Sự thật về Hồi giáo dưới mắt của người Trung Đông không quá khích Mustafa Akyol |
Một
số nhà thần học Hồi giáo hiện đại,
và thậm chí một số nhà cổ điển,
những người giải quyết câu hỏi trên
đă đi đến kết luận rằng khía
cạnh "lịch sử" và "tôn giáo"
của Muhammad phải được tách biệt. Nói
cách khác, Nhà tiên tri đă mang đến một thông
điệp phù hợp với mọi thời đại,
nhưng ông đă sống một cuộc đời
ở thời đại của chính ông. Nhận
thức được điều này là ch́a khóa
để giúp chúng ta khỏi rơi vào một trong hai
sai lầm rất phổ biến và liên quan. Đầu
tiên, được thực hiện bởi
những người không theo đạo Hồi,
là để chỉ trích, và đôi khi lên án, Muhammad
theo các tiêu chuẩn hiện đại của chúng ta.
Sai lầm thứ hai, mà người Hồi giáo
mắc phải, là coi các tiêu chuẩn của thời
đại cổ xưa có giá trị vĩnh viễn và
cố gắng đưa chúng vào thời kỳ
hiện đại. Lấy
ví dụ, một hành động gây tranh căi khác
của Muhammad: cuộc hôn nhân của Muhammad với
Aisha, theo định nghĩa của chúng ta, khi đó c̣n
khá vị thành niên. Tất nhiên, điều này là hoàn
toàn không thể chấp nhận được theo các
tiêu chuẩn hiện đại, nhưng nó khá b́nh thường
khi đó, khi tuổi dậy th́ thường được
coi là tuổi tự nhiên để kết hôn. (Người
Ả Rập trong thế kỷ thứ bảy cũng có
xu hướng trưởng thành ở độ
tuổi sớm hơn người phương Tây ngày
nay). Các
khía cạnh gây tranh căi khác của Muhammad - rằng ông
có nhiều vợ, sở hữu nô lệ (những người
mà ông đối xử rất nhân từ), hoặc ra
lệnh cho các hành động bạo lực như
số phận của Banu Qurayza - chỉ trở nên gây
tranh căi trong thời kỳ hiện đại và trong
mắt các nhà phê b́nh hiện đại. William
Montgomery Watt lưu ư: “Rơ ràng là những hành động
của Muhammad bị phương Tây hiện đại
không tán thành,“ không phải là đối tượng
của sự chỉ trích đạo đức
của những người cùng thời với ông
”. Đối
với tâm trí người Hồi giáo, “tính lịch
sử” này của Nhà tiên tri Muhammad không gây tai
tiếng. Trên thực tế, mong đợi từ
Muhammad một trí tuệ phổ quát hoàn hảo, hoàn
toàn không bị ràng buộc với thời đại
và văn hóa của ông, sẽ không phù hợp
với thần học trong kinh Qur’anic. Không giống
như h́nh ảnh của Chúa Giê-su trong Cơ đốc
giáo — người, như là Lời của Đức
Chúa Trời, đă tồn tại từ muôn thuở và
đi vào lịch sử bằng cách trở thành xác
thịt — Muhammad chỉ là một con người.
Ngài không phải là Lời của Đức Chúa
Trời; ông là một người khiêm tốn
được Lời Chúa cảm động. “Tôi
chỉ là một con người giống như chính các
bạn,” Qur’an ra lệnh cho Muhammad nói. "Chúa
chỉ tiết lộ cho tôi rằng Chúa của
bạn là một Thiên Chúa." Tuy
nhiên, điều thú vị là truyền thống
Hồi giáo sau này tôn vinh ông thành một nhân vật
siêu phàm, giống như Chúa Giê-su, tồn tại trước
thời gian và vũ trụ và thực hiện
nhiều phép lạ trên trái đất. Trong chương
tiếp theo, chúng ta sẽ xem “Tiên tri” này đă
đóng góp như thế nào vào sự trỗi dậy
của một Sunna (truyền thống tiên tri) toàn
diện như một thế lực tŕ trệ trong
Hồi giáo hơn một thế kỷ sau cái chết
của nhà Tiên tri Muhammad. 2. BÍ ẨN TUYỆT VỜI CỦA ISLAM Những
năm cuối cùng trong cuộc đời của Nhà
tiên tri Muhammad là những năm chiến thắng. Sau năm
năm chiến tranh, ông đă kư một hiệp ước
ḥa b́nh với những người ngoại giáo
ở Mecca vào tháng 3 năm 628. Hai năm tiếp theo cho
người Hồi giáo cơ hội tốt để
truyền bá đức tin mới và thu hút được
những người cải đạo từ khắp
nơi trên Bán đảo Ả Rập. Sau đó, sau
một cuộc giao tranh giữa hai bộ tộc liên
minh với Medina và Mecca, hiệp ước ḥa b́nh
bị giải thể. Với
một đội quân áp đảo lên đến mười
ngh́n người, Muhammad đă hành quân về phía
Mecca. Đối với những người lớn
tuổi của thành phố, cách duy nhất là đầu
hàng người đàn ông mà họ đă đuổi
ra chỉ sáu năm trước đó. Tất cả
đều lo sợ rằng ông sẽ trả thù
kẻ thù của ḿnh, nhưng thay vào đó, ông đă
ban hành lệnh tổng ân xá và không bắt buộc ai
phải chấp nhận đạo Hồi của chính
ông. Ngay
sau khi tiến vào thành phố mà không đổ máu,
Muhammad chiến thắng đă tiến về Ka’ba. Người
Ả Rập tin rằng ngôi đền cổ này
được xây dựng bởi Abraham, tổ tiên
độc thần của họ, để thờ phượng
Chúa. Tuy nhiên, theo thời gian, nó đă trở thành
một đền thờ ngoại giáo, và khi Muhammad
mở cổng, ông thấy nó chứa hơn ba trăm
bức tượng thờ các vị thần. Từng
tượng một, chính tay Muhammad đă đập
vỡ các tượng của các vị thần này.
