Tháp chùa Pháp Môn và Lục Tổ Huệ Năng.
Trong
những lần Pháp nạn của Phật giáo th́ Cách
mạng văn hóa Trung Quốc là lần thảm
khốc nhất. Không chỉ rất nhiều đền
chùa bị phá hủy, rất nhiều tượng
Phật bị đập nát, mà c̣n có rất
nhiều người xuất gia bị ép phải hoàn
tục, hoặc phải đi lao động cải
tạo, hoặc bị bắn chết.
-Chùa Pháp Môn- "Thủy tổ
của các ngôi chùa trong khu vực Quan Trung"
-Pháp sư Lương Khanh tự thiêu để xua
đuổi Hồng vệ binh và bảo vệ chùa
-Xá lợi của Phật Thích Ca hiển linh quang
-Chân thân của Lục tổ Huệ Năng bị
phanh ngực mổ bụng
Ví dụ như, những sinh viên của Đại
học Sơn Tây, đến núi Ngũ Đài Sơn
ở Sơn đây để quét sạch "Tứ
cựu". Ngoài việc đập phá chùa chiền,
c̣n đưa rất nhiều ḥa thượng và ni cô
ra đấu tố. Sau khi những sinh viên này đi,
Đảng ở địa phương này đă ra
lệnh trục xuất 289 ḥa thượng, ni cô,
lạt ma ra khỏi Phật môn, cưỡng chế
đưa những người này trở về quê cũ
của họ.
Có một nhóm Hồng vệ binh đến ngôi chùa
Cực Lạc nổi tiếng ở thành phố Cáp Nhĩ
Tân, không chỉ đập phá đền miếu, chúng
c̣n bắt những ḥa thường ở đây đeo
một bảng lớn viết "Kinh Phật toàn nói
láo", rồi đưa đi thị chúng trước
cổng chùa. Sau đó những Hồng vệ binh này c̣n
đốt hết kinh sách, đập nát tượng
Phật. Những hành đồng như vậy xảy
ra trên khắp đất nước Trung Quốc.
Bài viết này sẽ bàn về kiếp nạn của
xá lợi Phật Thích Ca Mâu Ni và linh cốt của
Lục tổ Huệ Năng trong Đại Cách
mạng Văn hóa Trung Quốc.
Chùa Pháp Môn- "Thủy tổ
của các ngôi chùa trong khu vực Quan Trung"
Tọa lạc tại thị trấn Phù Phong, thành
phố Bảo Kê tỉnh Thiểm Tây, chùa Pháp Môn cách
thị trấn Pháp Môn 10km về phía bắc,
được xây dựng vào những năm Hằng
Linh cuối thời Đông Hán. Đến nay, chùa
đă có lịch sử khoảng 1700 năm, được
gọi có "Quan Trung tháp miếu thủy tổ"
(Thủy tổ của các ngôi chùa trong khu vực Quan
Trung). Hiện nay, trong chùa vẫn c̣n tấm bia Thiên
Phật từ thời Bắc Ngụy, được
dựng lên không lâu sau xây chùa. Lúc đó chùa
được gọi là “A Dục Vương
tự” (hay Vô Ưu Vương tự).
Vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, sau
khi A Dục Vương thống nhất Ấn Độ,
v́ để hồng dương Phật Pháp, ông đă
chia xá lợi của Phật thành 84.000 phần, sai các
đoàn sứ giả mang đi khắp nơi, chia cho các
quốc gia trên thế giới để xây tháp cung
phụng. Ở Trung Quốc có 19 chùa được
thờ xá lợi Phật, trong đó Pháp Môn tự là
chùa thứ 5. Năm 558, Thác Bạt Ngọc, hậu
duệ của hoàng thất nhà Bắc Ngụy cho
mở rộng chùa Pháp Môn, đồng thời vào năm
Nguyên Ngụy thứ 2 (năm 494) lần đầu tiên
mở tháp để chiêm bái xá lợi Phật.
Vào năm Khai Hoàng thứ ba (năm 593) thời Tùy Văn
Đế, chùa được được đổi
tên thành "Thành Thực Đạo tràng". Vào năm
Nhân Thọ thứ hai (năm 602), hữu nội sử
Lư Mẫn mở tháp mở tháp để chiêm bái xá
lợi lần thứ hai.
Thời nhà Đường là thời kỳ hoàng kim
của chùa Pháp Môn. Khi đó, chùa có vị trí quan
trọng trong các chùa của hoàng gia. Trong thời
kỳ này đă có tổng cộng 7 lần mở tháp
để chiêm bái xá lợi xương Phật.
Việc này đă có những tác động sâu
sắc đến việc truyền bá Phật giáo
ở Trung Nguyên. Vào đầu thời nhà Đường,
Đường Cao Tổ Lư Uyên đổi tên chùa thành
"Chùa Pháp Môn".
