PHẬT GIÁO và VĂN HÓA VIỆT NAM Thiện Ư |
PHẬT
GIÁO và VĂN HÓA VIỆT NAM 22.1. Sự h́nh thành và nội dung cơ bản
của Phật giáo.
22.1.1. Sự H́nh Thành
Đạo
Phật h́nh thành ở Ấn Độ vào khoảng
thế kỉ V trước công nguyên; người sáng
lập là thái tử Sidharta (Tất-đạt-đa),
họ là Gotama (Cô-đàm), con vua Tịnh Phạn[1]
và hoàng hậu Ma-gia. Ông sinh ra khoảng năm
563 trước công nguyên,
vào lúc ở Ấn Độ đang tồn tại
nhiều trường phái tư tưởng và tôn giáo.
Theo kinh Phật th́ lúc đó có tới 62-63 trường
phái triết học, c̣n trong tôn giáo th́ giữ địa
vị thống trị là đạo Bàlamôn (Brahmanisme)
xây dựng trên nền tảng kinh Vệ-Đà (tiếng
Sanscrit th́ Vệ-Đà = tri thức). Trong
bối cảnh đó, xă hội Ấn Độ phân
chia một cách sâu sắc thành 4 đẳng cấp cơ
bản. Bốn
đẳng cấp đó là: 1.
Tu sĩ Bàlamôn (Brahmans) là những người da
trắng ḍng Aryen chịu trách nhiệm về tôn giáo
và những vấn đề tinh thần cao cả trong
xă hội; theo kinh Vệ-Đà th́ đẳng cấp
này vốn từ miệng thần Phạm thiên mà sinh
ra. 2.
Vương tướng (Kshatriyas) là những người
bảo vệ công Lư (các vương quốc đều
thuộc đẳng cấp này). 3.
Thực nghiệp (Vaishyas) là những người có
sứ mạng quản trị và làm tăng nguồn
của cải, bao gồm thương gia, nông gia,
chủ ngân hàng. 4.
Người lao động (Shudras) là những người
trực tiếp làm các loại lao động chân tay
ở nông thôn, thành thị, họ chiếm đa
số trong xă hội. Ngoài ra, c̣n
một số người bị truất khỏi
mọi đẳng cấp trong xă hội - đó là
những người dân bản xứ nghèo khổ
(Parias) đă bị người Aryans chinh phục. Nỗi
bất b́nh của thái tử Sidharta về sự phân
hóa đẳng cấp, kỳ thị màu da và đồng
cảm với nỗi khổ của muôn dân là
những nguyên nhân chính dẫn đến sự
từ bỏ đạo Bàlamôn và sáng lập ra
một tôn giáo mới.
Sau này, khi môn đệ của Ngài thắc mắc
tại sao các pháp sư Bàlamôn tự xưng là cao
cấp và khinh rẻ đẳng cấp mà đức
Phật xuất thân. Ngài đă trả
lời:" Các vị Bàlamôn sinh ra từ cửa
miệng Phạm thiên chăng? Đâu có, vợ các
người ấy cũng có kinh nguyệt, có mang thai,
có sinh con, cho con bú. v..v... Vậy làm ǵ mà các vị
ấy cao cấp đựợc? Chỉ những
ai có đủ đạo đức lương
thiện là cao cấp, c̣n lại là ti tiện"
(Trường bộ kinh). Chí tu hành
của Sidharta càng quyết khi vợ ngài, đă sanh
hạ đựợc người con trai là Rahula
(La-Hầu-La)[2] nối dơi cho vua cha.