"Sự thật đă đến," câu ông đọc
thuộc ḷng, "và Sự giả dối đă
biến mất." Các
nguồn tin Hồi giáo báo cáo rằng trong số các h́nh
tượng ở Ka’ba, chỉ có các bức bích
họa của Chúa Giêsu và Đức Mẹ là không có,
v́ chúng được kính trọng sâu sắc trong
kinh Qur’an. Đây là một dấu hiệu cho thấy
rằng Hồi giáo, vốn ghê tởm ngoại giáo,
đă coi những người theo đạo Thiên chúa,
cũng như người Do Thái, là những thành viên
của một phần nào đó là những đức
tin sai lầm nhưng vẫn c̣n giá trị. Được
Qur’an chỉ định là “Người của Sách
thánh”, những người theo thuyết độc
thần này sẽ được cấp quyền
sống và thực hành đức tin của họ dưới
sự cai trị của đạo Hồi. Chỉ
trong hai mươi năm sau đó, Muhammad đă có
những thành tựu đáng kinh ngạc. Chẳng bao lâu,
khi các bộ lạc Ả Rập khác chấp nhận
thông điệp của ông, ông đă trở thành người
đàn ông quyền lực nhất ở Bán đảo
Ả Rập. Nhưng đây không phải là chiến
thắng của cá nhân Muhammad. “Khi sự giúp đỡ
và chiến thắng của Đức Chúa Trời
đă đến và bạn đă thấy những người
gia nhập tôn giáo của Đức Chúa Trời ngày
càng đông đúc,” Qur’an nói với ông ta, “sau
đó hăy tôn vinh sự ngợi khen của Chúa và
cầu xin sự tha thứ của Ngài.” Tính
“trung tâm” của giáo thuyết này sẽ vẫn là
đặc điểm cơ bản nhất của
Hồi giáo. Bằng cách từ chối bất kỳ
trung gian nào giữa con người và Chúa — chẳng
hạn như một nhà thờ đă thành lập —
Hồi giáo đă không trở thành một “tôn giáo có
tổ chức” theo nghĩa phương Tây, v́
vậy nó tiếp tục trao quyền cho cá nhân.
Kết quả không phải là những cá nhân hiện
đại có quyền tự do dân sự như chúng
ta ngày nay, mà đó là sự phá vỡ hoàn toàn và
tiến bộ khỏi chế độ bộ lạc
của thời đại ngoại giáo. “Muhammad không
thể. . . Karen Armstrong lập luận, tạo ra
một chủ nghĩa cá nhân toàn diện để
thỏa măn những ư tưởng tự do của phương
Tây hiện nay của chúng ta, "nhưng ông ấy
đă bắt đầu." Một
nhà b́nh luận khác đă đề cập đến
sứ mệnh tự do hóa của Hồi giáo là Rose
Wilder Lane (1886–1968), một trong những người sáng
lập phong trào tự do Mỹ. (Hầu hết người
Mỹ cũng sẽ nhận ra mẹ bà, Laura Ingalls
Wilder, từ cuốn tiểu thuyết huyền
thoại Little House on the Prairie.) Trong cuốn sách năm
1943, The Discovery of Freedom: Man’s Struggle Against Authority, bà
Lane đă dành một chương đặc biệt
cho Hồi giáo. Lập
luận của bà là đă có ba nỗ lực
lớn để thiết lập các xă hội tự
do trên trái đất. Người đầu tiên cô
ghi công cho Áp-ra-ham, người đă cứu loài người
khỏi "sự chuyên chế của các vị
thần thất thường." Nỗ lực thứ
hai được thực hiện bởi Muhammad, người
mà bà định nghĩa là "một người
kinh doanh tự lập", người đă
"thiết lập thực tế về quyền
tự do cá nhân trong các công việc thường ngày."
Nỗ lực vĩ đại thứ ba, Lane lập
luận, là Cách mạng Mỹ. Ngày
nay, điều này nghe có vẻ hơi ngược
với nhiều người Mỹ và những người
phương Tây khác, những người nghĩ
rằng những tư tưởng tự do đă phát
triển mạnh mẽ trong nền văn minh phương
Tây không có nhiều điểm tương đồng
trong thế giới Hồi giáo. Và t́nh trạng tự
do hiện tại, hoặc t́nh trạng thiếu tự
do, ở Đông Hồi giáo dường như
biện minh cho quan điểm đó. Một
học giả đă chú ư và b́nh luận về
nghịch lư này là David Forte, một giáo sư luật
người Mỹ: Có
một bí ẩn lớn trong Hồi giáo.
Nhưng
tại sao? Chuyện ǵ đă xảy ra thế? Tại
sao khởi đầu mà Muhammad đưa ra không đạt
được kết quả hợp lư? Sẽ
mất một vài chương nữa để t́m ra
câu trả lời — và chúng ta sẽ bắt đầu
với những ǵ đúng. 2.1 SỰ TÍCH CỰC CỦA CÁC TÔN CHỈ
(GUIDE LINE) Thế
giới Hồi giáo thời trung cổ cung cấp
nhiều tự do hơn bất kỳ tôn giáo tiền
nhiệm nào của nó, những người cùng
thời và hầu hết những người kế
thừa nó. — Bernard Lewis, nhà sử học về Trung
Đông Năm
632, ngay trước khi qua đời, Nhà tiên tri Muhammad
đă thực hiện chuyến hành hương
cuối cùng đến Mecca, nơi ông đă đọc
Bài giảng Vĩnh biệt của ḿnh, bài giảng có
ư nghĩa lịch sử đối với tất
cả người Hồi giáo kể từ đó. “Hỡi
mọi người,” ông nói với một đám
đông người Hồi giáo, “cuộc sống
của bạn và tài sản của bạn là bất
khả xâm phạm.”Muhammad tiếp tục lên án hành
vi cho vay nặng lăi, báo thù bằng máu và giết người.
“Quả thật, người nam nợ vợ của
ḿnh v́ quyền lợi của họ,” ông nhắc
nhở những người đàn ông, “và người
vợ nợ chồng ḿnh”. Ông cũng tố cáo
sự chia rẽ bộ lạc, sắc tộc và
chủng tộc. Ông nói: “Tất cả nhân loại là
từ A-đam và Ê-va, và nói thêm:“ Một người
Ả Rập không có ưu thế hơn một người
không phải là Ả Rập. . . . Ngoài ra, người
da trắng không có ưu thế hơn người da
đen, cũng không có người da đen hơn người
da trắng ngoại trừ ḷng đạo đức và
hành động tốt. ” Vài
tháng sau Bài giảng từ biệt, Nhà tiên tri Muhammad
bị đau yếu trong vài ngày. Vào ngày 8 tháng 6 năm
632, anh đă âm thầm qua đời trong ṿng tay
của người vợ yêu dấu Aisha (cô vợ
trẻ sau này của ông). Đối với cộng
đồng Hồi giáo đă theo dơi ông kể từ
lần mặc khải đầu tiên hai mươi ba
năm trước đó, đây là một thời
điểm đầy thử thách. Một số không
chịu tin “tin dữ” này, số khác th́ bị
sốc. Nhưng Abu Bakr, một trong những người
bạn đồng hành thân thiết nhất của Nhà
tiên tri, đă dẫn đầu và nói chuyện
với cộng đồng. "Bất cứ ai trong
số các bạn tôn thờ Muhammad, Muhammad đă
chết," ông nổi tiếng v́ tuyên bố
khẳng địnhsau: "Nhưng ai đă thờ phượng
Đức Chúa Trời, th́ Đức Chúa Trời
vẫn sống và sẽ không bao giờ chết." Nhà
tiên tri đă không để lại bất kỳ
“tổ chức” hay người thừa kế nào -
một vấn đề gây ṭ ṃ mà chúng ta sẽ
trở lại. Tại thời điểm này, cộng
đồng Hồi giáo phải quyết định xem
phải làm ǵ tiếp theo. Sau một số cuộc
thảo luận, họ quyết định chọn người
đáng tin cậy nhất trong số họ, Abu Bakr, làm
"caliph" ("người kế vị"
của Muhammad). Theo sau “caliphate” của Abu Bakr sẽ
là Umar, Uthman và Ali — những người bạn đồng
hành nổi bật khác của Muhammad. Người Sunni
coi bốn người này là “Caliph (người
thừa kế Muhammad) được hướng
dẫn đúng đắn” của đạo Hồi,
trong khi người Shiite chỉ tôn kính Ali và coi ba người
c̣n lại là kẻ soán ngôi quyền lực mà Ali
đáng được hưởng. (Ali là người
con nuôi của Muhammad mà sau này chính Muhammad đă
gả một trong hai cô con gái ruột của ḿnh cho
Ali – hai cô con gái này Muhammad đă có với bà vợ
đầu tiên lớn tuổi hơn ông 20 tuổi. Sau
đó khi bà vợ đầu chết ông mới cưới
con gái của Umar – cũng nên biết là tuy có 42 bà
vợ nhưng không ai kể cả cô vợ c̣n con
tuổi 16 – con của Umar – đă cho ông mụn con nào.