Vào năm Vơ Đức thứ hai (năm 619), Tần Vương
Lư Thế Dân đă cho phép 80 nhà sư xuống tóc và
tu hành ở chùa Pháp Môn, đồng thời phong cho
Huệ Nghiệp, một nhà sư tại chùa Bảo Xương
trở thành trụ tŕ đầu tiên của chùa Pháp
Môn. Trong thời kỳ Trinh Quán của nhà Đường,
tháp A Dục Vương được xây dựng
lại thành một tháp gỗ bốn tầng. Năm
Đại Lịch thứ 3 (năm 786) thời
Đường Đại Tông, tháp được
đổi tên thành "Hộ Quốc Chân Thân Bảo
Tháp".
Kể từ thời Trinh Quán trở đi, nhà
Đường đă dành rất nhiều nhân
lực, vật lực và tiền của để tu
bổ và mở rộng chùa Pháp Môn. Các công tŕnh
đền đài trong chùa ngày càng nhiều, bảo tháp
trong chùa cũng được xây dựng ngày một
lớn hơn. Diện tích của chùa được
mở rộng, h́nh thành quần thể 24 cung viện
lớn. Số lượng tăng ni trong chùa đă tăng
từ hơn 500 người vào thời Chu và Ngụy
lên đến hơn 5.000 người. Chùa Pháp Môn
trở thành ngôi chùa có quy mô lớn nhất ở Tam
Phụ - 3 khu vực phụ cận kinh thành.
Chùa Pháp Môn vào thời nhà Tống tiếp tục
kế thừa sự hùng vĩ của ngôi chùa hoàng
gia thời nhà Đường và được
mở rộng đến quy mô lớn nhất. Vào
thời điểm đó, “Dục Thất viện”
là một trong 24 cung viện trong chùa, mỗi ngày có
thể có đến hàng ngh́n người đến
tắm.
Sau thời nhà Minh và nhà Thanh, chùa Pháp Môn dần
dần suy tàn. Đặc biệt là vào cuối
thời nhà Thanh, đầu thời Trung Hoa Dân
Quốc, do chiến tranh và nhiều lư do khác, số tăng
ni trong chùa giảm dần. Quang cảnh của chùa cũng
ngày càng cũ nát. Năm 1953, pháp sư Lương
Khanh đến đây làm trụ tŕ, sau nhiều
lần thỉnh cầu và t́m kiếm sự giúp đỡ
ở các nơi, cuối cùng Phật đường,
tường bao quanh và tháp trống đă được
tu sửa, đồng thời hương khói trong chùa
cũng được bắt đầu lại.
Pháp sư Lương Khanh
tự thiêu để xua đuổi Hồng vệ binh
và bảo vệ chùa
Tuy nhiên, trong thời kỳ Đại Cách mạng Văn
hóa, chùa Pháp Môn đă gần như bị phá
hủy. Khi Đại Cách mạng Văn hóa nổ ra vào
năm 1966, làn sóng "phá tứ cựu" đă
diễn ra trên khắp Trung Quốc. Lực lượng
Hồng vệ binh từ Tây An hùng hổ xông vào chùa
Pháp Môn. Khi nhóm Hồng vệ binh xông vào, đại
sư Lương Khanh, lúc đó đă 80 tuổi,
đang ngồi trên một tấm bồ đoàn trong
sảnh của Đại Hùng bảo điện, hai
mắt nhắm khẽ, tập trung niệm kinh.
Một nữ Hồng vệ binh đến chỗ
của pháp sư Lương Khanh và bắt đầu
đọc thuộc ḷng câu nói của Mao Trạch
Đông: "Ai đứng về phía cách mạng nhân
dân, th́ người đó là người cách
mạng. Ai đứng về phía đế quốc,
phong kiến và chủ nghĩa tư bản quan liêu, th́
người đó là kẻ phản cách mạng."
... “. Khi nữ Hồng vệ binh này c̣n chưa đọc
xong th́ những Hồng vệ binh khác đă bắt
đầu hành động "đập tan thế
giới cũ".
Tượng Phật trong Phật đường, và
“Thất âm bia” ở hiên chùa đều đă
bị đập nát nhưng Hồng vệ binh vẫn
không thấy thỏa măn. Họ lại kéo nhau đến
dưới Chân thân bảo tháp. Họ muốn đến
chỗ yên nghỉ của Phật Tổ, đào đi
tàn tích của phong kiến.