Ngài rời nhà năm 29 tuổi,
tứ đó người ta gọi ngài là Sakya Muni
(Thích-ca Mâu-ni = hiền nhân ḍng họ Thích-ca)
Sakya Muni đi đến những nơi có nhiều nhà
tu hành, t́m gặp những người tu lâu năm
để học hỏi, nhưng những điều
thu thập được hoàn toàn không làm cho ông
thỏa măn. Ông cùng 5 người bạn rủ
nhau đến vùng Uruvela (gần thị trấn Gaya)[3]
tu theo lối khổ hạnh, tương truyền là
mỗi ngày ăn cầm hơi một hạt kê,
một hạt vừng, uống một ngụm nước,
trong suốt 6 năm ṛng mà chẳng thấy ích
lợi ǵ. Thấy ḿnh đă tu sai đường,
ngài liền ăn uống cho lại sức rồi t́m
đến một gốc cây pipal lớn lấy cỏ
làm chiếu ngồi tập trung suy nghĩ. Sau
một thời gian (tương truyền là 49 ngày
đêm) tư tưởng của ngài liền trở nên
sáng rơ, ngài đă hiểu ra quy luật của
cuộc đời, nỗi khổ của chúng sinh, người
đă thấy được điều mà bấy lâu
t́m kiếm. Sau đó đức Phật đi
t́m 5 người bạn đă từng tu khổ
hạnh trước đây để giác ngộ cho
họ, rồi cùng với họ trong suốt 40 năm
c̣n lại của cuộc đời, đi khắp vùng
lưu vực sông Hằng để truyền bá
những tư tưởng của ḿnh. Từ
đó, người đời gọi ngài là Buddha
(Bậc Giác Ngộ, phiên âm tiếng Việt là
Bụt, Phật). Cây pipal, nơi ngài đă
ngồi tu luyện, đựợc gọi là cây bodhi
(bồ-đề) và trở thành biểu tượng
cho sự giác ngộ. Đức
Phật qua đời khoảng năm 483 trước công
nguyên, thọ 80 tuổi. 22.1.2. Nội Dung Cơ Bản Thực
chất của đạo Phật là một học
thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát.
Đức Phật từng nói:"Ta chỉ
dậy một điều: Khổ và khổ diệt".
Học thuyết này được đức Phật
tŕnh bày một cách cô đúc trong bài thuyết pháp
đầu tiên tại vườn
Lộc Uyển dành cho 5 người bạn đă
từng tu khổ hạnh; nó thường được
gọi là Tứ diệu để (Bốn
Chân Lư Kỳ Diệu) hay Tứ thánh đế
(Bốn Chân Lư Thánh, tiếng Pali: cattari aryasaccani),
đó là: 1.
Khổ đế (Dukkha) là chân lư về
bản chất của nỗi khổ.
Cuộc sống quanh ta (thế giới hiện
thực) đầy nỗi khổ.
Khổ là ǵ? Đó là trạng thái buồn
phiền phổ biến ở con người do sinh,
lăo, bệnh, tử, do mọi thứ nguyện
vọng không được thỏa măn. 2.
Nhập đế, hay Tập đế
(Samudaya) là chân lư về nguyên nhân của nỗi
khổ. Con người trong thế giới
của hiện thực này khổ
là v́ đâu. Đó là do ái dục
(ham muốn) và vô minh (sự kém sáng
suốt), do tham-sân-si (ḷng tham, sự
giận dữ, sự ngu dốt) thúc đẩy.
Dục vọng thể hiện thành hành động
gọi là Nghiệp (karma); hành động
(nghiệp) xấu khiến con người phải
nhận lănh lấy hậu quả của nó (luật
nhân quả, nghiệp báo), thành ra cứ luẩn
quẩn trong ṿng luân hồi không thoát ra
được. 3.
Diệt đế (Nirodha) là chân lư về cảnh
giới diệt khổ. Nỗi
khổ sẽ được tiêu diệt khi nguyên nhân
gây ra khổ (ái dục và vô minh) bị loại
trừ. Sự tiêu diệt khổ đau
gọi là Niết bàn (Nirvana, nghĩa đen
là "dập tắt ": dập tắt ngọn
lửa phiền năo). Đó là thế giới lư tưởng
của sự giác ngộ và giải thoát. Mục
đích của Phật tử là thực hiện
Niết bàn. Khi đang tu dưỡng là thực
hiện được Niết bàn từng
phần, khi giác ngộ rồi là thực
hiện được Niết bàn toàn phần,
trở thành Phật. 4.
Đạo đế (magga) là chân lư chỉ
ra con đường (biện pháp)
diệt khổ. Con
đường diệt khổ, giải thoát và giác
ngộ đ̣i hỏi
phải rèn luyện đạo đức (giới),
rèn luyện tư tưởng (định),
và khai sáng trí tuệ (tuệ). Ba môn
học này được cụ thể hóa trong khái
niệm bát chánh đạo (tám nẻo
đường chân chính): 1.
Chánh kiến - hiểu biết đúng đắn,
kiến giải chính xác 2.
Chánh tư duy - suy nghĩ đúng đắn 3.
Chánh ngữ - lời nói chân thật, ḥa ái. 4.