Yếu tố này đă đưa Hồi giáo vào con
đường nghi kỵ và thù hằn ngay khi kế
vị nhà tiên tri thứ hai – từ đây ta đă
thấy tại sao Shiite tuy số ít nhưng tuyệt
đối nh́n Ali thật sự là người tiên
tri thứ hai mà Muhammad thường thương yêu và
dậy dỗ ngay từ thời Ali c̣n là đứa
trẻ mồ côi cha mẹ) Công
việc đáng chú ư nhất của các Caliph
truyền thống (được hướng dẫn
đúng đắn) là mở rộng lănh thổ.
Khi Nhà tiên tri qua đời, người Hồi giáo
chỉ thống trị ở Bán đảo Ả
Rập. Chỉ trong ba thập kỷ, họ đă h́nh
thành một đế chế trải dài từ Libya
đến Afghanistan. Những cuộc chinh phục này
sẽ tiếp tục dưới triều đại
Umayyad, theo sau các Caliph truyền-thống, và Đế
chế Hồi giáo sẽ mở rộng đến
tận Tây Ban Nha ở phía Tây và Ấn Độ
ở phía Đông. Sau đó, một số vùng của
Châu Phi, Tiểu Á, Balkan, Caucasus và Đông Nam Á cũng
bị Hồi giáo hóa. Mặc dù các cuộc chinh
phạt quân sự tiếp tục đóng một vai tṛ
quan trọng trong việc mở rộng của Hồi
giáo, nhưng ở một số khu vực, chẳng
hạn như Đông Phi, Ấn Độ, Trung
Quốc và Indonesia, Hồi giáo đă lan truyền thông
qua các thương gia và người truyền đạo
ôn ḥa. Phần
đất rộng lớn do người Hồi giáo
thống trị này — Islamdom — sẽ là sân khấu
cho hoạt động của Hồi giáo trong lịch
sử. Và câu chuyện của nó sẽ được
định h́nh bởi hai động lực riêng
biệt: Một mặt, thông điệp của
Hồi giáo sẽ thông báo và biến đổi các dân
tộc của Islamdom; mặt khác, nền văn
hóa tồn tại và lâu đời của những dân
tộc này sẽ ảnh hưởng và đôi khi làm
lu mờ thông điệp của đạo Hồi. 3. TÔN GIÁO CỦA ĐAO KIẾM? Nếu
Islamdom chủ yếu do sự bành trướng của
nó là do các cuộc chinh phạt quân sự được
thực hiện dưới biểu ngữ , th́ chúng
ta có nên kết luận rằng Hồi giáo là
“một tôn giáo của gươm” không? Không
chính xác. Chắc
chắn, các cuộc chinh phục đă mở rộng
quyền cai trị chính trị của người
Hồi giáo, nhưng các dân tộc bị chinh phục không
bị buộc phải cải sang đạo Hồi, và
nhiều người trong số họ vẫn giữ tôn
giáo của ḿnh. Qur’an đă tuyên bố, “Không có
sự ép buộc trong tôn giáo,” và, ngoại
trừ một số trường hợp — chẳng
hạn như những người Almohavids cuồng tín
ở Bắc Phi — buộc phải cải đạo
vẫn không được chấp nhận ở
Islamdom. Vậy
tại sao người Hồi giáo lại quyết
định chinh phục thế giới? Một
mục tiêu chính là “truyền bá Lời Đức
Chúa Trời,” để đảm bảo rằng
Lời Đức Chúa Trời sẽ được
mọi người biết đến. Từ tiếng
Ả Rập được sử dụng cho các
cuộc chinh phục là fath, có nghĩa là "mở
đầu". V́ vậy, một vùng đất
bị người Hồi giáo chinh phục sẽ
được “mở cửa” cho Hồi giáo, trong
khi những người không theo đạo Hồi có
thể tiếp tục sống ở đó. Nói cách
khác, mục tiêu của thánh chiến không phải là
chuyển đổi bằng vũ lực mà là “loại
bỏ những trở ngại đối với
việc cải đạo”. (Các quan điểm tương
tự cũng được St. Thomas và St. Bernard bày
tỏ về cuộc thập tự chinh của Cơ
đốc giáo.) Mục
đích thứ hai của các cuộc chinh phạt là
truyền bá cái mà người Hồi giáo tin là một
trật tự chính trị công bằng. Động
lực thứ ba, đặc biệt là sau thời
đại của các Caliph được hướng
dẫn đúng đắn, sẽ chỉ đơn
giản là ham muốn giàu có và quyền lực. Các
dân tộc không theo đạo Hồi ở các vùng
đất bị chinh phục đă nhận được
dhimma (bảo vệ) bởi người Hồi giáo.
