ là A Dục Vương (Asoka) lấy Xá
lợi và Xá lợi tử của Phật ra, phân chia
lại và đặt vào trong 84.000 chiếc hộp báu,
và xây dựng lại mới 84.000 ṭa tháp Phật
để thờ cúng. A Dục Vương sai sứ
đoàn và các tăng nhân đem đi khắp các nước
xung quanh để hoằng dương Phật Pháp.
Cùng với việc xây dựng tháp Phật khắp nơi,
Xá lợi và Xá lợi tử của Phật cũng lưu
truyền đến nhiều khu vực tín ngưỡng
Phật giáo, trong đó có các nước Đông Nam
Á, và Trung Quốc.
Xá lợi tóc Phật
Chùa Shwedagon (c̣n gọi là Chùa Vàng) ở Yangon,
Miến Điện nổi tiếng thế giới, v́
được cho rằng có lưu giữ xá lợi
của 4 vị Phật, trong đó có 8 sợi tóc
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chùa Shwedagon (c̣n gọi là Chùa Vàng) ở Yangon,
Miến Điện. (Wikipedia/ Ralf-André Lettau - Common)
Theo truyền thuyết của Phật giáo Miến
Điện, 2 anh em thương gia Miến Điện
Trapusa và Bahalika buôn bán ở Balkh (nay thuộc
Afghanistan), trên đường quay về họ đă
được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi Ngài
mới khai ngộ dưới cội bồ đề.
Họ đă dâng cúng đồ ăn và được
Đức Phật thu nhận làm 2 cư sĩ đệ
tử đầu tiên, đồng thời ban cho 8
sợi tóc. Khi trở về Miến Điện và
được vua Okkalapa giúp đỡ xây bảo tháp
thờ phụng 8 sợi tóc. Bảo tháp này sau
nhiều lần trùng tu xây dựng, đến nay chính
là chùa Shwedagon.
Theo truyền thuyết và theo ghi chép của các nhà sư
Miến Điện, ngôi chùa (tức bảo tháp)
được xây dựng trước khi Đức
Phật nhập Niết Bàn, nghĩa là có cách đây
trên 2.500 năm.
Truyền thuyết này có đúng hay không, th́ chúng ta
không biết chắc chắn được, có lẽ
cần người xác thực những xá lợi
Phật được lưu trữ trong đó. Tuy nhiên,
trải qua hơn 2.500 năm lịch sử, với bao
cuộc biến động thay triều đổi
đại, và chiến tranh, Chùa Vàng được dát
lên hàng chục tấn vàng, hàng ngàn viên kim cương
và hàng ngàn viên hồng ngọc, th́ nó ắt phải
có ư nghĩa rất lớn, rất linh thiêng trong ḷng
người dân Miến Điện.
Tuy nhiên, nếu truyền thuyết trên là đúng, th́
8 sợi tóc Chùa Vàng Miến Điện là của
Đức Phật khi Ngài mới khai ngộ dưới
cội bồ đề, tức là khi Ngài c̣n trụ
thế, như vậy th́ không thể gọi là Xá
lợi được, v́ Xá lợi là di vật thân
thể (tóc, xương, răng, bộ phận thân
thể…) c̣n lại sau khi hỏa táng. Thế th́
chỉ có thể gọi chúng là ‘tóc Đức
Phật’, chứ không thể gọi “Xá lợi tóc
Đức Phật’.
C̣n một vấn đề nữa là, trong các kinh
điển Phật giáo chỉ ghi chép 5 anh em Kiều
Trần Như, tức 5 người cùng tu hành khổ
hạnh với Đức Phật trước đó,
là những người đầu tiên được
Đức Phật truyền Pháp. Cũng không có kinh
điển Phật giáo nào nói đến người
mà Đức Phật truyền Pháp đầu tiên là
2 thương nhân Miến Điện.
Hơn nữa, theo bài viết về lịch sử
Myanmar (Miến Điện) trên trang Nghiên Cứu
Lịch Sử, th́ thế kỷ thứ 3 trước
Công nguyên, là thời điểm Miến Điện có
nhà nước quân chủ, tức vị vua đầu
tiên. Thời điểm này trùng với thời điểm
vua A Dục (Asoka) cho sứ đoàn và các tăng nhân
đem Xá lợi Phật đi tặng các nước
xung quanh để hoằng dương Phật Pháp,
tức sau thời Đức Phật khoảng 300 năm.
