1- Nguyên do thám hiểm.
Trong lịch sử của thế giới tây phuơng và
trong hai thế kỷ giữa các năm 1420 và 1620, người
châu Âu đă mạo hiểm, vượt biển để
đi t́m hiểu các miền đất xa lạ. Sự
khám phá của họ đă đưa đến
việc thuộc địa hóa và định cư
tại các vùng đất mới, đă mang lại cho
họ các sản phẩm mới, tài sản mới, cơ
hội mới, vấn đề mới và cách suy nghĩ
mới. Cũng do các công cuộc thám hiểm và khám phá
của người châu Âu này mà các quốc gia mới
được thành lập, chẳng hạn như
quốc gia Hoa Kỳ.
Các nhà thám hiểm với tên họ quen thuộc
với chúng ta như Vasco da Gama, Christopher Columbus,
Ferdinand Magellan... đă ra đi v́ các mục đích
nào, bằng các phương tiện nào và đă đạt
được các thành quả nào? Tại sao các công
cuộc thám hiểm và khám phá lại bắt đầu
do các quốc gia Tây Âu, mà không phải do các nước
đă có một nền văn minh tương đối
phát triển như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật
Bản tại châu Á, do các nước theo đạo
Hồi tại châu Phi và miền Trung Đông, do các
xứ Aztecs, Inca và Maya của miền Trung Mỹ?
Vào thời
kỳ đó, các miền đất kể trên đă là
các lănh thổ rộng lớn hơn, có các tŕnh độ
văn minh cao hơn các quốc gia Tây Âu. Các quốc gia như Trung Hoa đă có dân
số phát triển, có nền văn minh riêng với
khoa học, kỹ thuật và văn chương, họ
có cả các cuốn sách và bản đồ mô tả
về lănh thổ của họ.
Vào thời
kỳ Đen Tối (the Dark Ages), những người
Scandinavian đă tới được miền Bắc
Mỹ trước Christopher Columbus rồi trong thế kỷ 13, đă có những
nhà thám hiểm như Giovanni de Plano Carpini, Willen van
Rujsbroek và Marco Polo... Thời đại thám hiểm liên
quan tới thời kỳ Phục Hưng (the Renaissance)
theo đó con người bắt đầu t́m hiểu
các hiện tượng thiên nhiên, xét lại các thành
quả cũ đă đạt được với
sự trong sáng mới, cách khảo cứu và suy
luận mới...
Vào đầu thế kỷ 15, phương pháp thám
hiểm hàng hải bắt đầu được
tổ chức theo hệ thống, nhờ đó các
kỹ thuật đi biển được cải
tiến. Việc thám hiểm và khám phá được
các vua chúa và các nhà tài chính chủ trương,
khuyến khích. Họ hiểu rằng các con tàu biển
tốt hơn, cùng với các dụng dụ đo lường
chính xác hơn, các phương pháp vẽ bản đồ
và kỹ thuật đi biển mới... đă
khiến cho các hải tŕnh xa hơn, khó khăn hơn
được thực hiện.
Vào thời kỳ đó, người châu Âu đă
biết rằng có các quốc gia như Trung Hoa, Nhật
Bản, Ấn Độ..., việc t́m cách tới
được những quốc gia này sẽ mang lại
nhiều lợi ích nhờ thương mại. Các
quốc gia dẫn đầu trong việc thám hiểm và
khám phá là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp và Ḥa
Lan. Trí tưởng tượng phong phú của người
châu Âu, các nhu cầu đặc biệt của thời
kỳ đó đă khiến cho họ đi t́m hiểu
thế giới bên ngoài. Châu Âu của thời kỳ
Phục Hưng rất cần các kim loại quư và các
thứ hương liệu (spices).
Vào thời Trung Cổ (the Middle Ages), các thương gia
của châu Âu đă trao đổi để có vàng,
lụa và các loại hương liệu của
miền Viễn Đông nhưng sang thế kỷ 15, các
chính quyền của châu Âu đă tham gia vào việc khám
phá, không phải do ḷng tham mà do nhu cầu. Châu Âu vào
thời kỳ này đă thiếu kim loại quư để
đúc tiền. Các mỏ vàng tại Ái Nhĩ Lan
(Ireland) đă cạn, các mỏ bạc tại Đức
dù cho khá phong phú cũng không đáp ứng được
sức cầu. Không có tiền đúc ra, sẽ không có
sự trao đổi tài chính và nền thương
mại không thể phát triển. Các khối vàng
bạc để đúc tiền không những tượng
trưng cho sự giàu có mà c̣n là một phương
tiện để làm tăng thêm sự giàu có.
Vào thời kỳ Phục Hưng, thực phẩm
chỉ có thể lưu trữ được nhờ
muối rồi sau đó, nhờ cách ướp bằng
các hương liệu v́ thời bấy giờ chưa
có kỹ thuật đông lạnh và các phương
tiện vận chuyển thực phẩm c̣n thô sơ.
Gia vị như vậy rất cần thiết ngoài
lợi ích giúp cho đồ ăn có các hương
vị đặc biệt.
Nhu cầu thứ ba của việc thám hiểm và khám
phá là niềm tin tôn giáo. Các người sùng đạo
đă muốn làm vừa ḷng Thiên Chúa bằng cách
giảng đạo và cải biến những kẻ
dị giáo theo họ. Dân chúng và chính quyền tây phương
vào thời kỳ này đă tin tưởng rằng
nhiệm vụ của họ là làm cho các người
khác tôn giáo hay vô tôn giáo có cùng niềm tin như chính
họ. Nhu cầu này c̣n có một lợi ích thực
tế khác là những thổ dân theo đạo mới
đă trở nên dễ bảo hơn, các tù trưởng
cải đạo đă cộng tác và phục vụ chân
thành hơn cho các người châu Âu.