Để được bảo vệ tính mạng và
tài sản cũng như quyền được
thờ cúng tự do, các dhimmis (những người
được bảo vệ) đă phải trả
một khoản thuế đặc biệt và phải
chấp nhận một số hạn chế xă hội
có nghĩa là họ phải đầu hàng trước
sự cai trị của người Hồi giáo. (Theo
thời gian, những hạn chế này ngày càng mở
rộng và địa vị của những người
không theo đạo Hồi trở nên kém thuận
lợi hơn, khi người Hồi giáo áp dụng thái
độ tồn tại từ trước của Phương
Đông đối với các nhóm thiểu số tôn
giáo.) Giáo dân Cơ đốc và người Do
Thái là những nhóm đầu tiên được trao
giáo pháp, nhưng theo quy tắc của Hồi giáo lan
rộng, người Zoroastrian, người theo đạo
Hindu, người theo đạo Phật, và những người
khác cũng được đưa vào bằng cách
ijtihad (lư luận độc lập). Khi
so sánh với quan niệm hiện đại về
quyền b́nh đẳng của công dân, tất nhiên là
không thể chấp nhận được vấn
đề bất b́nh đẳng. Nhưng theo tiêu
chuẩn của thời đại đó, việc này
được cho là rất tiên tiến. Những người
không theo đạo Hồi sớm nhất t́m thấy
giáo pháp cứu cánh của ḿnh là những người
theo đạo Thiên chúa ở Syria và Bắc Phi,
những người bị bức hại bởi
quyền lực thống trị của đạo Thiên
chúa thời bấy giờ, Đế chế
Byzantine, v́ sự khác biệt về thần
học. Người
Byzantine tin vào Kinh Tin Kính Chalcedonian, cho rằng Chúa Giê
Su Ky Tô có hai bản tính, thần thánh và con người.
Hầu hết các tín đồ Cơ đốc ở
Ai Cập và Syria là những người theo phái
Monophysites, những người tin vào một bản
chất thần thánh. Cuộc tranh chấp thần
học này không chỉ áp đặt sự đàn áp
tôn giáo mà c̣n áp đặt các loại thuế
nặng nề đối với các Monophysites. V́
vậy, khi các đội quân Hồi giáo xuất
hiện trước cổng thành phố của
họ, với sự can thiệp vào các tranh chấp
thần học nội bộ Cơ đốc giáo và
sự khoan hồng về thuế, hầu hết các tín
hữu Cơ đốc ở Trung Đông đă chào
đón những kẻ chinh phục, v́ “những người
Semite (Ả Rập) là những người giải
cứu họ khỏi những người thu thuế
Hy Lạp và những kẻ bức hại chính
thống. . ” Đôi
khi, những tín đồ Cơ đốc địa
phương này thậm chí c̣n tích cực giúp đỡ
các cuộc chinh phạt của người Hồi giáo.
Khi Damascus do Byzantine cai trị bị quân
đội Ả Rập bao vây vào năm 634, giám
mục Monophysite của thành phố đă bí mật thông
báo cho chỉ huy trưởng Hồi giáo, Khalid,
rằng cổng phía đông của thành phố
được pḥng thủ yếu ớt, và ông đă
cung cấp thang cho quân Hồi giáo để mở
rộng bức tường. Sau cuộc chinh phục,
Nhà thờ St. John của thành phố được
chia làm hai: một nửa được sử
dụng làm nhà thờ, nửa c̣n lại trở thành
nhà thờ Hồi giáo. Tại hầu hết các vùng lănh
thổ bị chinh phục, sự cai trị của người
Hồi giáo ban đầu không chỉ cho phép các nhà
thờ Thiên chúa giáo tồn tại mà c̣n cho phép xây
dựng các nhà thờ mới, như hồ sơ
khảo cổ đă t́m thấy sau này. Người
Do Thái cũng vậy, nhận thấy vị thế
của họ được cải thiện dưới
sự thống trị của người Hồi giáo
Ả Rập. Trong một công tŕnh khải huyền
của người Do Thái vào thời đó, Đức
Chúa Trời đă được ca ngợi, v́ “Ngài
đă chỉ mang đến Vương quốc
Ishmael,” của người Ả Rập, để
cứu người Do Thái khỏi “sự gian ác”
của Byzantium. Cho đến thời hiện đại,
nhiều người Do Thái coi cuộc sống dưới
sự cai trị của Hồi giáo tốt hơn so
với ở Châu Âu thời trung cổ, và họ thường
t́m thấy nơi trú ẩn an toàn ở các vùng đất
của người Hồi giáo sau khi bị đàn áp
ở các vùng đất theo đạo Cơ đốc. 4. QUY TẮC CỦA LUẬT, KHÔNG PHẢI LÀ
QUY TẮC CỦA ĐẠO GIÁO Hệ
thống “pháp quyền” là một trong nhiều ư tưởng
cơ bản mà Qur’an đă đưa ra: Con người
có các quyền do Chúa ban cho, và không con người nào
khác có thể vi phạm các quyền này. Ư tưởng
này sẽ cho phép người Hồi giáo tạo ra
một nền văn minh dựa trên pháp quyền. Ở
đây chúng ta nên dừng lại để xem xét “pháp
quyền” nghĩa là ǵ. Việc thiếu luật pháp
và một cơ quan có thẩm quyền áp đặt nó
có thể dễ dàng dẫn đến t́nh trạng
hỗn loạn và vô chính phủ, theo đó sẽ không
thể bảo vệ các quyền và tự do của
con người. Nhưng sự tồn tại đơn
thuần của luật pháp, và một cơ quan
quyền lực áp đặt, không nhất thiết là
một điều may mắn, bởi v́ luật pháp cũng
có thể bất công và chuyên chế. Chẳng
hạn, “nhà nước pháp quyền” dưới
thời Stalin, thật khủng khiếp. Trong trường
hợp đó, mục đích của luật không
phải để bảo vệ các quyền và tự
do của các cá nhân mà là các hệ tư tưởng
và lợi ích của Đảng Cộng sản.
Bất cứ khi nào một người cai trị
hoặc đầu sỏ làm ra luật để
bảo vệ lợi ích của chính ḿnh, th́ “pháp
quyền” sẽ là bất công và không tự
nguyện. Do
đó, điều cần thiết là một nền pháp
quyền với mục đích không phải để
bảo vệ kẻ thống trị hay một giai
cấp đặc quyền mà là quyền của
mỗi cá nhân.
