Những
lần Pháp nạn dẫn đến sự diệt
vong của Phật giáo ở Ấn Độ cổ
đại Tường Ḥa |
Cuối thế kỷ thứ 12, Phật giáo đă
hoàn toàn tuyệt tích ở Ấn Độ Cái gọi là Pháp nạn trong
lịch sử Phật giáo Ấn Độ chính là các
lực lượng thế tục bên ngoài tiến hành
phá hoại quy mô lớn đối với chùa, giáo
đồ và các hoạt động tôn giáo, tạo thành
chướng ngại khiến Phật giáo không thể
tiếp tục phát triển, thậm chí diệt vong... Trong
lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo
nguyên thủy, Phật giáo bộ phái, Phật giáo
Đại thừa và Phật giáo Mật thừa...
đều đă từng trải qua thời kỳ
cực thịnh rực rỡ. Nhưng
"vật cực tất phản", sau khi Phật
giáo cực thịnh rồi, th́ thường xuất
hiện các triều đại đế vương tà
ác phỉ báng, diệt Pháp, hoặc rất nhiều
ngoại đạo tấn công khiến cho Phật giáo
suy vong. Trong đó, Pháp nạn quy mô lớn gồm có
các sự kiện như: vua Bổ Sa
Mật Đa La diệt Phật, Pháp nạn Đế
quốc Quư Sương (Kushan), Pháp nạn Đế
quốc Cấp Đa (Gupta), Pháp nạn Vương
triều Giới Nhật (Harsha), và Pháp nạn Đế
quốc Ba La (pala). Bốn Pháp nạn đầu đă
phá hoại Phật giáo cực lớn, c̣n Pháp nạn
cuối đă khiến Phật giáo dần suy bại và
biến mất ở Ấn Độ. Vua Bổ Sa Mật Đa
La diệt Phật
Vương triều Khổng Tước (Maurya)
truyền 3 đời đến vua A Dục (Asoka). Ba
quốc vương đời trước đều
tôn sùng Phật giáo, quốc lực càng ngày càng cường
thịnh, đến thời vua A Dục đạt
đến cực thịnh, Ấn Độ bắt
đầu xuất hiện cục diện nhất
thống. Khi vua A Dục tại vị, ông cực
kỳ tín Phật, cả đời đă xây dựng
8 vạn 4 ngh́n ṭa tháp Xá Lợi Phật. Ngoài ra, vua A
Dục c̣n xây dựng rất nhiều tịnh xá, cúng
dường tăng nhân, bố thí rộng răi với
số lượng tiền của nhiều không kể
xiết. Phật giáo cũng v́ thế mà hưng
thịnh đến cực điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những chính sách tích
cực, th́ sự hậu đăi quá mức của
đế vương A Dục đối với các tín
đồ Phật giáo đương thời cũng
đă dẫn đến những hậu quả ngoài
mong muốn: V́ Phật giáo sinh sống quá giàu có nên
một bộ phận tăng lữ đă hủ hóa,
sa đọa. Ngoài ra, rất nhiều người
ngoại đạo v́ tham lợi cúng dường nên
đă gia nhập, hoặc giả lẫn vào tăng
đoàn chùa Kê Viên do vua xây dựng, khiến cho
sự ḥa hợp của tăng đoàn bị phá
hoại, điều này khiến cục diện
Phật giáo tại Ấn Độ cổ bất ḥa
kéo dài đến 9 năm, và một số tăng nhân
không c̣n giữ được giới luật
nữa. Quốc gia cũng v́ nhiều năm xây
dựng chùa tháp, cúng dường, làm Phật sự
khiến quốc khố trống rỗng. Đến
những năm cuối đời vua A Dục, chế
độ cúng dường cho mỗi tăng nhân
chỉ c̣n nửa quả me rừng (amalaka).