Cũng v́ thế, mặc dù biết rằng công
cuộc thám hiểm thành công hay thất bại
được căn cứ vào số vàng bạc và hương
liệu mang về, Christopher Columbus c̣n ghi thêm vào sổ
về miền đất mới của châu Mỹ
một cách thành thực rằng: "Tôi cho rằng
điều ước mong chính của nhà Vua của chúng
tôi là cải biến dân tộc này theo niềm tin
của Chúa". Người biện hộ cho các
hoạt động thám hiểm của nước Anh là
Richard Hakluyt đă phát biểu rằng việc mở
rộng lănh thổ của Nữ Hoàng Anh sẽ mang
lại lợi nhuận, quyền lực, danh dự và
cả việc làm sáng danh Chúa bằng cách ươm
trồng tôn giáo vào các kẻ dị giáo hay không có tín
ngưỡng.
Vào thời kỳ Phục Hưng, việc quan tâm
tới thám hiểm và khám phá không phải lư do
kiến thức (knowledge). Các người châu Âu chỉ
muốn khai thác các mỏ kim loại quư rồi sau đó,
lo bảo vệ các con đường thương
mại đă được t́m thấy. Cũng vào lúc
này, các người châu Âu biết rằng nhờ các
con tàu biển, các thủy thủ gan dạ có
thể tới được bất cứ miền
đất nào có bờ biển rồi quay về xứ
an toàn. Đây là điều quan trọng nhất.
Các người Norse (Norsemen) đă vượt qua vùng
biển bắc Đại Tây Dương bằng các con
thuyền có lẽ được trang bị bằng
một cánh buồm và họ có thể đi khá xa. Người
Scandinavian đă t́m cách vượt biển, di cư
tới miền đất mới v́ quê hương
của họ chật hẹp và đông người. Trái
với hai giống người kể trên, các nhà thám
hiểm châu Âu thuộc thế kỷ 15 lại có
một quan niệm khác: họ muốn trở về quê
hương, mang về các tài sản kiếm được.
2- Phương tiện thám hiểm.
Vào thế kỷ 15, đă có những người đi
biển tại châu Á dùng thuyền có buồm, vượt
qua Ấn Độ Dương để đi từ
Ấn Độ tới đảo Madagascar và ngược
lại, nhưng những phương tiện hải hành
này phải nhờ vào các trận gió, các gịng nước
biển thuận lợi. Trên các vùng biển quanh Ấn
Độ, tại Hồng Hải (the Red Sea) và tại phía
đông châu Phi, các con thuyền Ả Rập (the Arab
dhow) đă bơi xuôi ngược, nhưng loại
thuyền này không thích hợp với việc vượt
biển khám phá và t́m hiểu, v́ mạn thuyền
được khâu lại bằng thứ sợi dây
dừa, nên không vững chắc như loại tàu biển
có đóng đinh. Loại buồm một cánh h́nh tam giác
của người Ả Rập đă không hơn
được thứ buồm h́nh vuông của châu Âu.
Tàu biển của người Tây phương vào
thế kỷ 15 là sự phối hợp của hai
kỹ thuật thuyền có buồm vuông của miền
Bắc Hải (the North Sea) với loại thuyền chèo
(oared galley) của vùng Địa Trung Hải. Chính
việc thương mại giữa hai miền bắc và
nam của châu Âu đă khiến cho hai loại thuyền
kể trên được phối hợp để
cải tiến thành một thứ tàu biển đi
xa được. Tàu biển của châu Âu vào thời
kỳ này dùng buồm, không dùng sức chèo, lại
được lắp các khẩu súng tại hai bên sườn
nhờ vậy hỏa lực rất mạnh và hữu
hiệu khi tác chiến.
Qua nhiều thế kỷ đi biển, các quốc gia
châu Âu đă có kinh nghiệm tại vùng biển English
Channel, tại các vùng nước băng tuyết
giữa Greenland và Scandinavia. Các thủy thủ là
những người không có học vấn, không quan tâm
về tôn giáo nhưng có truyền thống tận
tụy, chịu đựng được gian khổ,
tuy thế tỉ lệ thủy thủ trở về nhà
sau các chuyến hải hành là 50 phần trăm v́ các
thủy thủ thường mắc bệnh hoại
huyết và các bệnh thiếu dinh dưỡng, v́
gặp băo táp và mắc cạn tại các vùng biển
xa lạ, v́ gặp thổ dân ăn thịt người
và các bất trắc khác. Như vậy tại sao
lại có những người t́nh nguyện làm
việc trên các con tàu viễn du?
Không có tài liệu nào cắt nghĩa các động
lực theo đó có các thủy thủ t́nh nguyện, nên
người ta chỉ có thể phỏng đoán có
lẽ do lương bổng trả cao hơn tại các
cuộc mạo hiểm, bởi v́ các chuyến vượt
biển đi thám hiểm được tài trợ
bởi ngân quỹ của nhà vua hay do tiền vốn
đóng góp của một số nhà buôn giàu có. Cũng
vào đầu thế kỷ 15, tuổi thọ của người
dân vào khoảng 30 năm và cuộc sống trên đất
liền cũng khó khăn và bất chắc, số nông
dân và thương nhân bị chết v́ bệnh
dịch nhiều như số thủy thủ chết v́
bệnh hoại huyết. Khi tàu đă ra khơi,
thuyền trưởng thường dùng tới nhiều
thủ đoạn đối với thủy thủ
đoàn, thường là các lời tán dương, hăm
dọa, lường gạt, các khoảng cách giả, các
bản đồ bỏ bớt những hải đảo
mà tàu biển có thể ghé vào.