Điều này, đáng chú ư, luật có nghĩa là ǵ
ở Islamdom. Và khái niệm quan trọng gần đây
đă trở thành một từ bẩn thỉu:
Shariah. Nói một cách chính xác, Shariah dịch có nghĩa
là “con đường”, nhưng ư nghĩa lịch
sử mà nó có được là “luật Hồi giáo”,
được các học giả Hồi giáo phát
triển dựa trên kinh Qur’an và truyền thống
của Tiên tri. Định
nghĩa này về Shariah là kiến thức phổ
biến, nhưng điểm mấu chốt mà nó
nhấn mạnh thường không được thông
xuốt: thực tế là Shariah đă được
các học giả phát triển (hay chính xác hơn là
“được phát hiện”) có nghĩa là nó không
bị nhà nước ra lệnh. Nếu nó được
quy định bởi nhà nước, nó có thể
sẽ giống như luật La Mă, bắt đầu
bằng cách ghi chú, "Hoàng tử không bị ràng
buộc bởi luật pháp." Nhưng ở Islamdom,
tất cả những người cai trị đều
bị ràng buộc sâu sắc bởi luật pháp, v́
luật pháp đă tồn tại trước đó, và
đứng trên cả triều đại của
họ. Đó là lư do tại sao quyền miễn
trừ truy tố — vốn được các quốc
vương, nguyên thủ quốc gia, thành viên của
các cơ quan lập pháp và các nhà ngoại giao trong các
hệ thống pháp luật khác cho đến ngày nay -
hoàn toàn không có ở Shariah. Theo đó, không ai
được miễn nhiễm, và tất cả
mọi người đều b́nh đẳng. Kết
quả là, ngay từ nguồn gốc của Hồi giáo,
Shariah đă hành động như một ràng buộc
đối với sự cai trị độc đoán
và trở thành người bảo vệ công lư. Sau ba
mươi năm đầu tiên dưới sự hướng
dẫn của các Caliph đàng hoàng, quyền lănh
đạo chính trị của umma được
chuyển giao cho các triều đại, các thành viên
của họ thường cai trị không phải
bằng những đạo đức cao nhất mà
bằng cái mà Thánh Augustinô gọi là ham muốn
thống trị, ham muốn quyền lực. Chính
Shariah và các học giả ủng hộ nó, sẽ
chống lại sự chuyên chế của họ và
bảo vệ quyền của người dân. (V́ lư
do đó, hầu hết các xă hội Hồi giáo có
sự tôn trọng sâu sắc đối với Shariah
- một sự tôn trọng thường khiến người
phương Tây bối rối.) Một số nhà lư
thuyết tự do đă nhận thấy sự song song
giữa chức năng này của luật Hồi giáo
và truyền thống “luật tự nhiên” của châu
Âu, trên cả truyền thống “chính trị tự
do” đă bị loại bỏ vào sọt rác. Trong
thực tế, lư thuyết không phải lúc nào cũng
áp dụng được trong thực tế. Có
những trường hợp, các học giả đă
nhượng bộ những yêu cầu của các cơ
quan chức năng tạm thời và hỗ trợ
họ cho những tham vọng của họ. Nhưng có
những lần họ đóng vai tṛ như một
sự kiểm tra chắc chắn về chế độ
chuyên quyền. Khi
Ala-ud-din Khilji, một nhà cai trị Hồi giáo thế
kỷ mười bốn ở Ấn Độ,
muốn đánh bại các thần dân Ấn Độ
giáo giàu có của ḿnh, ông đă bị học
giả hàng đầu của ḿnh can ngăn v́ làm như
vậy sẽ vi phạm quyền tài sản được
Hồi giáo công nhận. “Bất cứ khi nào tôi
muốn củng cố quyền cai trị của ḿnh,”
Khilji phàn nàn, “ai đó nói với tôi rằng điều
này chống lại Shariah.” Tương
tự, trong Đế chế Ottoman, giữa thế
kỷ 14 và đầu thế kỷ 20, Shariah “không
phải là một công cụ của tầng lớp thượng
lưu”, theo lời của nhà sử học Israel Haim
Gerber, mà là “một phương tiện cho những
người thuộc tầng lớp thấp hơn
để tự vệ trước sự xâm phạm
có thể xảy ra của tầng lớp thượng
lưu ”. Gerber, người đă nghiên cứu các
quyết định của ṭa án Ottoman thế kỷ
XVII và XVIII, chỉ ra các ví dụ về Ottoman muftis (các
luật gia chính thức), những người, mặc
dù được chính phủ trả tiền, “đă
không ngần ngại lên tiếng chống lại chính
phủ khi [họ] đối mặt với một
sự bất công. " Một
trường hợp thú vị là thư trả lời
của một mufti Ottoman ở thế kỷ XVII cho
một thống đốc địa phương
ở Palestine, người muốn buộc những người
nhập cư ở thị trấn Lydd (ngày nay là Lod)
trở về làng của họ. The mufti’s fatwa (quan
điểm tôn giáo) đọc: Không
được phép buộc họ phải di cư
khỏi một thị trấn mà họ đă lấy
làm nhà, và nơi họ đă trở nên quen thuộc.
. . v́ người tin Chúa là chúa tể của linh
hồn ḿnh; anh ta có thể sống ở bất
kỳ quốc gia nào anh ta thấy phù hợp và ở
bất kỳ thị trấn nào anh ta chọn. Không
quốc gia hay cộng đồng tôn giáo nào được
phép quấy rối và buộc họ phải ra ngoài. Theo
Gerber, nguyên tắc Shariah ở đây là chủ nghĩa
cá nhân không thể nhầm lẫn: “Quyền của
nhà nước được mô tả trái ngược
với quyền của cá nhân, và quyền của nhà
nước không được coi là vượt
trội hơn”. Đó
là lư do tại sao, trong suốt các thế kỷ
Ottoman, khi quốc vương hoặc các thống đốc
địa phương dám vi phạm quyền của
thần dân của họ, đám đông sẽ
bắt đầu phản đối bằng cách hô
vang, "Chúng tôi muốn Shariah!" Họ chỉ
đơn giản là yêu cầu công lư. 5. NÉM ĐÁ, DÂY TRÓI VÀ XỬ TRẢM Hầu
hết những người phương Tây
đương đại khi nghe thấy bất cứ
điều ǵ tích cực về Shariah ngay lập
tức có xu hướng hỏi, "Nhưng Shariah không
phải là một hệ thống pháp luật rất tàn
bạo ra lệnh cho hành động đả kích,
chặt tay hoặc thậm chí ném đá tội
phạm sao?" Họ sẽ đúng khi đưa ra ư
kiến phản đối đó, bởi v́ hầu
hết những người Hồi giáo đương
thời tuyên bố thực hiện Shariah đều bám
vào các h́nh thức thời trung cổ của nó, bao
gồm các h́nh phạt thể xác thực sự tàn
bạo theo tiêu chuẩn hiện đại. Nhưng
vào thời Trung cổ, các tiêu chuẩn đă khác
đi nhiều và luật Hồi giáo trên thực
tế cung cấp “các nguyên tắc pháp lư tự do và
nhân đạo nhất có sẵn ở bất kỳ
đâu trên thế giới”, theo Noah Feldman, giáo sư
tại Trường Luật Harvard. Feldman cũng lưu
ư rằng các h́nh phạt thô bạo đối
với Shariah đ̣i hỏi các tiêu chuẩn chứng
minh rất cao và được thiết kế cho
một bối cảnh cụ thể: Trước
kỷ nguyên hiện đại, không xă hội nào có
cái mà ngày nay chúng ta gọi là sở cảnh sát phát
triển hoàn chỉnh, và trật tự hiến pháp
Hồi giáo cổ điển thường chỉ có
một số cảnh sát chịu trách nhiệm
thực thi các luật thông thường. Những h́nh
phạt nghiêm khắc và có thể nh́n thấy
được đóng vai tṛ là những lời
nhắc nhở nổi bật đối với công chúng
để tuân theo luật pháp. Quan trọng hơn,
nếu tỷ lệ bị bắt và bị trừng
phạt v́ hành vi sai trái thấp, v́ họ thường
ở trong một xă hội không có lực lượng
cảnh sát, th́ h́nh phạt phải được
đặt cao để tạo ra một cái ǵ đó
gần đúng với mức độ răn đe.