Chánh nghiệp - làm
những việc tốt (thiện nghiệp),
thực hiện ngũ giới (không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu,
không nói dối). 5.
Chánh mạng - nuôi sống thân mạng
bằng nghề nghiệp chính đáng lương
thiện. 6.
Chánh tinh tấn - nỗ lực tiến
bộ một cách chính đáng. 7.
Chánh niệm - luôn
nhớ, nghĩ những điều lành. 8.
Chánh định - tĩnh tâm, tập trung tư
tưởng vào một đối tượng. Trong tám
nẻo đường này th́ chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc
về lĩnh vực rèn luyện đạo đức
(GIỚI); chánh niệm, chánh định
thuộc về lĩnh vực rèn luyện tư tưởng
(ĐỊNH); chánh kiến, chánh tư
duy, chánh tinh tấn thuộc về lĩnh vực
khai sáng trí tuệ (TUỆ). Toàn
bộ giáo lư của Phật giáo về sau sắp
xếp lại thành ba tạng (tạng = chứa đựng):
Phật giáo
coi trọng ba thứ: Phật-Pháp-Tăng, gọi là tam
bảo. Đức Phật đáng
trọng v́ ông là người sáng lập ra Phật giáo;
pháp (giáo Lư) đáng trọng v́ đó là
cốt tủy của đạo Phật; tăng
chúng (người tu hành xuất gia) đáng trọng v́
nhờ có họ mà Phật pháp truyền bá được
trong thế gian. Ở trên ta đă nói về
Phật và Pháp, dưới đây ta sẽ nói
tiếp đến Tăng 22.1.3. Tăng Đoàn và sự đổi thay sau
khi Đức Phật tạ thế
Sau khi
đức Phật tạ thế, các đệ tử
của ngài đă định kỳ họp lại.
Tại các cuộc họp càng về sau, sự bất
đồng ư kiến giữa các chư tăng trong
việc hiểu và giải thích kinh Phật càng ngày càng
lớn. Hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm
hai phái: 1.
Phái của các vị trưởng lăo, gọi là phái
THƯỢNG TỌA (Théravada) theo xu hướng
bảo thủ, chủ trương bám sát kinh điển,
giữ nghiêm giáo luật; Phật tử chỉ giác
ngộ cho bản thân ḿnh, chỉ thờ đức
Phật Thích-Ca và chỉ cầu chứng quả La-hán. [5]
2.
Phần đông tăng chúng c̣n lại không
chịu nghe theo, họ khai hội nghị riêng, lập
ra phái ĐẠI CHÚNG (Mahasanghika), chủ trương
không câu nệ cố chấp vào kinh điển, khoan
dung đại lượng trong việc thực
hiện giáo luật, thu nạp rộng răi những ai
muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người,
thờ nhiều Phật và nhân vật tiêu biểu là
Bồ-tát.[6] Tại các
lần kiết tập thứ 3-4, phái Đại
Chúng soạn ra kinh sách riêng và tự xưng
là ĐẠI THỪA (Mahayana), nghĩa là
"cỗ xe lớn" (ngụ ư chở đựợc
nhiều người) và gọi phái Thượng
Tọa là TIỂU THỪA (Hinayana), nghĩa là
"cỗ xe nhỏ" (ngụ ư chỉ chở đựợc
một người). [7] Phái Đại
thừa phát triển lên phía Bắc, nên gọi là
BẮC TÔNG, phổ biến sang Trung Hoa, Nhật
Bản, Triều Tiên,.. Phái
Tiểu thừa phát triển xuống phía Nam, nên
được gọi là NAM TÔNG, từ trung tâm
Sri-Lanka (Tích Lan) phát triển sang các nước Đông
Nam Á,[8] Kinh sách Đại thừa
viết bằng tiếng Sanscrit (và sau này bằng
tiếng Hán), kinh sách Tiểu thừa viết bằng
tiếng Pali. Ở
Ấn Độ có hai thứ tiếng Sanscrit
là ngôn ngữ văn học, phổ biến trong
giới trí thức và học giả. Pali
là ngôn ngữ phổ thông mà giời b́nh dân thường
dùng. Sinh thời, v́ muốn nhằm vào quần chúng
rộng răi nên đức Phật đă dùng tiếng
Pali mà diễn đạt tư tưởng của ḿnh.
V́ vậy, phái Tiểu Thừa (bảo thủ) giữ
nguyên kinh sách bằng tiếng Pali, c̣n phái Đại
Thừa th́ dùng tiếng Sanscrit đế soạn kinh sách.