Theo các sổ nhật kư ghi chép trên các con tàu thám
hiểm, các lời than van của thủy thủ không
phải là về các hiểm nguy hay cực nhọc trên
tàu, mà là sự nhàm chán của chuyến đi xa và
sự ít cơ may trở về nhà. C̣n đối
với thuyền trưởng, một trong các nguyên do thúc
đẩy họ đi thám hiểm là hy vọng
kiếm được nhiều tài sản, thế nhưng
không một thuyền trưởng nào qua đời
trong cảnh giàu sang, kể cả Christopher Columbus.
Chỉ có các nhà chinh phục (conquistador) cai trị
tại Ấn Độ và tại các xứ Mỹ Châu
của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới giàu sang cho
đến chết.
Cho nên một trong các động lực của các
thuyền trưởng là sự vinh quang cá nhân. Họ
thích nổi danh v́ gan dạ, v́ khôn ngoan và tài giỏi.
Tại Mễ Tây Cơ, Hernando Cortes đă bắt chước
các hành động oai hùng của người La Mă. Ngoài
ra, tại châu Âu vào đầu thế kỷ 15, con người
đă có một phần nào tự do hành động, không
bị trói buộc như tại xă hội Trung Hoa, nơi
có gia đ́nh kiềm chế, hay tại Ấn Độ
nặng về giai cấp xă hội. Tôn giáo của châu
Âu là Thiên Chúa Giáo, vừa mang tính bành trướng,
vừa có tính quân sự (militant). Trái với đạo
Hồi chủ trương một cuộc sống
tốt đẹp sau khi đă chết, đạo Thiên
Chúa nhấn mạnh về hạnh phúc nơi dương
thế và người theo đạo Thiên Chúa có tính
tự tôn trong hành động.
Vào thế kỷ 14, các nền chính trị và kinh
tế đă sống lại tại nước Ư. Dân chúng
thành phố gia tăng đă khiến sinh ra các nhu
cầu thực tế trong đó có nhu cầu Giáo
Dục phổ thông, ngoài nhiều nhu cầu thuộc các
phạm vi khác như Văn Thơ và Triết Học,
Kiến Trúc và Y Học. Nước Ư vào thời
bấy giờ gồm nhiều xứ tự trị nên
mỗi khi có xứ nào bị chiến tranh tàn phá th́ các
xứ khác vẫn phát triển và do người dân Ư dùng
tới loại lính đánh thuê nên đời sống
tại các thành thị của họ ít bị ảnh hưởng.
Chính v́ thế, nền văn hóa cổ điển
đă được phục hưng, đại
diện chính là tác phẩm "Quân Vương" (the
Prince) của Machiavelli và các công tŕnh điêu khắc
của Michelangelo vào thế kỷ 16. Ngoài ra các học
giả người Ư c̣n nổi tiếng về các
bộ môn Toán Học, Thiên Văn và Địa Dư.
Đồng thời với sự phát triển tại nước
Ư, các nước tại phía tây của châu Âu cũng
có những nét đặc thù: nền thương
mại trở nên phức tạp hơn với ngành tài
chính được chính quyền quan tâm tại các nước
Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các xứ Đức
Phổ. Riêng hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha đă đạt được các tiến bộ
đáng kể về phép vẽ bản đồ và
kỹ thuật đi biển. Những căn bản này
rất quan trọng đối với các nhà thám
hiểm v́ được rút ra từ kiến thức
cổ điển của nước Ư cộng với các
kinh nghiệm của các thủy thủ cao tay nghề,
với các nguyên tắc địa dư, toán pháp
của các nhà toán học người Ả Rập và
với sự học hỏi do các trao đổi thương
mại tại các xứ Hồi Giáo.
V́ vậy không đáng ngạc nhiên khi thấy nước
Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm bờ
biển phía tây của châu Phi vào đầu thế
kỷ 15 rồi sau đó nước Tây Ban Nha cũng
theo đuổi chính sách khám phá. Hai quốc gia này
nằm trên bán đảo Iberian rất thuận tiện
cho việc ra biển, lại quen thuộc với
loại tàu biển của hai miền biển Đại
Tây Dương và Địa Trung Hải. Các tàu
buồm ra khơi từ hai nước Bồ Đào Nha
và Tây Ban Nha đă sớm biết lợi dụng các
luồng gió mùa, mùa xuân tới đầu mùa hè, gió
thổi theo hướng tây nam hướng ra Đại
Tây Dương, rồi đổi hướng thổi,
đưa các con tàu buồm trở về bến vào mùa
thu.
Vào thời kỳ đầu của giai đoạn thám
hiểm, hai quốc gia Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha
đă dấu kín các điều khám phá. Các khám phá
của Vasco da Gama, của Ferdinand Magellan hay của
Sebastian del Cano đă không được phổ
biến, c̣n nhật kư của Christopher Columbus tuy c̣n
được lưu lại nhưng chỉ là một
bản tóm tắt do một người khác sao chép.
Sự kín đáo này một phần cũng do các
thuyền trưởng là những người thực
tế, không quen với việc mô tả, ghi chép. Họ
cũng không muốn cung cấp các điều khám phá
cho ai ngoài các bậc vua chúa bảo trợ họ. Các chính
quyền Tây Âu th́ muốn giữ độc quyền các
nguồn lợi khai thác tại các miền đất
mới nên càng khuyến khích sự bảo mật. Các
chi tiết về khám phá v́ thế thường
được ghi chép do các nhà kư sự (chroniclers) hay các
nhà du lịch tài tử và những người này thường
căn cứ vào các lư thuyết cổ điển, các
điều ước đoán thiên văn cũng như
vào các kinh nghiệm thu lượm được.