Các h́nh phạt về thể xác của shari’a rơ ràng
ban đầu được thiết kế cho một
thế giới có sự thực thi rất hạn
chế - giống như luật chung (Common Law)
của Anh trừng phạt mọi trọng tội
bằng cái chết. “Từ
quan điểm tiền hiện đại,” sử gia
Marshall Hodgson đồng t́nh với lư luận này,
Shariah thực sự “ôn ḥa”. Trong thời đại
mà tra tấn là thủ tục tiêu chuẩn để
đối phó với những kẻ t́nh nghi, luật
Hồi giáo thậm chí “có vẻ mềm mỏng
một cách nguy hiểm đối với tội
phạm”. Cũng
cần lưu ư rằng việc ban hành h́nh phạt
thể xác thay cho các án tù là giải pháp khả thi
duy nhất trong môi trường mà đạo Hồi
ra đời. Ở sa mạc Ả Rập, bỏ tù là
một thủ tục rất phi thực tế, gần
như không thể thực hiện được:
"Nó có thể nặng nề hơn đối
với những người áp dụng nó hơn là
những người phải chịu nó."
Ngày
nay, vấn đề là hầu hết những người
ủng hộ Shariah đương thời đều
bỏ qua những hoàn cảnh lịch sử này và
nhấn mạnh vào việc thực hiện theo nghĩa
đen mà không chú ư đến mục đích của
nó. Imam al-Shatibi vào thế kỷ XIV đă sắp
xếp các mục đích, hay “mục tiêu cao hơn,”
của Shariah, liệt kê chúng đơn giản là
sự bảo vệ năm giá trị cơ bản: cuộc
sống, tôn giáo, tài sản, thế hệ con cháu và
trí tuệ. Các nhà thần học hiện đại
như Fazlur Rahman (đă quá cố), học giả người
Pakistan về luật Hồi giáo, từ lâu đă
lập luận rằng người Hồi giáo ngày nay
cần phải cải cách Shariah bằng cách coi
những "mục tiêu cao hơn" này làm chuẩn
mực không thay đổi, chứ không phải là các
thực hành thực tế mà thông qua các mục tiêu này.
đă được nhận ra cách đây một thiên
niên kỷ. Các
vấn đề khác ở Shariah, chẳng hạn như
misogyny, xuất phát từ thực tế là luật
Hồi giáo đă kết hợp rất nhiều thái
độ, phong tục và truyền thống thời
Trung cổ trong các thế kỷ h́nh thành của nó.
Việc ném đá, không có cơ sở trong Kinh Qur’an,
có lẽ xuất phát từ đạo Do Thái. Trong các
chương sắp tới, chúng ta sẽ xem sự
cứng rắn của luật Hồi giáo hậu
Qur’anic này xảy ra như thế nào. 6. CÁC QUY TẮC THAM GIA Một
mối quan tâm phổ biến khác hiện nay ở phương
Tây về Hồi giáo, và đặc biệt là về
những người Hồi giáo có tư tưởng
Shariah, là chủ nghĩa khủng bố. Tuy nhiên, vào
thời Trung cổ, Shariah trên thực tế là một
bức tường thành chống lại cái mà ngày nay
chúng ta gọi là "khủng bố": mục tiêu
có chủ đích của những kẻ không ném bom
của đối phương. Các học giả
Hồi giáo đă nghiên cứu ra một lư thuyết
chi tiết về “chiến tranh chính nghĩa”, lư
thuyết này đă gây ra nhiều đau thuơng để
tôn vinh và bảo vệ cuộc sống của dân thường.
Bernard Lewis, nhà sử học lỗi lạc về Trung
Đông, lưu ư những điều sau: Các
chiến binh thánh chiến được lệnh không
được giết phụ nữ, trẻ em và người
già trừ khi họ tấn công trước, không
được tra tấn hoặc cắt xẻo các tù
nhân, đưa ra lời cảnh báo công bằng
về việc nối lại các hành vi thù địch
sau khi đ́nh chiến và tôn trọng các thỏa
thuận. Các nhà luật học và thần học
thời Trung cổ thảo luận về các quy
tắc của chiến tranh, bao gồm các câu hỏi
như loại vũ khí nào được phép và
loại vũ khí nào không. Thậm chí c̣n có một
số cuộc thảo luận trong các văn bản
thời trung cổ về tính hợp pháp của
chiến tranh tên lửa và hóa học, cuộc thảo
luận liên quan đến mangonels [tên lửa ném tên
lửa] và máy phóng, cuộc thảo luận khác
về mũi tên tẩm chất độc và đầu
độc nguồn cung cấp nước của đối
phương. . . . Một số luật gia cho phép,
một số hạn chế, một số không tán thành
việc sử dụng những vũ khí này. Lư do
đáng lo ngại đă nêu là thương vong bừa
băi mà chúng gây ra. Lewis
cho biết thêm: “Các văn bản cơ bản
của Hồi giáo không quy định khủng bố
và giết người ở bất cứ điểm
nào. “Không đâu. . . họ thậm chí c̣n xem xét
việc tàn sát ngẫu nhiên những người ngoài
cuộc không được giải quyết. " Các
học giả Hồi giáo đă rơ ràng phản đối
việc cố ư giết người không phải bom,
bởi v́ Qur’an đă ra lệnh: “Hăy chiến đấu
theo cách của Chúa chống lại những kẻ
chống lại bạn, nhưng đừng vượt
quá giới hạn”. Và Nhà tiên tri đă được
ghi nhận v́ đă ra lệnh cho quân đội
của ḿnh: "Không được giết người
già, trẻ sơ sinh, trẻ em hoặc phụ
nữ." Từ đó ra đời các quy tắc
chiến tranh của Hồi giáo, điều mà
những kẻ khủng bố Hồi giáo ngày nay đang
nỗ lực bỏ qua. Mối
quan tâm của người Hồi giáo thời trung
cổ đối với chiến tranh đạo đức
rơ ràng nhất khi trái ngược với việc
giết người bừa băi được thực
hiện bởi một số kẻ thù của người
Hồi giáo, chẳng hạn như quân xâm lược
Mông Cổ và quân Thập tự chinh. Khi quân Thập
tự chinh cướp phá Jerusalem vào năm 1099, họ
tàn sát người dân địa phương một
cách bừa băi. “Họ đă giết tất cả
những người Saracens và người Thổ Nhĩ
Kỳ mà họ t́m thấy,” một sử gia
đương thời viết. "Họ đă
giết tất cả mọi người dù là nam hay
nữ." Những hành động tàn bạo tương
tự tiếp tục diễn ra dưới thời các
quân Thập tự chinh sau này, chẳng hạn như
Richard the Lionheart, người đă ra lệnh rằng
khoảng 2.700 người Hồi giáo, bao gồm
cả phụ nữ và trẻ em, phải đưa
từng người một lên thanh kiếm tại Lâu
đài Acre. Đổi
lại, các lực lượng Hồi giáo do Saladin lănh
đạo (trong tiếng Ả Rập là Salahaddin,
“Sự công b́nh của tôn giáo”) không chỉ tha cho
những kẻ không đánh bom mà c̣n thả nhiều
tù nhân chiến tranh. Khi Saladin tái chiếm Jerusalem vào năm
1187, thành phố không hề hấn ǵ, và chỉ
những người "Franks", những người
theo đạo Thiên chúa từ châu Âu, bị trục
xuất, trong khi những người theo đạo Thiên
chúa phương Đông được phép ở
lại. Một khoản tiền chuộc khiêm tốn
đă được đánh giá, nhưng những người
không đủ khả năng được miễn.