Vào Trung Hoa, kinh sách tiếng Sanscrit đều
được dịch sang tiếng Hán, sau này, khi
Phật giáo ở Ấn Độ bị triệt phá,
Phật giáo Bắc Tông chỉ c̣n dựa vào kinh sách
chữ Hán mà thôi. Kinh sách Nam tông chỉ có
một bộ A-hàm (Nikaya), không lẫn kinh sách
Bắc tông, c̣n kinh sách Bắc tông th́ chứa trọn
bộ A-hàm, ngoài ra c̣n chứa rất nhiều
kinh khác (Hoa nghiêm, Lăng nghiêm, Diệu pháp liên
hoa, Bát nhă...) 22.2. Quá tŕnh thâm nhập và phát triển
của Phật giáo ở Việt Nam.
22.2.1. Theo đường biển Theo
đường biển, các nhà sư Ấn Độ
đă đến Việt Nam ngay từ đầu công
nguyên.[9] Luy Lâu, trị sở quận
Giao Chỉ, đă sớm trở thành một trung tâm
Phật giáo quan trọng. Tại đây, với
hoạt động truyền giáo của Khâu-đà-la
(Ksudra, đến Luy Lâu trong khoảng các năm
168-189), đă xuất hiện truyền thuyết
Phật giáo Việt Nam đầu tiên với Thạch
Quang Phật và Man Nương Phật mẫu.[10]
Từ đây có những nhà sư Ấn Độ như
Ma-ha-kỳ-vực (Mahajivaka) hoặc những người
nước ngoài như Khương Tăng Hội
(người gốc Trung Á) sau khi xuất gia tu hành
theo Phật giáo, đă đi sâu vào Trung Hoa truyền
đạo[11]. Sau này, khi trả
lời vua Tùy Văn Đế về t́nh h́nh
Phật giáo Giao châu, nhà sư Đàm Thiên (người
gốc Trung Á) đă nói rằng:"Xứ Giao
châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật
giáo truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến
Giang Đông mà xứ ấy đă xây ở Luy Lâu 20
bảo tháp, độ đựợc hơn 500 vị
tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi.
Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước
ta.” Thời Tam Quốc, Ngô Quốc Thái
(mẹ Ngô Tôn Quyền) từng cho mời các nhà sư
từ Luy Lâu sang Kiến Nghiệp (thủ phủ nước
Ngô) thuyết giảng. Tại
Giao châu, một người Trung Hoa tên là Mâu Bác
(sinh khoảng 165-170) theo mẹ chạy tới đây lánh
nạn, đă bỏ Nho, Lăo mà tu theo đạo
Phật. Cuốn sách Lư Hoặc luận
(bàn luận về cách xử Lư những điều mê
hoặc sai lầm) do ông viết tại Giao Châu
trở thành cuốn sách đầu tiên giới
thiệu về Phật giáo bằng tiếng Trung Hoa. Sách
viết dưới dạng hỏi đáp gồm 37 câu. [12]
Nội dung sách cho thấy rơ Phật giáo Giao Châu đă
chịu trực tiếp từ Ấn Độ (tăng
sĩ Giao Châu mặc áo cà-sa đỏ, khi giao tiếp
không quỳ khiến người Trung Hoa thắc
mắc) và tác giả đă có cái nh́n khách quan trong
việc đánh giá quan hệ của văn hóa Trung Hoa
với xung quanh.[13] Cũng do
Phật giáo đă được truyền bá trực
tiếp từ Ấn-Độ vào Việt Nam ngay
từ đầu công nguyên nên từ Buddha
(Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đă được
phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành
Bụt. Phật giáo Giao châu lúc này mang màu
sắc Tiểu thừa Nam tông và trong con mắt
của người Việt Nam nông nghiệp.
Bụt được h́nh dung như một vị
thần dân dă toàn năng có mặt ở khằp nơi,
luôn sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp
người tốt và trừng trị kẻ xấu.