Trong khi hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang
theo đuổi các chương tŕnh thám hiểm và
dấu kín các khám phá, th́ tại hai hải cảng
Lisbon và Seville, các con tàu biển trở về sau các
chuyến hải hành đă mang về nào hương
liệu, ngà voi, nào phẩm nhuộm... và cả các người
nô lệ. Các thương gia ngoại quốc buôn bán
tại các hải cảng kể trên thường
được nghe kể về các chuyến đi.
Họ ghi chép các tin tức mới lạ, hối lộ
để sao chép các bản đồ... rồi chính
quyền của các nước quanh vùng đă phải
quan tâm tới cảnh giàu sang mới, quyền lực
mới. Đầu tiên là nước Anh, tới nước
Pháp rồi tới cuối thể kỷ 16 có nước
Ḥa Lan cũng tham gia vào danh sách tranh đua khiến cho
việc thám hiểm trở nên một phong trào của
châu Âu.
Trong 2 thế kỷ với một số thủy thủ
gan dạ, vài quốc gia của châu Âu đă đi vào
các vùng biển xa lạ, bắt cóc một số
thổ dân rồi dần dần lập nên các khu
vực chiếm đóng tại những địa phương
đă thám hiểm. Thành công của họ là do kỹ
thuật, do tâm lư muốn xâm chiếm đất đai
và chế ngự các dân tộc khác. Sự đô
hộ của người châu Âu đă gặp ít
chống đối tại các bộ lạc kém văn
minh như bộ lạc Arawark của miền Tây Ấn,
hay bộ lạc Tupinamba sống tại xứ Brazil. Người
da đỏ chuyên săn bắn sinh sống tại
Bắc Mỹ, tại vùng đất giữa Ngũ
Hồ và các tiểu bang Carolina, đă lập được
hệ thống chính quyền tương đối cao nên
đă kháng cự lại số người da trắng
di cư tới. Nhưng khuyết điểm của
họ là v́ họ tin tưởng vào các thần linh cư
ngụ tại mỗi nơi, như các tảng đá, cây
cao, thú vật... cũng v́ thế họ đă thỏa
hiệp với những kẻ xâm lăng và đành
sống lùi xa nơi khai phá của người da
trắng.
Tại miền Trung Mỹ, giống người Maya
của các miền Yucatan và Guatemala đă biết
trồng ngũ cốc, sống trong các thành phố và
duy tŕ được một thứ tổ chức chính
quyền liên bang đơn giản. Họ có văn hóa,
biết dùng các số đếm kể cả số không.
Người Tây Ban Nha khi xâm lăng các vùng đất này
đă gặp may mắn nhờ người Maya mới
bị suy yếu v́ nội chiến và vũ khí của
họ không tinh sảo bằng thứ của người
châu Âu. Hai thổ dân văn minh nhất của châu
Mỹ là người Aztecs thuộc miền Trung Mỹ và
người Inca của miền Peru, cũng phải đầu
hàng trước súng đạn của người Tây
Ban Nha, rồi do truyền thống vâng lời và kỷ
luật, hai sắc dân kể trên đành tuân phục các
kẻ xâm lăng.
Tại châu Á, các người châu Âu đă tiếp xúc
với người Trung Hoa dưới triều Minh vào
thế kỷ 15. Đây là xứ sở với văn hóa
và nghệ thuật cao hơn thứ của châu Âu, nhưng
v́ người Trung Hoa đă tự măn, một phần
v́ tôn giáo, phần khác v́ bị vây quanh bởi một
hệ thống thư lại khép kín và tham nhũng,
họ đă không muốn tiếp xúc với các dân
tộc khác. Vị giáo sĩ Ḍng Tên người Ư tên
là Matteo Ricci tới Trung Hoa năm 1582 và đă sống
tại đó trong 28 năm cho tới khi chết, đă
nói rằng người Trung Hoa không có ư niệm về
thế giới bên ngoài. Trong khi tại châu Âu, các
tiến bộ về Khoa Học và Kỹ Thuật đang
phát triển th́ tại Trung Hoa, các bộ môn kể trên
không được giới trí thức quan tâm, nhất
là về Toán Học và Y Khoa.
Ngoài Trung Hoa, Nhật Bản cũng là một quốc
gia có một nền văn hóa rất rực rỡ,
đặc biệt với hai ngành Kiến Trúc và
Hội Họa. Cho tới thế kỷ 16, nước
Nhật Bản đă ở vào t́nh trạng vô chính
phủ trong ba thế kỷ và cũng giống như nước
Trung Hoa, người Nhật Bản đóng cửa
với thế giới bên ngoài. Sự cấm đoán
đă dẫn tới các đạo luật năm 1635
kết tội tử h́nh những người đi ra
khỏi xứ.
Như vậy trong số các dân tộc văn minh vào
đầu thế kỷ 15, người châu Âu đă có
được các tiến bộ Khoa Học, Kỹ
Thuật, rồi nhờ căn bản Kỹ Thuật,
họ đă theo đuổi các chương tŕnh thám
hiểm và khám phá các miền đất mới, nơi
có các thổ dân hoặc quá sơ khai hay không được
vơ trang, hoặc bị chia rẽ nội bộ hay đóng
cửa, làm ngơ trước các kẻ xâm lăng.