Khi từng viên gạch xanh bị đào lên, và khi
từng xẻng đất được xúc đi, pháp
sư Lương Khanh mới nhận ra t́nh h́nh c̣n
nghiêm trọng hơn nhiều so với những ǵ ông
tưởng tượng. Bởi v́ một khi bảo
tháp bị đập đi, kho tàng quư giá ngàn năm
tuổi của chùa sẽ bị phá hủy. V́ thế
pháp sư Lương Khanh cố gắng xông vào,
cố gắng ngăn cản đoàn Hồng vệ
Binh, thế nhưng ông lại bị đánh đập
rất thậm tệ.
Không ai biết lúc đó pháp sư Lương Khanh nghĩ
ǵ, chỉ biết rằng ông trở lại thiền
pḥng, mặc lên ḿnh chiếc áo cà sa ngũ sắc tượng
trưng cho vị trụ tŕ của chùa. Sau đó pháp
sư Lương Khanh đổ dầu hỏa lên
khắp người, đến trước “Chân thân
bảo tháp”, và tự thiêu một cách dũng
cảm. Ngay lập tức ngọn lửa bao trùm toàn
thân của pháp sư, mùi dầu cháy khép tràn ngập
khắp cả chùa. Nh́n thấy cảnh tượng bi
thảm này, Hồng vệ binh ai nấy cũng đều
trợn mắt há mồm, vứt bỏ dụng cụ
rồi chạy tán loạn. Nhờ vậy mà xá
lợi ngón tay Phật dưới bảo tháp vẫn
được giữ ǵn nguyên vẹn.
Sau khi pháp sư Lương Khánh tự thiêu và qua
đời, hài cốt của ông được
gửi đến chùa Thiên Tŕ trên núi Chung Nam ở Trường
An để chôn cất.

Toà bảo tháp tại chùa Pháp Môn
Xá lợi của Phật Thích
Ca hiển linh quang
Địa cung dưới bảo tháp mà pháp sư Lương
Khanh đă hy sinh bản thân để bảo vệ
được t́m thấy vào năm 1987 sau hơn 1.000
nằm yên dưới ḷng đất. Hơn 2.000
bảo vật thời nhà Đường, được
xếp quanh xá lợi ngón tay của Phật Thích Ca Mâu
Ni, đă trở lại thế gian.
Ngày 9 tháng 11 năm 1988, chùa Pháp Môn chỉnh thức
tổ chức lễ chiêm bái xá lợi ngón tay
Phật. Hơn 10 vạn tăng chúng từ các nơi
trên thế giới tập hợp trước cổng
chùa, tham gia buổi lễ long trọng này. Buổi
tối cùng ngày, hai hàng tăng ni trong Chân thân bảo
tháp, tổ chức một buổi tụng kinh lễ
Phật long trọng. Đột nhiên, mảnh xương
Phật thứ ba đột nhiên tỏa ánh hào quang.
Ở vị trí trên lọ thủy tinh đựng xá
lợi Phật đột nhiên liên tục tỏa ra ánh
hào quang trong vài giây, có một nhiếp ảnh gia
đă chụp được cảnh tượng
kỳ lạ này. Những người đời sau
may mắn thấy được cảnh tượng
thần kỳ này lại càng cảm phục tấm ḷng
xả thân hộ pháp của pháp sư Lương
Khanh!
Chân thân của Lục tổ
Huệ Năng bị phanh ngực mổ bụng
Có một ngôi chùa tên là Nam Hoa ở Thiều Quan,
Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng
từng giảng Pháp. Năm 713, Lục tổ viên
tịch và để lại nhục thân của Ngài.
Sau đó, nhục thân của Lục Tổ được
đặt ngồi tọa trong chánh điện của
chùa Nam Hoa.
Theo một bài báo đăng trên tờ Phượng
Hoàng Bác Báo vào năm 2013, ngay sau khi Lục Tổ viên
tịch, người ta kể lại rằng có người
từ Tân La muốn cướp đi phần đầu
của chân thân Lục Tổ, nên cho người
lẻn vào chùa vào ban đêm. Nhưng lúc đó, v́
phần cổ của Lục Tổ được
bảo vệ bằng một tấm sắt, nên tên
trộm không thể thành công. Bởi v́ không có tài
liệu chính xác ghi lại, câu chuyện này vẫn
chỉ là một truyền thuyết, nhưng đây
được xem là lần đầu tiên chân thân
của Lục Tổ gặp nạn.
Trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung
Quốc, chân thân của Lục tổ gặp phải
kiếp nạn lần thứ hai. Một ngày nọ, có
một vài người lính Nhật Bản đến
chùa Nam Hoa, đi cùng với các bác sĩ. Họ nghi
ngờ rằng chân thân của Ngài là giả, và
muốn mổ ra để t́m hiểu. Người
Nhật đă dùng dao mổ một lỗ nhỏ trên
lưng của Lục Tổ. Nh́n qua lỗ nhỏ,
họ thấy được bộ xương và
nội tạng khô được bảo quản
một cách hoàn hảo, nhưng môi trường xung
quanh lại không có biện pháp bảo vệ nào. Người
Nhật vô cùng kinh ngạc, sau đó họ tin rằng
đây đúng là chân thân của Bồ Tát, những
người này vội vàng bái lạy rồi lui ra.