Sau này,
sang thế kỉ IV-V lại có thêm luồng ảnh
hưởng Phật giáo Đại thừa Bắc tông
từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng mấy chốc, nó
đă lấn át và thay thế luồng Nam tông có
từ trước đó. Từ "Buddha"
tiếng Phạn vào tiếng Hán đựợc phiên
âm thành Phật-đà. Phật-đà, vào
tiếng Việt rút gọn lại c̣n Phật;
từ đây từ Phật dần dần thay
thế cho từ Bụt.[14]
Bụt với nghĩa là người sáng lập ra
Phật giáo chỉ c̣n giới hạn trong các thành
ngữ tục ngữ (ví dụ: Gần chùa
gọi Bụt bằng anh) hoặc với nghĩa
là ông tiên trong các truyện dân gian (như
truyện Tấm Cám). 22.2.2. Phật Giáo từ Trung Hoa
đường bộ đi xuống Việt-Nam Từ
Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo đựợc
truyền vào Việt Nam. Thiền tông, Tịnh
độ tông và Mật tông. 22.2.2.1 THIỀN TÔNG Là tông phái
Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma
(Bodhidhama) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu
thế kỉ VI. "Thiền" (rút gọn
của Thiền-na) là dạng phiên âm của Dhyana
(Sanscrit nghĩa là "tĩnh tâm ") chủ trương
tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để
tự ḿnh t́m ra các chân Lư của đạo Phật.
Tu theo Thiền tông đ̣i hỏi nhiều công phu và
khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ
biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp
thượng lưu, cũng chính nhờ họ
ghi chép lại mà nay ta được biết về
lịch sử Thiền tông Việt Nam rơ hơn
cả. 1) Ḍng
Thiền thứ nhất của Việt Nam do nhà sư Ti-ni-da-lưu-chi
(Vinitaruci) lập ra. Ông người Ấn-Độ,
đi qua Trung Hoa đựợc tổ thứ ba
thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán khuyên nên
"mau đi về phương Nam mà tiếp xúc
với thiên hạ ". Ông đến Việt
Nam vào năm 580, tu ở chùa Pháp Vân (Thuận Thành,
Hà Bắc) và truyền cho tổ thứ hai là Pháp
Hiền. Ḍng thiền này truyền được
19 thế hệ. 2) Ḍng
thiền thứ hai do một người quê ở
Quảng Châu (Trung Quốc) có đạo hiệu là Vô
Ngôn Thông vào Việt Nam năm 820, tu ở chùa
Kiến Sơ (Phủ Đồng, Hà Bắc), lập
ra. Người kế nghiệp ông là Cẩm Thành.
Ḍng thiền này truyền được 17 đời.
Thời Lư
có nhà sư Thảo Đường (người
Trung Quốc), vốn là tù binh bị bằt tại Chiêm
Thành, đựợc vua Lư Thánh Tông (1054-1072)
giải phóng khỏi kiếp nô lệ và cho mở
đạo trường tại chùa Khai Quốc (Thăng
Long, năm 1069). Đệ tử theo học
rất đông, trong số đó có cả vua Lư Thánh
Tông. Từ đó có thêm ḍng thiền thứ
ba, truyền được 6 đời. Thời
Trần có vua Trần Nhân Tông (1258 - 1368), từng nghiên
cứu Phật pháp dưới sự hướng
dẫn của thiền sư nỗi lạc Tuệ
Trung Thượng Sĩ,[15] sau khi
xuất gia vào năm 1299, đă lên tu ở trên núi Yên
Tử (Quảng Ninh) và, tại đây, lập ra
Thiền phái Trúc Lâm. [16]
Các sư Pháp Loa và Huyền Quang là tổ thứ hai
và thứ ba của phái này. Với việc
lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đă thống
nhất các thiền phái tồn tại trước
đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời
Trần về một mối. Những
thời sau này c̣n xuất hiện một số
thiền phái khác như
Thiền tông
Việt Nam luôn rất đề cao Cái Tâm.
Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là Phật.
Quốc sư núi Yên Tử nói với Trần Thái Tông:"Núi
vốn không có Phật. Phật ở nơi tâm, tâm
lặng lẽ sáng suốt ấy là chân Phật
". Trần Nhân Tông viết: Nơi
ḿnh có ngọc, t́m đâu nữa, Trước
cảnh vô tâm, ấy đạo thiền. 22.2.2.2 Tịnh Độ Tông
Khác
với Thiền tông, TỊNH ĐỘ TÔNG chủ trương
phải dựa vào tha lực (sự giúp đỡ
từ bên ngoài). Thực ra th́ Thiền tông hay
Tịnh Độ tông cũng chỉ là những
biện pháp tu thích hợp cho những đối tượng
khác nhau và đều từ đức Phật mà ra:
Bản thân Phật Thích-ca đă nhờ tự lực
suy nghĩ mà giác ngộ: nhưng để
mọi người cùng giác ngộ th́ cần
phải hết sức giúp đỡ họ.