Trong thời đại khám phá (1420-1620), các nhà thám
hiểm người châu Âu đă vượt biển, t́m
hiểu những điều chưa biết, họ đă
tin tưởng rất ít vào lư thuyết, không ỷ
lại vào sự yểm trợ của chính quyền
tại quê nhà, họ đă dùng tới kỹ năng
của riêng họ cùng với ḷng cam đảm và
khả năng ứng biến để chinh phục các
dân tộc khác và các miền đất mới.
3- Các thuyền trưởng của Hoàng Tử
Henry.
|
Bản đồ Bắc Mỹ từ năm
1566 có ghi các ḍng chữ của Ư, Terra In Cognita và
Mare In Cognito
|
Vào thời Trung Cổ, các người châu Âu
tin rằng thế giới gồm 4 lục địa là
châu Âu, châu Phi, châu Á và một vùng đất
được hiểu biết lờ mờ, nằm
tại phía nam và được gọi bằng tên Terra
In Cognita. Các bản đồ của thời kỳ này
đă mô tả phần đất nhiều hơn
phần biển. Người ta chưa biết tới Thái
B́nh Dương. Đại Tây Dương được
vẽ như một con sông nhỏ và vùng đất
Terra Incognita đă nằm ở phía nam khiến cho
Ấn Độ Dương chỉ là một biển
nhỏ nằm trong đất liền.
Sự sai nhầm trong cách mô tả này một phần
do tŕnh độ hiểu biết của các nhà vẽ
bản đồ, một phần cũng do niềm tin tôn
giáo. Do truyền thống của đạo Thiên Chúa, thành
phố Jerusalem được coi là trung tâm của
thế giới, là tâm của thứ bánh xe tṛn với
4 lục địa ở chung quanh. Các bản đồ
vẽ thế giới của Ptolemy, một nhà thiên văn
và địa dư sống vào thế kỷ thứ hai
sau Công Nguyên tại xứ Ai Cập thuộc Hy Lạp,
c̣n chính xác hơn nhưng phần lớn loại
bản đồ đó đă bị thất lạc
trong thời kỳ Đen Tối (the Dark Ages).
Cho tới thế kỷ 15, sự hiểu biết về
châu Á và châu Phi của người châu Âu rất mơ
hồ. Truyền thuyết kể rằng kho tàng của
Vua Salomon được đặt tại châu Phi, c̣n
tại châu Á có ṭa nhà Cathay đầy vàng bạc.
Nhiều người c̣n tin tưởng rằng tại
châu Phi có một gịng sông đổ vào một vùng
biển nhiệt đới sôi sùng sục, tại nơi
này không ai tới được và sống được.
Ngoài ra, tại các miền đất xa lạ đó, c̣n
rải rác các kho tàng canh giữ bởi các con rồng và
bay lượn ở trên là loài chim không có chân,
suốt đời sống trên không trung. Cũng có
chuyện kể rằng có các con cừu lớn bằng
con ḅ, các người khổng lồ nhào ra biển,
nắm lấy các tàu biển chỉ bằng một tay,
có loại đàn bà mắt bằng ngọc quư,
giết người lạ bằng một liếc
mắt, lại có thứ người với bàn chân
rất to, có thể dùng để che nắng...
Từ thế kỷ 12 c̣n lưu truyền câu chuyện
một nhà vua tên là Prester John, rất giàu tài sản và
lắm quyền lực, đang cư ngụ đâu
đó tại châu Á rồi sau này chuyển qua châu Phi.
Người ta đă hy vọng vào thế kỷ 15
rằng nếu một người châu Âu nào tiếp xúc
được với Vua Prester John này, th́ có thể
cải đạo cho ông ta và như vậy ảnh hưởng
Thiên Chúa Giáo sẽ được phổ biến
rộng lớn. Châu Á và châu Phi cũng là hai miền
đất tuyệt vời theo câu chuyện của Sir
John Mandeville cũng như của các nhà kể chuyện
thời Trung Cổ. Sở dĩ những chuyện hoang
đường, truyền thuyết này lan rộng trong dân
chúng v́ người châu Âu thời đó không kiểm
chứng lại bằng cách quan sát.
Sang thế kỷ 15, các người châu Âu hoàn toàn không
biết rơ về châu Á và châu Phi, dù cho đă có
một số nhà buôn tới được Ấn Độ.
Mặc dù có các dự tính, người châu Âu không
thể tiến sâu vào châu Á xa hơn xứ Palestine và
Syria v́ họ bị ngăn chặn bời người
Ba Tư (Persian), rồi bởi các nhà cai trị người
Ả Rập.
Cho tới năm 1250, khi đế quốc Mông Cổ
trải dài từ Trung Hoa tới miền nam của nước
Nga, các người tây phương mới có cơ
hội vượt qua các trở ngại, lọt vào châu
Á. Người đầu tiên làm công việc này là
Marco Polo, một nhà buôn người miền Venice, đă
tới được nước Trung Hoa và sống dưới
triều đại của Đại Hăn Hốt Tất
Liệt (Kublai Khan) vào hậu bán thế kỷ 13. Các
chuyện kể về Trung Hoa của Marco Polo đă ám
ảnh người châu Âu trong nhiều thập niên,
rồi tới giữa thế kỷ 14, các chuyến
đi về châu Á lại bị ngăn chặn bởi
chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman.
|
Hoàng Tử Henry
|
Giống như châu Á, châu Phi cũng bao trùm các
bí ẩn dù cho người tây phương đă mang
về vàng bạc và nô lệ từ các hải cảng
Bắc Phi. Sau khi đă phục hồi từ các tàn phá
bởi nạn dịch "Tử Thần Đen" (the
Black Death), châu Âu được cải tiến về
kinh tế và người châu Âu đă không vừa ḷng
với các giới hạn chật hẹp, họ
muốn t́m kiếm các miền đất mới ở
phía đông và phía nam, t́m kiếm các nguồn thương
mại mới. Nhu cầu của họ là các kim
loại quư. Họ lại muốn nới rộng
phần biển đánh cá và muốn cải biến
những kẻ xa lạ sang đạo Thiên Chúa. Chương
tŕnh thám hiểm để khám phá ra những điều
chưa biết, t́m ra những vật chất mới
đă được một nhân vật bảo trợ,
đó là Hoàng Tử Henry, nhà hàng hải, người
con thứ ba của Vua John I nước Bồ Đào
Nha.