Cũng có thể do thời xưa chưa có chữ
viết, mọi chuyện đều truyền
miệng, nên có sự sai lệch về thời gian,
hoặc một số chi tiết. Chúng ta cũng
biết rằng, Đức Phật thuyết Pháp cách
thời nay trên 2500 năm, đến thời vua A
Dục, tức 300 năm sau khi Đức Phật
nhập Niết Bàn, trải qua 3 lần đại
hội tập kết kinh, đều là phương
thức truyền miệng, các tăng nhân học
thuộc ḷng các kinh điển. Măi đến lần
đại hội tập kết kinh lần thứ 4
ở Tích Lan (Sri Lanka), 3 tạng kinh điển (Tam
tạng) mới được viết lên loại
giấy làm bằng lá bối.
Xá lợi, xá lợi tử có
phải là sỏi, xương, răng không?
Phần lớn sỏi trong cơ thể người có
các chất hữu cơ. Ví dụ như sỏi
mật, thành phần chủ yếu của nó gồm
Bilirubin và cholesterol, khi tới gần nhiệt độ
1.000 độ C, các chất này sẽ nhanh chóng
giải thể, không thể h́nh thành các tinh thể
độ cứng cao.
C̣n xương và răng, thành phần chủ là
muối canxi photphat như hydroxyapatite. Ở trên 1.000
độ C Hydroxyapatite sẽ thoát nước,
nhiệt độ cao lên nữa th́ nó sẽ phân
giải.
Vậy xá lợi, xá lợi tử chắc chắn không
phải là xương, răng hay sỏi của người
thường được. Hơn nữa, tại sao
chỉ có Đức Phật, và các cao tăng đắc
đạo th́ sau khi hỏa thiêu mới có. Hiện nay
trên thế giới phổ biến là hỏa thiêu,
tại sao hàng mấy chục năm qua lại không có
người b́nh thường nào có xá lợi?
Cũng có người nói, xương người b́nh
thường không có xá lợi, nhưng người
ăn chay trường như ḥa thượng th́ có xá
lợi. Vậy tại sao trên thế giới rất
nhiều ḥa thượng viên tịch, hỏa thiêu không
có xá lợi?
Có người nói, các viên xá lợi (xá lợi
tử) có màu sắc là xương cốt bị
nhuộm màu. Các nhân viên các ḷ hỏa táng lâu năm
đều thấy rằng, xương cốt của
người bị bệnh ung thư có màu đen,
của trẻ em màu trắng, của người già có
màu vàng nhạt. Tuy nhiên họ đều không
thấy vật ǵ giống xá lợi tử.
Nghiên cứu khoa học cho
thấy xá lợi và xá lợi tử là ǵ?
V́ xá lợi, xá lợi tử là báu vật của các
chùa chiền, nên các tín đồ cũng như tăng
nhân đều cất giữ rất kỹ, người
ngoài muốn xem cũng khó có cơ hội xem, càng không
có cơ hội đem đi làm các thí nghiệm khoa
học, để xem rốt cuộc xá lợi, xá
lợi tử là ǵ.
Tuy nhiên, năm 2014, chùa Phật Cung huyện Ứng, Sơn
Tây, Trung Quốc đă gửi xá lợi răng
Phật đến trung tâm giám định kim cương
ở Antwerp, Bỉ để giám định. Thông qua
máy móc hiện đại tiên tiến, mọi người
lần đầu được t́m hiểu những
đặc tính thần kỳ của xá lợi
Phật.
Răng Phật
được gửi tới pḥng giám định
Đây là răng Phật được gửi
tới pḥng giám định. Có thể thấy trên răng
không bị cháy, mà có những hạt nhỏ trông như
pha lê, những hạt nhỏ này chính là xá lợi
tử của Đức Phật.
Kết quả phân tích cho thấy, các hạt xá
lợi tử đó do 4 loại nguyên tố tổ
hợp thành, trong đó carbon chiếm chủ yếu
tới 99,97%; 0,03% c̣n lại là lưu huỳnh,
kẽm, silic, stronti. Những thành phần này rất tương
tự với kim cương.