Sự giúp đỡ từ bên ngoài này rất quan
trọng. Phật Thích-ca có lần thuyết
giảng rằng:" Một viên đá dù nhỏ
đến mấy mà ném xuống nước th́ nó cũng
ch́m, nhưng một ḥn đá dù to đến mấy
nếu đặt trên bệ th́ nó vẫn nổi".
Thiền tông là phái dành cho những người có tŕnh
độ cao, c̣n Tịnh Độ tông là dành cho
giới b́nh dân. Sự giúp
đỡ từ bên ngoài cho tín đồ Tịnh
Độ tông là gợi cho họ về một cơi
niết-bàn cụ thể gọi là cơi Tịnh Độ
(= yên tĩnh, trong sáng), đựợc h́nh dung như
một nơi Cực Lạc, nơi này do đức
Phật Adiđà (Amitabha = vô lượng quang) cai
quản, người mà, theo kinh Phật, đă
xuất hiện từ vô số kiếp về trước.
Sự giúp đỡ đó c̣n là bản thân họ
cần thường xuyên đi chùa dâng hương
hoa trước tượng Phật, thường xuyên
tụng niệm danh hiệu Phật Adiđà.
H́nh dung cụ thể về niết- bàn là để
có đích mà hướng tới: cúng tượng
Phật và niệm danh Phật là để thường
xuyên nhớ đến những lời dạy của
Người mà ráng làm theo. [17] Nhờ cách
thức tu đơn giản như vậy, Tịnh
Độ tông là tổng phái phổ biến khắp cơi
Việt Nam: đâu đâu ta cũng người dân
tụng niệm câu Nam-mô Adiđà Phật! (Nguyện
quy theo đức Phật Adiđà); tượng Adiđà
cũng loại Phật lâu đời và phổ
biến hơn cả (ví dụ, pho tượng đức
Phật Adiđà bằng đá cao gần 2 mét ở chùa
Phật Tích (Hà Bắc) phía ngoài dát vàng tạc năm
1057. , H́nh 22.1) Vai tṛ "công cụ" này
“của tượng Phật”, “của tên
Phật” đựợc người Việt Nam
nhận thức khá rơ: Để là ḥn đất,
cất lên ông Bụt.
H́nh 22.1 Tượng
Phật A Di Đà (Chùa Phật Tích, Hà Bắc 1057) 22.2.2.2.3 Mật Tông MẬT TÔNG
là tông phái chủ trương xử dụng những
phép tu huyền bí (bí mật) như dùng linh phù,
mật chú, ấn quyết.... để mau chóng đạt
đến giác ngộ và giải thoát. Tương
truyền Mật giáo (Tantrisme) do Phật Đại
Nhật (Mahavairocana) khởi xướng: Mật
tông có hai bộ kinh cơ bản là kinh Đại
Nhật và kinh Kim Cương. Vào Việt
Nam, Mật tông không c̣n tồn tại độc
lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng ḥa vào
ḍng tín ngưỡng dân gian với những truyền
thống cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm
bùa trị tà ma và chữa bệnh.... Trong hàng
ngũ Phật giáo, những người xuất gia tu
hành nói chung, nếu là nam th́ gọi là tăng,
nữ th́ gọi là ni. Về hàng giáo
phẩm, người mới xuất gia đựợc
gọi là tiểu. Sau một thời gian
tập sự, nếu được tăng chúng đánh
giá tốt, tiểu đựợc thụ giới sadi
mà người Việt Nam ta gọi là sư bác.