Hoàng Tử Henry có vóc người cao lớn, lực lưỡng,
với mớ tóc vàng do di truyền của mẹ là người
gốc Anh. Năm 21 tuổi, vị hoàng tử này đă
tham dự trận chiến chiếm thành phố Ceuta
tại phía bắc của xứ Morocco, đó là năm
1415. Tại Ceuta, Hoàng Tử Henry đă gặp các thương
nhân, đă nghe nói tới các con đường chở
vàng bạc qua sa mạc Sahara. Việc chinh phục
xứ Morocco có nhiều đồi núi và sa mạc đă
ở ngoài tầm tay của một quốc gia nhỏ bé
như Bồ Đào Nha. Nhưng nước Bồ
lại ở vào một vị trí rất thuận
tiện về đường biển, dễ dàng ra khơi
rồi trở về an toàn. V́ vậy Hoàng Tử Henry
đă đặt ra hai mục tiêu: t́m ra con đường
để có vàng bạc, ngà voi, hương liệu và
nô lệ, và sau đó là một kế hoạch tiếp
xúc với Vua Giáo Sĩ Prester John để thanh toán các
người Hồi Giáo tại Bắc Phi và tại
miền Đất Thánh.
Việc thám hiểm bờ biển phía tây của châu
Phi không gặp khó khăn v́ các thủy thủ Bồ
đă quen với băo táp quanh vùng, nhưng trở
ngại chính là mặt tâm lư. Người thời đó
tin tưởng rằng không một ai có thể sống
gần Xích Đạo, nơi mặt trời chiếu
thẳng từ trên đỉnh đầu xuống và
qua vùng đó, nước biển đang sôi sẽ tiêu
hủy những người nào chưa đổi màu da
thành đen. Cũng v́ thế mà hải cảng nằm
tại mạn tây bắc châu Phi, ở vĩ độ
29, được đặt tên là Cap Nun. Theo các nhà
thuyết giảng tín ngưỡng th́ phía sau hải
cảng này, chỉ có các loài yêu quái sinh sống, lan tràn
cả trên mặt đất miền Terra Incognita.
Mặc cho các dị đoan kể trên, chương tŕnh
mạo hiểm của Hoàng Tử Henry vẫn được
tiến hành với các căn cứ ban đầu đặt
tại các ḥn đảo Madeiras, Canaries và Azores.
Những nơi này được dùng để
tiếp tế lương thực cho các con tàu viễn
du và là nơi tạm trú cho các thủy thủ gặp
nạn trên biển, do tàu đắm, do tàu trôi
dạt...
Những lo lắng, các điều dị đoan về
bờ biển châu Phi tan biến dần khi các thủy
thủ Bồ Đào Nha thăm ḍ các vùng biển, các
cửa sông... Cape Bojador nằm cách Cape Nun 350 dặm,
được khám phá năm 1434. Tới năm 1441, con
tàu Bồ từ Rio de Ouro đă mang về xứ ngoài tài
sản, hương liệu, c̣n có rất nhiều nô
lệ, mở đầu lối buôn người vô nhân
đạo. Năm 1445 đánh dấu việc vượt
qua Cape Blanco, một nơi có bờ biển cát trắng
và Cape Verde, nơi bờ biển xanh tươi mà ngày
nay được gọi là Dakar. Khi Dinis Dias vượt
qua mũi đất Verde này, ông ta thấy bờ
biển của châu Phi quay về hướng đông và
như vậy, lục địa này có thể cong tṛn
ở mạn nam.
Việc khám phá đă mang về các mối lợi cho nước
Bồ Đào Nha nên các công cuộc thám hiểm sau
đó đă không phải chỉ do chính quyền Bồ
chủ trương mà c̣n được sự giúp
đỡ của các nhóm tài chính tư. Kết quả
của những lần viễn du đều được
giữ kín.
4- Nhà thám hiểm Vasco
da Gama.
Năm 1460, Hoàng Tử Henry qua đời. Sự kiện
này đă làm tiêu tan động lực thúc đẩy
các nhà thám hiểm Bồ. Nhưng việc t́m hiểu các
miền đất mới đă không ngừng lại.
Đường Xích Đạo được Lopo
Goncalves băng qua vào năm 1473 mà không một thủy
thủ nào bị cháy thành than! Các thám hiểm vẫn
tiếp tục nhưng số lượng vàng bạc
mang về xứ không được nhiều như trước,
người thời đó đành hy vọng ở các hương
liệu. Câu hỏi đặt ra cho họ là làm sao
tới được Ấn Độ và muốn
vậy, châu Phi phải là một lục địa tṛn
trong khi bờ biển của lục địa này
vẫn tiếp tục trải dài hướng về phía
nam.
Sau Bồ Đào Nha, nước Tây Ban Nha bắt đầu
chiếm được một số hải cảng trên
các miền bờ biển châu Phi. Đă xẩy ra
một số tranh chấp giữa hai nước lân bang
này. Để dành riêng châu Phi cho ḿnh và giải
quyết mọi tranh chấp, nước Bồ đă trông
cậy vào vị Giáo Hoàng. Trong nhiều thế kỷ,
giáo hội Thiên Chúa đă từng là trọng tài
của các quốc gia theo Thiên Chúa giáo, nhưng ảnh
hưởng của Giáo Hoàng đă bị kém dần.