Khi thí nghiệm độ bền nén, dùng áp lực
2200 kg/cm2, các hạt xá lợi tử vẫn nguyên
vẹn như ban đầu. Điều này cho
thấy, các chỉ số vật lư xá lợi có
thể sánh với kim cương.
Do đặc điểm xá lợi, xá lợi tử
được coi là báu vật, nên hiện nay chưa
có chùa nào hay người nào đem xá lợi đi thí
nghiệm, nên đến nay, thí nghiệm giám định
xá lợi răng Phật (bao gồm các viên kết
tinh xá lợi tử nhỏ bám vào răng), là thí
nghiệm duy nhất, được trung tâm giám định
kim cương của Bỉ thực hiện.
Xá lợi có linh thiêng không?
Theo truyền thuyết của Phật giáo Miến
Điện, sau khi Đức Phật truyền Pháp cho
2 thương gia Miến Điện, trước khi
họ trở về, Ngài nhổ 8 sợi tóc trên đầu
rồi tặng cho 2 thương gia và nói rằng:
thấy tóc cũng giống như thấy ta.
Câu này có nghĩa, thấy sợi tóc của Phật
th́ cũng giống như là thấy Phật. Vậy
chiêm bái sợi tóc Phật là giống như trông
thấy Đức Phật, là ‘sẽ được
nhiều phước báo’ như người ta nói không?
Hay câu nói này có ư nghĩa nào khác?
Chúng ta cũng biết, trong các kinh điển Phật
giáo có kể về người em họ của Đức
Phật tên là Đề Bà Đạt Đa, chính là
anh trai của Tôn giả A Nan. Đề Bà Đạt
Đa khá gần gũi với Đức Phật, và
trong 10 năm đầu, ông tu hành rất chăm
chỉ, và nghiêm túc.
“Xuất diệu kinh” có ghi lại về Đề
Bà Đạt Đa “trong mười hai năm,
ngồi thiền nhập định, tâm không thay đổi,
và đă tụng 60.000 bộ kinh Phật”.
“Đại Đường Tây Vực kư” do cao tăng
Huyền Trang viết, có ghi lại: “pḥng đá
lớn, Đề Bà Đạt Đa đă nhập
định ở đây!”
Sau khi tu hành xuất ra một số thần thông,
khiến nhiều đệ tử mới tu ngưỡng
mộ, ca tụng Đề Bà Đạt Đa,
khiến ông ta dần trở nên tự măn, kiêu
ngạo. Ngày ngày được đám đông vây
quanh, ông ta cảm thấy ḿnh “không khác ǵ Như
Lai”, thậm chí “cao hơn Như Lai”, từ đó
không nghe theo lời Đức Phật dạy, không
tụng kinh của Phật nữa, mà tự ông ta
‘giảng Pháp’ cho những người theo ông ta.
Đề Bà Đạt Đa sau đó đă nhiều
lần hành thích, hăm hại Đức Phật, và
cuối cùng bị đọa Địa ngục.
Cái chết của Bà
Đề Đạt Đa.
Như vậy, người thường xuyên gặp
Đức Phật, từng 10 năm khổ tu, tụng
6 vạn kinh Phật, tọa thiền chăm chỉ
trong hang đá, nhưng chỉ v́ sau này không nghe theo
lời dạy của Phật, mà chuyển sang tà, và
chịu kết cục thảm hại.
Thế nên câu nói “nh́n thấy tóc cũng giống như
nh́n thấy Đức Phật”, chắc chắn không
có nghĩa là sẽ được phước báo
lớn, mà có nghĩa là: Đức Phật cỗ vũ
các đệ tử gắng sức tuân theo lời
dạy của Phật, tŕ giới tu hành, chịu
khổ, nhẫn nhục. Mỗi khi gặp ma nạn khó
vượt qua, nh́n thấy tóc cũng giống như
nh́n thấy Đức Phật, từ đó phấn
chấn cố gắng chịu khổ, vững tin vào
Phật, th́ sẽ vượt qua khổ nạn, th́
mới tiêu được nghiệp, mới có phước
báo, mà lớn nhất là thoát khỏi luân hồi vượt
qua sinh tử, đến bờ kia của Niết Bàn.