V́
Phật giáo sinh sống quá giàu có nên một bộ
phận tăng lữ đă hủ hóa, sa đọa. Những người ngoại đạo thấy
quốc vương trước đây thường
bố thí lớn cho Phật giáo - sau này th́ không c̣n
được ưu đăi như trước
nữa, nên ghen ghét tật đố, phẫn uất vô
cùng, thế là họ thừa cơ mượn âm mưu
chính trị để công kích, đàn áp Phật giáo. Sau khi vua A Dục băng hà, t́nh thế quốc
gia thay đổi đột biến. Quân vương
kế vị ông là người bất tài, thù
Phật, coi trọng Kỳ Na giáo (Jainism), quốc
lực dần suy yếu. Đến thời vua Đa
Xa, đại tướng Bổ Sa Mật Đa La
giết vua rồi tự xưng vương, lấy Bà
La Môn làm quốc giáo, coi trọng nghi lễ tế
ngựa (Aśvamedha) - một nghi lễ bị nghiêm
cấm thời vua A Dục. Kinh "Xá Lợi Phất
vấn kinh" có ghi chép rằng, vua Bổ Sa Mật
Đa La mong muốn có thể được lưu
danh giống như vua A Dục, thế nên ông ta nghe
lời xúi giục của một số nịnh
thần là làm ngược lại: hủy tháp diệt
Pháp, tàn sát tứ chúng đệ tử Phật giáo.
Đối với Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Da di ni,
bất kể già trẻ đều bị sát hại
tập thể, máu chảy thành sông. Số chùa
viện bị phá hủy lên đến trên 800 ngôi.
Những tín đồ tại gia cũng bị cầm
tù và phạt đánh roi. Đương thời có 500
La Hán lên núi Nam Sơn nên may mắn thoát nạn. Quyển 250, sách "Đại t́ bà sa
luận" (Mahāvibhāṣā Śāstra) có
chép rằng: "Xưa
có một vua Bà La Môn, tên là Bổ Sa Hữu, rất căm
ghét Phật Pháp, đốt kinh điển, phá tháp
Phật, phá hoại tăng đoàn, sát hại các
Tỳ kheo, riêng ở biên giới nước Ca
Thấp Di La (Kaśmīra) đă phá hoại 500 tăng
đoàn chưa kể những nơi khác". Đây
chính là nói về sự kiện một lần vua
Bổ Sa Mật Đa La đi chinh phạt ở biên
giới Ca Thấp Di La đă tiến hành các hành động
bài xích, diệt Phật.
Vua
Bà La Môn, tên là Bổ Sa Hữu, rất căm ghét
Phật Pháp, đốt kinh điển, phá tháp
Phật, phá hoại tăng đoàn. Pháp nạn Đế
quốc Quư Sương
Theo sử sách nước Ca Thập Di La là
"Rajatangini" có ghi chép rằng, hai vị vua trước
thời vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka) Đế
quốc Quư Sương (Kushan) cũng bảo hộ
Phật giáo, xây dựng rất nhiều tăng
viện và lăng mộ các bậc Thánh giả
của Phật giáo. Đến thời Ca Nị
Sắc Ca làm vua nước Ca Thập Di La th́ càng
dốc sức bảo hộ Phật giáo, tác thành
lần kết tập kinh điển lần thứ tư,
khiến Phật Pháp được hoằng dương
rộng răi, truyền đến các dân tộc
đương thời. Thế lực Phật giáo hưng thịnh, v́
vậy đă tạo sức ép đối với tín
ngưỡng của Bà La Môn giáo thờ Thần Shiva,
dẫn đến sự phản đối của
tộc Naga, họ tàn sát các tín đồ Phật giáo,
thậm chí đến vua Ca Ni Sắc Ca phải ẩn
trốn lánh nạn một thời gian. Lúc đó
lại có Candradeva của Bà La Môn giáo là kẻ
dẫn đầu trấn áp Phật giáo. Đến
thời vua Chiên Na Đà (Connanda) đệ tam th́
cuộc đàn áp đối với tín đồ
Phật giáo mới có dấu hiệu chấm dứt. Quyển 3, sách "Tây
Vực kư" có viết: "Sau
khi vua Ca Nị Sắc Ca chết, Khất Lợi Đa
tự xưng vương, xua đuổi tăng đồ,
hủy hoại Phật Pháp". Sau này đến
khi vua Khất Lợi Đa bị giết chết th́
Phật giáo được phục hưng.