Tuy thế, từ năm 1455, nước Bồ Đào
Nha đă nhận được một loạt các công
bố của Giáo Hoàng cho họ tất cả các
hải đảo và miền đất phía nam Cape
Bojador.
Năm 1478, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella của các vương
quốc Aragon và Castile, đă xin Giáo Hoàng đặc
quyền buôn bán với xứ Guinea và đă bị
từ chối trong khi tàu buôn Tây Ban Nha vẫn tiếp
tục đáp vào vịnh Guinea để t́m bắt nô
lệ. Tại bến cảng Seville, các con tàu mang
về dân nô lệ da đen là những h́nh ảnh quen
thuộc, chứng tỏ các hoạt động thám
hiểm của người Tây Ban Nha tới các miền
đất của châu Phi.
|
Diego Căo
|
Sau đó, nước Anh cũng xin phép Giáo Hoàng
được quyền tới châu Phi và buôn bán. Trước
những cạnh tranh của các quốc gia khác nhau, Vua
Bồ Đào Nha John II bèn ra lệnh cho Diego Căo thực
hiện một loạt các thám hiểm để t́m
đường đi tới Ấn Độ. Các tàu
viễn du của Diego Căo được cung cấp các
cột mốc bằng đá, có ghi rơ bằng tiếng
La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Ả Rập để
đánh dấu những nơi t́m ra và nhận chủ
quyền về cho nước Bồ Đào Nha. Diego Căo
đă đóng một cột đá tại cửa sông
Congo vào năm 1483 và một cột khác tại Cape Cross,
22 độ phía nam của Xích Đạo. Nhà thám
hiểm Cao đă đi dọc bờ biển được
1,500 dặm, từ Cape St. Catherine tới Cape Cross nhưng
lục địa châu Phi vẫn tiếp tục trải
dài vô tận về phía nam.
Năm 1487, Vua John lại phái Bartolomeu Dias với ba tàu
biển, chủ đích đi ṿng lục địa châu
Phi và nếu có thể th́ bắt liên lạc với Vua
Giáo Sĩ Prester John. Kết quả của các lần
đi thám hiểm của Dias vẫn được
giữ kín như trước kia và sau này, người
ta được biết rằng Bartolomeu Dias đă
tới được địa điểm mà ngày nay
là Luderitz, 520 dặm về phía tây bắc của Mũi
Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Một trận băo đă
thổi con tàu của Dias ṿng qua Mũi Hảo Vọng và
khi cơn gió dịu đi, Dias đă t́m nơi trú
ẩn trong vịnh Mossel rồi sau đó, dương
buồm tới địa điểm có tên hiện nay
là Port Alfred. Trên đường về, nhà thám hiểm
đă gọi mũi đất nhô ra biển nhiều
nhất của phần phía nam của châu Phi là Mũi
Phong Ba (Cape of Storms) và về sau, Vua John đă đổi
tên là Mũi Hảo Vọng, với hy vọng ở tương
lại tốt đẹp.
Tới lúc này, Xích Đạo đă được các
tàu biển Bồ Đào Nha vượt qua nhiều
lần và không một thủy thủ nào bị đốt
cháy thành than. Các truyền thuyết cổ về
những hiểm nguy đă bị bác bỏ và đă có
tàu biển ṿng qua được mỏm cực nam
của châu Phi. Người Tây phương khi bước
lên bờ, thám hiểm các miền đất mới,
đă gặp các loại thổ dân khác nhau. Hỏa
lực, gươm giáo và áo giáp của họ đă
cho phép họ chiếm đoạt bất kể món hàng
nào mà họ muốn có, ngay cả khi thổ dân thù
nghịch, chống cự.
Cũng vào năm 1487 khi sai Dias đi thám hiểm
miền biển cực nam của châu Phi, Vua John của
Bồ Đào Nha c̣n gửi đi hai phái đoàn cùng
tới Aden theo đường bộ, một đoàn
với chủ đích t́m ra con đường dẫn
đến các nơi giàu có của phương đông,
đoàn kia t́m cách bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ
Prester John.
Pero da Covilha được lệnh đi qua Arabia để
tới Ấn Độ. Ông này đă t́m thấy con
đường biển mà các con tàu Hồi giáo thường
chuyên chở hương liệu vượt qua Ấn
Độ Dương để tới châu Phi. Nhà thám
hiểm thứ hai cũng thông thạo tiếng Ả
Rập như Covilha, là Afonso de Paiva. Đoàn thám hiểm
này đi sâu vào lục địa châu Phi từ phía
đông bắc, lục t́m tại xứ Ethopia ngày nay.
Cũng giống như các điều t́m thấy
của Bartolomeu Dias, khám phá của hai đoàn thám
hiểm kể trên được giữ kín. Covilha
đă tới Calicut, là một thành phố ở phía tây
của xứ Ấn Độ (Calcuta ở phía đông).
Tại nơi này, các con thuyền gỗ của Trung Hoa
và của miền đông Ấn Độ chuyên chở
tới nào hương liệu, vàng bạc, nào tơ
lụa và đồ sứ... Các mặt hàng quư giá này
sau đó được chuyển tới vịnh Ba Tư
và tới miền đông của châu Phi.
Covilha thực ra không phải là người châu Âu
đầu tiên tới được xứ Ấn Độ.