Saladin thậm chí c̣n trả tiền chuộc một
số người Frank, như một sự bố thí
cá nhân của ḿnh. Những người theo đạo
Thiên chúa đă bị ấn tượng tích cực
bởi tính nhân đạo này đến nỗi
truyền thuyết đă nở rộ ở châu Âu
rằng Saladin đă được rửa tội theo
đạo Thiên chúa và được mệnh danh là
hiệp sĩ Thiên chúa giáo. Trên
thực tế, ông chỉ đơn giản là một
nhà cai trị Hồi giáo tuân theo Shariah. 7. THỊ TRƯỜNG TỰ DO KIỂU
ISLAMIC — VÀ CÁC KHOẢN ĐẦU TƯ CỦA NÓ Một
phước lành khác của Shariah là bảo vệ
quyền tài sản. Nếu một người cai
trị bị cám dỗ để chiếm đoạt
tài sản, anh ta đă bị chặn bởi
"sự thừa nhận của shari’a về tính tôn
nghiêm của tài sản tư nhân và sự nghiêm
cấm tương ứng của hành vi trộm
cắp." Để củng cố hơn nữa
việc bảo vệ luật pháp, các học giả
đă phát triển một phiên bản của học
thuyết pháp lư về quỹ tín thác. Điều này
cho phép sự truyền tải của cải qua
nhiều thế hệ thông qua việc thành lập
quỹ từ thiện, quỹ miễn nhiễm hợp
pháp khỏi sự can thiệp của chính phủ. Kết
quả là “một xă hội dân sự sôi nổi và
mạnh mẽ”, bao gồm các tổ chức từ
thiện, bệnh viện và trường học -
tất cả đều được hỗ trợ
bởi các tổ chức tư nhân dưới sự
bảo vệ của Shariah. Hồi
giáo không chỉ bảo đảm việc bảo
vệ của cải mà c̣n khuyến khích sự sáng
tạo của nó thông qua hoạt động kinh
tế. Kinh Qur’an thúc đẩy công việc và thương
mại và định nghĩa lợi nhuận thương
mại là “tiền thưởng của Chúa”.
Nhà tiên tri, bản thân là một thương gia,
được ghi nhận với những câu nói như:
"Ai kiếm được tiền th́ đẹp
ḷng Đức Chúa Trời." Ông cũng
được biết là đă từ chối các
cuộc gọi ấn định giá, lưu ư rằng
chỉ có Chúa mới điều hành thị trường.
“Muhammad,” như nhà sử học người Pháp
Maxime Rodinson đă nói một cách ngắn gọn, “Muhammad
không phải là một nhà xă hội chủ nghĩa”. Với
sự khuyến khích đó, trong những thế
kỷ đầu tiên của ḿnh, Islamdom đă tích
hợp các thương nhân Trung Đông vào “một
khu vực thương mại tự do rộng
lớn” và thiết lập “chủ nghĩa tư
bản tài chính và thương mại”. Các học
giả Hồi giáo đă phát triển một số
thực hành và kỹ thuật kinh tế đă sớm
thâm nhập vào châu Âu. Phương pháp tính lăi
suất mà không đi ngược lại lệnh
cấm của tôn giáo đối với hành vi cho vay
nặng lăi, muhkatara, đă sớm trở thành mohatra
trong tiếng Latinh. Thuật ngữ mudaraba trong tiếng
Ả Rập, dùng để chỉ mối quan hệ
hợp tác kinh doanh, rất có thể là nguồn
gốc của từ điển tiếng Ư, tiền thân
của “công ty trách nhiệm hữu hạn” hiện
đại. Hành
tŕnh của thuật ngữ sakk trong tiếng Ả
Rập, có nghĩa là "tài liệu viết" và dùng
để chỉ các loại giấy tờ mà các thương
nhân Hồi giáo thời Trung cổ sử dụng thay v́
tiền tệ, rơ ràng hơn: Đó là nguồn
gốc của từ “checque” trong tiếng Pháp và
từ “check” trong tiếng Anh. Đây
chỉ là vài ví dụ. Fernand Braudel, nhà sử học
vĩ đại người Pháp, nhận xét:
“Bất cứ thứ ǵ trong chủ nghĩa tư
bản phương Tây đều có nguồn gốc
du nhập,” chắc chắn đến từ
Hồi giáo. ” Không phải ngẫu nhiên mà
Maimonides, học giả Do Thái và triết gia vĩ
đại của Tây Ban Nha thế kỷ thứ mười
hai, phàn nàn về việc các thương nhân Do Thái
kinh doanh theo “cách thức Hồi giáo”. Mức
độ của “những ǵ phương Tây mắc
nợ đối với Hồi giáo” thường xuyên
được tranh luận giữa các nhà sử
học. Ví dụ, có một lư thuyết thú vị
về nguồn gốc Hồi giáo có thể có của
luật thông thường (common law) của Anh, rơ ràng
giống với Shariah ở bản chất “do
thẩm phán đưa ra” - khác với truyền
thống luật La Mă do nhà nước áp đặt
ở lục địa Châu Âu. Nhưng ngày nay có
thể dễ dàng truy xuất nguồn gốc xuất
khẩu rơ ràng từ Islamdom sang phương Tây
bằng các từ tiếng Anh có gốc từ
tiếng Ả Rập. Một danh sách ngắn sẽ
bao gồm các từ như: đại số, giả
kim, kiềm, almanac, hỗn hống, alembic, đô đốc,
hốc tường, mặt nạ, muslin, nadir, zenith,
thuế quan, đường, xi-rô, checkmate, đàn và
guitar. Và, tất nhiên, có các chữ số Ả
Rập. 8. MỘT TÔN GIÁO DỄ DÀNG VÀ CỞI
MỞ Phương
Tây đă chấp nhận Islamdom là có lư do. Từ
thế kỷ thứ tám đến thế kỷ
thứ mười ba, sau này là "khu vực giàu có
nhất, hùng mạnh nhất, sáng tạo nhất, khai
sáng nhất trên thế giới." Các nhà khoa
học Hồi giáo đă có những khám phá đột
phá trong các lĩnh vực vật lư, hóa học, sinh
học, y học, thiên văn học và quang học.