Sau
này đến khi vua Khất Lợi Đa bị
giết chết th́ Phật giáo được
phục hưng. Hai bộ sách ghi chép đại thể tương
đồng, do đó có thể xác định rằng
thời vua Ca Nị Sắc Ca thực sự có vua
của Bà La Môn phá hoại Phật giáo. Pháp nạn Đế
quốc Cấp Đa
Từ thời vua A Dục trở đi, do
Phật giáo phát triển nên tín ngưỡng
truyền thống là Bà La Môn giáo lúc này chỉ thâm
nhập được vào tầng thấp trong xă
hội. Đến thời Đế quốc Cấp
Đa (Gupta), Bà La Môn giáo đă trải qua chỉnh lư,
sửa đổi, đồng thời kết hợp
với sự sùng bái Thần Shiva và Vishnu trong tín ngưỡng
dân gian đă trở thành một tôn giáo mới hưng
thịnh lấy tên: Ấn Độ giáo. C̣n tiểu
thừa Phật giáo đương thời đang
dần dần ngày một học thuật hóa, các phái
khác nhau trong Phật giáo không ngừng tranh chấp giáo
nghĩa, cao thấp, tốt xấu, ngày một rời
xa tín ngưỡng thông tục và đời sống
người dân. Tín ngưỡng của các vua vương
triều Cấp Đa đa phần trên cơ sở Bà
La Môn giáo nên rất lạnh nhạt đối
với Phật giáo. Đương thời tộc người
Bạch Hung Nô ở phía Bắc có vua Ma Hề La
Củ La (Mihirakula) của vương triều Kư Du
Cấp Đa nhiều lần dẫn quân đến xâm
phạm. Ông ta thù hận Phật giáo một cách
cực đoan, dốc sức hủy diệt Phật
Pháp, quân ông ta đi đến đâu th́ Phật giáo
ở đó bị suy bại. Một lần ông ta thua
trận chạy về phương Bắc, cả vùng
Ca Thấp Di La có 1600 chùa tháp bị hủy hoại.
Trong "Phó Pháp
Tạng truyện" có chép câu chuyện
Tỳ kheo Sư tử đương thời đang làm
Phật sự ở Ca Thấp Di La th́ bị Di La
Quật sát hại, Pháp thống v́ vậy bị
tuyệt diệt. Di La Quật chính là tên dịch khác
của Ma Hề La Củ La, cũng có sách dịch là
Mật Hi Ha La. V́ vậy sử gia thường gọi
chung tên vị vua này với vua Bổ Sa Mật Đa
La của vương triều Huân Ca.
Một
lần ông ta thua trận chạy về phương
Bắc, cả vùng Ca Thấp Di La có 1600 chùa tháp
bị hủy hoại. Pháp nạn Vương
triều Giới Nhật
Khi phụ thân của vua Giới Nhật (Harsha) là
vua Yết La Phạt Đàn Na tại vị, nước
Kim Nhĩ (Gāuṛ Rājya) phía Đông Ấn Độ
ngày một cường thịnh, quốc vương là
Thiết Thưởng Ca xâm chiếm sang phía Tây,
hễ đến nơi nào liền hủy hoại
Phật Pháp, phá chùa chôn tăng, đồng thời
chặt cây Bồ đề (Bodh Gaya), nơi Phật Thích
Ca thành Đạo. Các chùa viện Phật giáo ở Câu
Thi Na (Kushinagar), nơi Phật Đà nhập Niết bàn,
cũng bị đốt phá, tăng chúng bị sát
hại. Sư phụ của Huyền Trang là Giới
Hiền Luận sư tương truyền là người
duy nhất chạy thoát trong số những tăng nhân
bị chôn. Vua Giới Nhật vốn là tín đồ Ấn
Độ giáo, sau được Huyền Trang và Đại
đức tiểu thừa Phật giáo là Điệt
Ca Mật Đa (pakarmitra) cảm hóa nên sùng tín
Phật giáo. Vua Giới Nhật cầu khấn Bồ
Tát Quán Âm, chỉ một trận là chiến thắng
vua Thiết Thưởng Ca. Pháp nạn đương thời rộng
khắp hai bờ sông Hằng khiến Pháp vận
bỗng chốc suy bại. Nếu không có sự
kiện vua Giới Nhật quy y Phật giáo th́ huệ
mệnh Phật giáo đă đứt đoạn
từ đó rồi. Sau thời vua Giới Nhật, Bà La Môn giáo
xuất hiện 2 học giả kiệt xuất,
một người là Cưu Ma Lợi Bà Đa phái Di
Mạn Sa; một người là Tăng Yết La Xà
Lợi Da phái Phệ Đàn Đa. Hai người
đă khôi phục lại vị trí cao ban đầu
của kinh điển Vệ Đà và tấn công tàn
nhẫn đối với Phật giáo. Cưu Ma
Lợi Bà Đa vân du toàn cơi Ấn Độ, với
tài hùng biện không gặp trở ngại, hoằng dương
học thuyết của ông, công phá Phật giáo. Trong
các đệ tử Phật giáo không có một người
nào có thể biện luận thắng ông ta được.