Sau một thời gian làm sư bác, theo sự
nhận xét của tăng chúng sẽ được
thụ giới tíkheo và được gọi là đại
đức hay sư ông. Sư ông có
nhiều năm tu hành (tối thiểu là 25 năm
có đạo đức và tŕnh độ Phật
học cao và đựợc suy tôn là thượng
tọa, và cao nữa là ḥa thượng (ḥa
thượng phải có tối thiểu là 40 năm tu
hành). Đối với ni không có phẩm thượng
tọa và ḥa thượng mà thay thế bằng ni
sư và ni trưởng. 22.2.3. Ảnh Hưởng của Phật-giáo
vào Việt-Nam Do thâm
nhập một cách ḥa b́nh, ngay từ thời Bắc
thuộc, Phật giáo đă phổ biến rộng
khắp. Nội một việc vua nhà hậu Lư
Nam Đế có tên là Lư Phật Tử cũng
cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo
thời này như thế nào. Các vua Đường
từng nhiều lần mời các nhà sư An Nam sang
kinh đô Trung Hoa thuyết pháp giảng kinh.[18] Đến
thời Lư Trần, Phật giáo Việt Nam phát
triển tới mức cực thịnh. Nhà
nho Lê Quát, học tṛ Chu Văn An,
đă lấy làm tức giận v́ thấy toàn dân
theo Phật:" Phật chỉ lấy điều
họa phúc mà động ḷng người sao mà sâu sa
và bền chắc đến như vậy? Trên
từ vương công, dưới đến thứ dân,
hễ làm cái ǵ thuộc về việc Phật, th́
hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm
nay mang tiền của để làm chùa, xây tháp th́
hớn hở vui vẻ, như trong tay đă cầm
được cái biên lai để ngày sau đi
nhận số tiền trả báo lại. Cho nên,
trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ,
đường cùng, ngơ hẻm, chẳng khiến
đă theo, chẳng thề mà tin; hễ chỗ nào có
nhà ở th́ có chùa Phật; bỏ đi th́ làm
lại, hư đi th́ sửa lại " [Thích
Thanh Từ 1966:24]. Rất
nhiều chùa tháp có quy mô to lớn hoặc kiến trúc
độc đáo đựợc xây dựng trong
thời gian này như
Chùa
Phật Tích có tên là "Vạn Phúc tự" ở
Tiên Sơn (Hà Bắc), đựợc xây dựng vào
năm 1057. Theo bia Vạn
Phúc đại thiền từ bi th́ chùa có 100 ṭa,
"trên đỉnh núi mở ra một ṭa nhà đá,
trong điện tự nhiên sáng như ngọc lưu
li: điện ấy đă rộng lại to, sáng
sủa lại kín. Trên thềm bậc đằng
trước có bày 10 con thú đá (đến nay
vẫn c̣n – xem h́nh 22.2), phía sau có ao rồng, gác cao
vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao đẩu sáng
lấp lánh, đầu rỗng và tay rỗng với
tới trời sao". Trong khuôn viên chùa dựng
"cây tháp cao ngàn trượng, trong tháp có pho tượng
Phật ḿnh vàng cao 6 thước (= 2.5 m). Năm
1937 L T Bezacier đo cạnh đáy tháp đựợc
8.5 m; ông cho rằng tháp phải cao khoảng 42 m (theo
tỉ lệ truyền thống đáy bằng 1/5
chiều cao).
H́nh 22.2 Thú
đá Chùa Phật Tích Chùa
Đại Lâm (dân gian gọi là chùa Đàm) do nguyên
phi Ỷ Lan chủ tŕ xây dựng vào năm 1068.
Chùa lớn đến mức riêng việc đóng
mở cửa hàng ngày phải dùng đến 72 người,
dân gian có câu thành ngữ mười tám đóng
cửa chùa Đàm (thay cho câu mười tám rám
trấu). Vua Trần Nhân Tông trong bài Đại
Lâm Thần Quang tự đă ca ngợi ngôi chùa
bằng những câu Thập nhị lâu đài khai
họa tục. Tam thiên thế giới nhập thi
mầu (Mười hai lâu đài mở ra như
bức họa. Ba ngh́n thế giới thu vào tám
mắt rộng muôn trùng). Đến nay c̣n
lại dấu tích khu nền chùa rộng 8 ngàn mét vuông,
bậc cấp chính dẫn lên chùa rộng 16 m, dài 120
m. Khâm
phục những thành tựu văn hóa Phật giáo
Việt Nam thời Lư Trần, sách vở Trung Hoa
truyền tụng nhiều về bốn công tŕnh
nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam
tứ đại khí. Đó là: 1.
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: Chùa
Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) đựợc
xây dựng vào khoảng thế-kỷ XI, có pho tượng
Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay
vẫn c̣n giữ được trong chùa th́ tượng
cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng
gần 4m) đặt trong một ṭa Phật điện
cao 7 trượng. Đứng từ bến đ̣
Đông Triều, cách xa 10 dặm vẫn c̣n trông
thấy nóc điện. 2.