Cũng giống như hai người em họ của
Đức Phật là Đề Bà Đạt Đa và
A Nan, cả hai đều thông minh, tuấn tú, tài năng,
giỏi giang, đều là các hoàng tử quyền
thế. Cả hai cùng xuất gia cùng nhau, cùng là người
thân cận bên Đức Phật, và ban đầu,
đều tu hành được rất tốt. Nhưng
một người nửa chừng không nghe theo
lời dạy của Phật, cuối cùng đọa
Địa ngục, c̣n một người vẫn kiên
định nghe theo lời dạy của Phật,
cuối cùng thành quả vị La Hán.
Các Phật tử bái lạy trước tượng
Phật, xá lợi Phật cũng như vậy.
Nếu họ có tâm kính ngưỡng, mỗi lần
nh́n thấy tượng Phật, xá lợi Phật là
giống như thấy Đức Phật, nảy sinh
ḷng kính ngưỡng, tự nh́n vào cái tâm ḿnh xem, ḿnh
đă thực hiện được theo lời
Phật dạy hay chưa, c̣n những lỗi lầm,
khuyết điểm nào, th́ hứa với Đức
Phật sẽ tu sửa, hoàn thiện ḿnh. Người
như vậy mới là đệ tử, Phật
tử chân chính của Đức Phật, th́ mới
có phước báo.
C̣n ngược lại, nếu có người đến
bái Phật, xá lợi Phật, chỉ mong cầu sao
cho thăng quan tiến chức, làm ăn phát đạt,
tiền vào như nước, tiêu tai giải hạn,
cưới được vợ đẹp, sinh
được con trai… th́ đó không phải là
những điều Đức Phật dạy các
đệ tử, th́ làm sao có phước báo
được? Nếu cầu những thứ lợi
cho ḿnh, mà có thể thiệt hại cho người khác,
th́ là việc xấu, tạo nghiệp, có khi c̣n
bị quả báo xấu.
Trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn,
Tôn giả A Nan hỏi: “Thế Tôn nhập Niết
Bàn rồi th́ chúng đệ tử sẽ lấy ai làm
thầy?”
Đức Phật nói: “Lấy giới luật làm
thầy”.
Khi Đức Phật tại thế, ngài đặt ra
các giới luật cho tăng đoàn, có các loại
giới luật khác nhau cho các đối tượng
khác nhau, như tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, và các
đệ tử tại gia, tức các Phật tử.
Trong đó, yêu cầu thấp nhất là cho các
Phật tử tại gia, là Ngũ giới: Không sát
sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không nói dối;
không uống rượu.
Đức Phật phổ độ chúng sinh, Ngài
đặt ra giới luật và giảng Pháp để
mọi người đạt tiêu chuẩn của
đệ tử, làm căn bản để tiếp
thu Phật Pháp, thăng hoa lên các cảnh giới cao hơn,
và cuối cùng là thoát khỏi luân hồi. Thực
hiện được giới luật, th́ đó
mới đích thực là đệ tử của Ngài.
C̣n người mang danh đệ tử Phật, nhưng
hoàn toàn phạm giới, hoàn toàn không để ư
đến giới luật, th́ có khác chi người
tự xưng là học sinh, nhưng hoàn toàn làm ngược
lại lời thầy dạy bảo, th́ thực
chất người đó chỉ là học sinh
giả danh mà thôi.
Người ta vẫn thường nói "Phật
tại tâm, tâm tức Phật", có nghĩa là
mỗi người đều có Phật tính và ma tính.
Người hướng thiện, luôn nh́n vào cái tâm
của ḿnh, t́m lỗi của ḿnh, t́m những thói
tật chưa tốt của ḿnh, để dần
dần hoàn thiện, để ngày cảng hiển
lộ Phật tính, th́ đó chính là tu, dẫu không
tu Đạo th́ cũng ở trong Đạo. C̣n người
chạy theo ham dục, buông thả cái tâm ḿnh, ṭng tâm
sở dục, th́ đó chính là đang phóng túng ma tính,
dẫu quy y, xuất gia, dẫu người ở trong
Đạo, nhưng tâm lại xa rời Đạo. Tu
hay không là tự tu sửa cái tâm ḿnh, chứ không
phải là các h́nh thức và các nghi lễ, Phật
tại tâm, thế nên có linh thiêng hay không cũng là cái
tâm của mỗi người.
Trung Ḥa
|