Việc giảng học Phật Pháp ở chùa Na
Lạn Đà (Nālandā) xưa nay đều công
khai, đến lúc này v́ không đủ sức hàng
phục ngoại đạo nên đành phải thay
đổi thành giảng thụ trong nhà. Tăng Yết La Xà Lợi Da do có nhiều
cống hiến về triết học tôn giáo, học
thuyết của ông ta được giới sử
học Ấn Độ ca ngợi là kết tinh
của tư tưởng nhân loại. Để
hoằng dương giáo nghĩa, ông ta đă xây
dựng 4 trung tâm truyền đạo ở 4 miền
Đông, Nam, Tây và Bắc Ấn Độ. Điều
này có nghĩa là về mặt tinh thần, ông ta đă
thống trị toàn Ấn Độ. Khi ông ta đến
vùng Phan Ca La, liền t́m tín đồ Phật giáo
để biện luận, nhưng không một người
nào trong Phật giáo có thể thắng nổi ông ta,
thế là 25 Đạo tràng bị phá hủy, 500
Tỳ kheo bị ép phải chuyển đổi sang tín
ngưỡng khác. Ông ta sang miền Đông đến
vùng Âu Đề Tỳ Xá, t́nh h́nh cũng lại
diễn biến tương tự.
Khi
ông ta đến vùng Phan Ca La th́ có 25 Đạo tràng
bị phá hủy, 500 Tỳ kheo bị ép phải
chuyển đổi sang tín ngưỡng khác. Sự tiêu vong của
Phật giáo thời kỳ vương triều Ba La
Phật giáo sau thời vua Giới Nhật đă
đi vào suy bại, nhưng do có sự bảo hộ
của vương triều Ba La nên Phật giáo ở
miền Đông Ấn Độ đă b́nh an 500 năm.
Nhưng Phật giáo thời kỳ cuối tại nơi
này do lư luận càng ngày càng có xu hướng nhỏ
mọn và huyền hoặc, chỉ có thiểu số
người t́m hiểu, thực hành th́ lại mê tín
dâm ô, xấu xa hủ bại. Trong 500 năm đó,
Mật giáo đại thừa dần dần thịnh
hành, kết quả là Phật giáo đă đón
nhận ngoại đạo ở Ấn Độ,
hợp với ngoại đạo thành một tôn giáo
khác gọi là Ấn Độ giáo. V́ vậy Phật
giáo đă đi đến suy vong. Đến đầu thế kỷ thứ 11, vua
Afghanistan là Ma Ha Mạt (Muhammad) dẫn quân xâm lược
Ấn Độ, Hồi giáo dần dần xâm
nhập vào nội địa Ấn Độ. Tương
truyền có tổng cộng 11 lần xâm nhập,
mỗi lần xâm nhập th́ tất cả chùa
viện của các tôn giáo khác đều bị đốt
hết. Đến cuối thời kỳ vương
triều Ba La và thời vương triều Tư Na,
quân đội Hồi giáo càng xâm nhập sâu hơn,
cuối cùng đă quét sạch cứ điểm
cuối cùng của Phật giáo - một góc Đông
Ấn Độ. Các đại sư Mật giáo phân
tán, đa phần đi qua Kashmir vào Tây Tạng lánh
nạn, một phần chạy đến vùng Nepal. Chùa
Na Lạn Đà duy nhất c̣n lại cũng chỉ c̣n
hơn 70 tăng nhân. Sau đó không lâu, vương
thất chuyển tín ngưỡng sang Hồi giáo,
những giáo đồ Phật giáo chưa trốn
chạy th́ hoặc chuyển sang Hồi giáo, hoặc
chuyển sang Ấn Độ giáo. Cuối thế
kỷ thứ 12, Phật giáo đă hoàn toàn tuyệt tích
ở Ấn Độ. Tường Ḥa
|