Nhục thân của thiền sư
Huệ Năng đặt tại chùa Hoa Nam huyện
Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông Trung Quốc
(ở đây cũng lưu giữ nhục thân của
sư Hám Sơn và Đan Điền).
So với hai kiếp nạn trước, kiếp
nạn lần thứ ba của chân thân Lục Tổ
trong Đại Cách mạng Văn hóa lại vô cùng bi
thảm. Câu chuyện được chép lại trong
"Pháp Nguyên lăo ḥa thượng pháp hối":
"Một ngày nọ, chân thân của Lục tổ
bị Hồng vệ binh dùng một chiếc xe đẩy
đi diễu hành ở Thiều Quan. Họ nói
rằng Lục Tổ là một kẻ xấu xa,
giả mạo và giả dối, và định đốt
đi chân thân của Ngài. Hồng vệ binh dùng
gậy khoét một lỗ to bằng cái bát trên lưng
và ngực của chân thân, nội tạng trong
bụng bị moi ra và ném vào Đại Phật
đường. Xương sườn và xương
sống của chân thân cũng bị moi ra ngoài, ném
khắp nơi trên mặt đất. Hồng vệ
binh cho rằng đó là xương lợn, xương
chó, là đồ giả. Sau đó họ đội
một cái bát sắt lên đầu của chân thân,
trên mặt viết lên hai chữ: "kẻ
xấu", rồi bỏ vào Đại Phật
đường.
Họ không cho chúng tôi xem nhưng chúng tôi vẫn lén
lút đến xem. Chúng tôi đau ḷng đến rơi
lệ, lén lút gói linh cốt Lục Tổ lại. Nhưng
v́ không có chỗ giấu, phần th́ sợ người
khác biết; phần th́ sợ không biết khi nào
bản thân sẽ bị đánh chết. Linh cốt
của Lục Tổ không thể cứ mất đi
như vậy được! V́ vậy tôi dùng
chiếc hộp bằng sành che kín lại, chôn dưới
một gốc đại thụ ở ngọn núi phía
sau Cửu Long Tỉnh, sau đó đánh dấu
lại. Tôi gửi thư cho Thánh Nhất pháp sư
ở Hồng Kông, nói rằng khi đến đây
nhờ pháp sư Thánh Nhất chụp ảnh lại,
đợi đến lúc thái b́nh th́ đào lên. Linh
cốt của tổ sư Đan Điền cũng
bị làm hại. Tôi cũng đă thu lại và phân
ra để cất giữ".
Từng lời trong thư của đại sư
Phật Nguyên đều tràn đầy nỗi đau
không nói thành lời. Đại sư Phật Nguyên,
người đă viết bức thư này, là đệ
tử của Hư Vân ḥa thượng. Ông bị coi
là "cánh hữu" và bị bỏ tù vào năm
1958. Ông trở lại Chùa Nam Hoa vào năm 1961 nhưng
vẫn bị quản chế. V́ bị bức hại,
ông mắc rất nhiều loại bệnh và chỉ có
thể ăn thức ăn lỏng trong nhiều năm.
V́ kiên quyết không chịu hoàn tục nên ông đă
bị đánh đập dă man vô số lần.
Sau Cách mạng Văn hóa, với sự hỗ trợ
của Tập Trọng Huân - cha của Tập Cận
B́nh, chân thân của Lục tổ Huệ Năng đă
được t́m lại, nhưng chân thân đă
bị tổn hại rất nghiêm trọng. Trong
hồi kư của pháp sư Phật Nguyên có chép: “Khi
xương cốt của Lục Tổ được
lấy ra, do chôn trong đất hơn 10 năm và
ở phương Nam ẩm thấp nên xương sườn
đă bị nấm mốc nhưng vẫn c̣n giữ
được nguyên h́nh dạng. Xương cột
sống bị ẩm nặng, và không c̣n tốt như
khi lúc được chôn cất".
Ông nói rằng: "Nếu không gặp phải đại
kiếp nạn của thời Đại cách mạng
văn hóa, chân thân của Lục tổ Huệ Năng
sẽ không bị tổn hại như vậy".
Quả đúng như vậy, chính ĐCSTQ đă
hủy hoại linh cốt của Lục Tổ và Pháp
Môn Tự, nơi lưu giữ xá lợi xương
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni!
Đức Nhân biên dịch
|