Trước đó đă có các thương nhân từ
Cairo đi theo biển Hồng Hải, rồi c̣n có
những lái buôn khác từ các thành phố Venice,
Genoa..., từ các xứ Pháp và Ḥa Lan. Covilha sau đó
đă đi ngược về vịnh Ba Tư và
tới Sofala, phía nam của Beira thuộc châu Phi. Tại
nơi này, ông ta đă nghiên cứu thấy rằng
Ấn Độ Dương tiếp nối với Đại
Tây Dương và như vậy, từ châu Âu có
thể dùng đường biển để đi ṿng
phía dưới châu Phi tới Ấn Độ.
Khi tới Cairo vào năm 1490, Covilha mới biết tin nhà
thám hiểm Paiva đă chết. Lệnh của Vua John II
bắt ông phải đảm nhiệm xứ mạng
của Paiva bỏ dở. Covilha t́m đường
tới được triều đ́nh của vua xứ
Ethopia và đă thấy rơ không có vị Vua Giáo Sĩ nào
là Prester John cả. Năm 1520 có một phái đoàn khác
của triều đ́nh Bồ Đào Nha tới
được xứ Ethopia và đă gặp lại ông
Covilha già nua tại triều đ́nh của xứ này, v́
Vua Ethopia đă không cho phép ông ta ra đi, nhưng
chắc chắn là các báo cáo của Covilha cũng đă
tới được tay của Vua John II của Bồ
Đào Nha. Sau khi vị vua này chết năm 1495, vua
kế tiếp là Manuel vẫn tiếp tục chính sách
mở đường tới Ấn Độ.
|
Vasco da Gama
|
Nhà thám hiểm đi theo con đường
của Dias khi trước và được vua Manuel
chọn lựa là Vasco da Gama. Không c̣n tài liệu nào nói
về cuộc đời của Da Gama ngoài chi tiết
ông ta sinh năm 1460, là con của một viên chức
nhỏ nhưng chắc hẳn ông ta đă có một thành
tích đáng kể về đi biển. Da Gama được
lệnh điều kiển bốn con tàu trong đó ba
chiếc được đóng dưới sự giám sát
của Bartholomeu Dias, là tàu chỉ huy Sao Gabriel, tàu Sao
Raphael, c̣n tàu thứ ba có tên gọi không c̣n được
ghi lại và Berio là con tàu thứ tư.
Ngày 8 tháng 7 năm 1497, Vasco da Gama đă cho tàu rời
hải cảng Lisbon. Có lẽ do lời khuyên của
Dias, hải tŕnh kỳ này đă không theo sát bờ
biển của miền tây châu Phi mà ṿng ra xa để
tránh các gịng nước không thuận tiện và các băi
đá ngầm. Da Gama đă lợi dụng được
luồng gió mùa và sau ba tháng, vượt hơn 4,000
dặm, đoàn tàu đă tới được bờ
biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc
của Cape Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp
tục đi qua Cape Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại
vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu
rồi lại tiếp tục dương buồm về
hướng đông.
|
Hải tŕnh đầu tiên của Vasco da Gama (1497–1499)
|
Trên đường đi, Da Gama đă đặt
tên cho các địa điểm như Natal với ư nghĩa
là Ngày Sinh của Chúa, hay gịng sông "Các Điềm
Lành" (the River of Good Omens). Khi tới hải cảng
Mozambique, Da Gama đă gặp các thương nhân có h́nh
dáng kỳ dị, các người Ả Rập và
thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn
thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả
Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đă
có một cộng đồng người Ấn Độ
cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo
tại nơi này đă khiến cho Da Gama tin rằng Vua
Giáo Sĩ Prester John ở không xa đó, sâu vào trong
đất liền.
Sau khi Vasco da Gama thuê được một thủy
thủ lái tàu tài giỏi tên là Gujarati của miền tây
Ấn Độ, đoàn tàu của ông đă vượt
qua eo biển Ả Rập, tới được
hải cảng Calicut, nơi mà trước kia Covilha
đă báo cáo vào năm 1490.
Ngày 29 tháng 8 năm 1498, Vasco da Gama quyết định
cho đoàn tàu rời Calicut để trở về
Bồ Đào Nha. Hải tŕnh qua Ấn Độ Dương
mất ba tháng và nhiều thủy thủ đă mắc
bệnh hoại huyết. V́ không đủ người,
Da Gama đành phải hủy bỏ con tàu Sao Raphael
gần Mombasa, rồi cuộc trở về đă không
gặp khó khăn. Tháng 9 năm 1499, đoàn tàu của
Vasco da Gama đă về tới bến cảng Lisbon sau hơn
hai năm đi biển, vượt qua được
24,000 hải lư với 44 thủy thủ sống sót trong
số 170 người đă ra đi.
Thành quả của Vasco da Gama trong chuyến đi ṿng
qua phía nam của châu Phi để tới Ấn Độ
đă khiến cho nhà hàng hải này được
xếp hàng đầu trong các nhà thám hiểm của
mọi thời đại. Các khó khăn gặp
phải và các may rủi đ̣i hỏi tới ḷng cam
đảm và tài năng của một thuyền trưởng
đă khiến cho Vasco da Gama được ca tụng tương
đương với Christopher Columbus.
Vasco da Gama đă mang lại cho người châu Âu các
quan niệm mới về thế giới, một nơi
không c̣n bị giới hạn bởi bốn lục
địa. Thế Giới từ nay đă được
mở rộng cho nhiều người khác thám hiểm
và khai thác.
Phạm Văn Tuấn
Tài
liệu tham khảo: Wikipedia.org., Britannica Encyclopedia, A
History of the Modern World by R.R. Palmer & Joel Colton, Alfred A.
Knopf, N.Y. 1991.
|