“Nếu đă có giải Nobel năm 1000,” một
sử gia người Mỹ lập luận, “họ
sẽ hầu như chỉ đến nhà thờ
Hồi giáo.” Các nhà thần học của Hồi giáo
đă dự đoán nhiều vấn đề
phức tạp mà các đối tác Cơ đốc
của họ sẽ giải quyết sau này. Các thành
phố Hồi giáo sạch sẽ và bóng bẩy hơn
nhiều so với các thành phố ở châu Âu. Điều
đó giải thích tại sao một nữ tu sĩ
ở thế kỷ thứ mười lại rất
cảm xúc với Cordoba, một thành phố ở Tây
Ban Nha do Hồi giáo cai trị, đến nỗi
vị nữ tu này gọi nó là “vật trang trí
của thế giới”. Sự
tự do mà Hồi giáo mang lại cho các dân tộc
ở Phương Đông, và cách nó kích thích cá nhân,
là yếu tố then chốt đối với sự hùng
vĩ này. Đây là “một trật tự xă hội
linh hoạt khác thường, mang đến cho bất
kỳ ai trở thành tín đồ Hồi giáo cơ
hội phát triển tài năng của ḿnh trên một
quy mô tương đối không bị g̣ bó bởi các
tiêu chuẩn tiền hiện đại”. Kết
quả của sự linh hoạt này là tốc độ
đô thị hóa nhanh chóng. Nhờ chủ nghĩa cá
nhân của ḿnh, Hồi giáo đă “mở đường
cho sự trỗi dậy của một thành phố
hiện đại dễ nhận biết, trong đó các
công dân đa dạng về sắc tộc, không liên
quan tương tác với nhau theo các quy tắc ứng
xử cá nhân và pháp lư được chấp
nhận.” Không có ǵ ngạc nhiên khi vào năm 800,
"Trung Đông có mười ba thành phố với dân
số hơn năm mươi ngh́n người, trong
khi châu Âu chỉ có một - Rome." Trước
thành công này, có cả sự ngưỡng mộ và
cay đắng từ châu Âu. Linh mục đạo thiên
chúa Paul Alvarus vào thế kỷ thứ chín đă lên
tiếng về vấn đề sau này khi ông viết,
với vẻ bực bội: Những
người theo đạo Cơ đốc bị mê
hoặc bởi văn hóa Hồi giáo đă sớm
được những người đồng tôn giáo
bảo thủ hơn của họ gọi là Mozarab —
một thuật ngữ có nghĩa đen là “người
muốn Ả Rập”. Có những lư do dễ
hiểu cho điều này. Thư viện ở Cordoba,
dưới thời trị v́ của Caliph al-Hakam II vào
thế kỷ thứ mười, được cho là
có 400.000 bản viết tay, trong khi thư viện
của Charles V của Pháp, “Charles the Wise”, sống
bốn thế kỷ sau, chỉ có 900 bản. . Một
điểm hấp dẫn khác của Hồi giáo đối
với những người theo đạo Thiên chúa
thời trung cổ là nó dường như là một
tôn giáo dễ tính hơn. “Điểm hấp dẫn
chính của Hồi giáo là nó thực tế; nó không
đ̣i hỏi những nỗ lực dường như
siêu phàm, ”nhà thần học Chính thống giáo Nicolas
Zernov lập luận: Phương
Đông Cơ đốc giáo vào đêm trước
cuộc chinh phục của người Hồi giáo
đă quên mất những giới hạn của
bản chất con người. Nhiều thành viên
của Giáo hội muốn bắt chước các thiên
thần; do đó các phong trào quần chúng hướng
tới đời sống vô dục của các tăng
ni; do cuộc di cư từ các thị trấn và làng
mạc vào sa mạc; các kỳ tích tự hành xác cho
thấy mức độ mà con người có thể
khuất phục thể xác của ḿnh theo lệnh
của tinh thần. Một số nhà khổ hạnh phương
Đông này chỉ ngủ trong tư thế đứng,
những người khác ngâm ḿnh trong xà lim tối
hoặc sống trên cột, hoặc chỉ ăn các
loại thảo mộc, và thậm chí không ăn quá
một lần một tuần. Hồi
giáo đă ngăn chặn tất cả những thái
quá này. Nó quét sạch nỗi sợ hăi t́nh dục quá
mức, loại bỏ chủ nghĩa khổ hạnh,
xua đuổi nỗi sợ hăi địa ngục cho
những người không đạt đến sự
hoàn hảo, dập tắt sự t́m hiểu thần
học. T́nh trạng “sợ quan hệ t́nh dục quá
mức” của những người theo đạo Cơ
đốc vẫn tiếp tục cho đến
thời hiện đại, trong khi đó, đạo
Hồi vẫn thân thiện với t́nh dục hơn
cho đến thời hiện đại. Ngay cả các
học giả bảo thủ hơn của Shariah cũng
đă viết về “quyền của phụ nữ
để có được khoái cảm t́nh
dục”. Thái độ đối với sự thân
mật cũng khác nhau rơ rệt ở chế độ
Hồi giáo tiền hiện đại và phương
Tây. Trong khi người phương Tây thời
tiền hiện đại coi hành vi t́nh dục như
một “chiến trường”, nơi nam giới
thể hiện quyền tối cao của ḿnh so
với nữ giới, th́ người Hồi giáo
lại coi đó là “một thú vui được chia
sẻ, dịu dàng”. Người Hồi giáo cũng
tin rằng thỏa măn t́nh dục “dẫn đến
một trật tự xă hội hài ḥa và một
nền văn minh hưng thịnh”. Những
tương phản giữa nền văn hóa Hồi giáo
và Cơ đốc giáo trong thời Trung cổ càng
trở nên nổi bật hơn khi người ta xem xét
t́nh h́nh đă thay đổi hoàn toàn như thế nào
kể từ đó. Ngày nay, chính các giáo sĩ Hồi
giáo cũng phàn nàn về sự say mê của tuổi
trẻ với nền văn hóa hấp dẫn của
phương Tây. Đó là đạo Hồi được
xem như một tôn giáo cực kỳ nghiêm khắc,
kỷ luật và thậm chí đôi khi tự hành
hạ bản thân. Và chính các xă hội Hồi giáo cũng
thường xuất hiện t́nh dục kỵ nhau. Ngày
nay, phương Tây tự do, dễ tính và giàu có. Và
rơ ràng là Islamdom không phải vậy. Nhưng
tại sao? Chuyện ǵ đă xảy ra? Nếu Hồi
giáo khai sáng Phương Đông một cách đáng
kể như vậy, th́ điều ǵ đă xảy
ra? Thiện Ư - Bolsa -
Phỏng dịch từ phần 4 quyển Islam Without
Extremes - Muslim Case For Liberty -Mustafa akyol.
|