Tháp Bảo Thiên: Gồm 12 tầng, cao 20
trượng, do vua Lư Thánh Tông cho xây dựng vào năm
1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây hồ
Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày
nay) bằng đá và gạch, riêng tầng
thứ 12 đúc bằng đồng. Nhà thơ
Phạm Sư Mạnh đời Trần làm thơ ca
ngợi tháp như sau (trích dịch): Trấn
áp Đông Tây vững đế kỳ. Vọt
cao một tháp đứng uy nghi. Cột
chống trời Nam, sông núi lặng. Tháp
vững bao đời vẫn chẳng suy Gió
thổi, chuông ngân, vang ứng đáp. Đêm
sao, đèn đuốc, ánh lưu li... Tháp là
đệ nhất danh thắng đế đô một
thời. Đến năm 1414, tháp bị quân Vương
Thông tàn phá. Nền tháp c̣n lại c̣n lại to
như một quả đồi, có thời dùng làm nơi họp
chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây
thành c̣n thấy 4 pho tượng kim cương
trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng tiên,
chim thú khác. Thời Pháp bị phá hủy hoàn
toàn để xây nhà thờ lớn trên đất
ấy. 3. Chuông
Quy Điền: Năm
1101, vua Lư Nhân Tông cho xuất kho hàng vạn cân đồng
để đúc quả chuông này và dự định
treo nó tại công viên chùa Diên Hựu[19],
trong một ṭa tháp chuông bằng đá xanh cao 8 trượng.
Nhưng chuông đúc xong to quá (tương truyền
miệng chuông có đường kính 1.5 trượng
(khoảng 6m), cao 3 trượng (khoảng 12m), nặng
tới vài vạn cân ) không treo lên nổi nên đành
để ở ngoài ruộng. Mùa nước
ngập, rùa ḅ ra ḅ vào nên dân gian gọi là chuông
"ruộng rùa". 4. Vạc
Phổ Minh: Đúc
bằng đồng vào thời Trần Nhân Tông
(1279-1293) đặt tại sân chùa Phổ Minh (làng
Tức Mạc, Nam Hà). Vạc sâu 4 thước (=
1,6m), rộng 10 thước (= 4m), nặng trên 7
tấn.[20] Vạc to tới
mức có thể nấu được cả con ḅ
mộng; trẻ con có thể chạy nô đùa trên thành
miệng vạc. Đến nay vẫn c̣n 3 trụ
đá kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh. Đáng
tiếc là tuyệt đại bộ phận các thành
tựu văn hóa thời Lư Trần đều đă
bị quân Minh tàn phá hết sức dă man. Chỉ
dụ của Minh Thành Tổ gửi Chu Năng và Trương
Phụ ngày 21-8-1406 có đoạn "Một khi
binh lính đă vào nước Nam th́ hết thảy
mọi sách vở văn tư, cho đến các
loại ca Lư dân gian, các sách dạy trẻ nhỏ,
một mảnh một chữ phải đốt
hết. Khắp trong nước các bia
do An Nam dựng th́ phải phá hủy tất cả,
một chữ chớ để sót lại ".
Chín tháng sau, Minh Thánh Tổ lại gửi chỉ du thúc
giục "Nhiều lần đă bảo các ngươi
rằng phàm An Nam có tất thảy sách vở văn
tu ǵ, kể cả các câu ca Lư dân gian, các sách dạy
trẻ, và tất cả các bia mà xứ ấy
dựng lên, th́ dù một mảnh, một chữ,
hễ trông thấy là phá hủy ngay lập tức
chớ để sót lại ". Theo Minh
sử th́ trong những năm xâm lược này,
chỉ tên quan hạng bét như Lưu Hiểu cũng
vơ vét được ở Việt Nam 93 chiếc
trống đồng đem về Tàu! Sang
đời Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo
làm quốc giáo. Phật giáo dần dần suy thoái.
Đầu thế kỉ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm
chấn hưng đạo Phật, xuống chiếu
chỉnh đốn việc cất chùa, cho cất các
chùa lớn đẹp, chọn các tăng nhân có
học thức và đạo đức cho coi chùa, song
v́ vua mất sớm nên việc này ít thu được
kết quả [Trần Trọng Kim 1973 q.11: 142]. Đầu
thế kỉ XX, đứng trước trào lưu Âu
hóa và những biến động về mọi
mặt của đất nước do sự giao lưu
với phương Tây mang lại, phong trào chấn
hưng Phật giáo đựợc dấy lên,
khởi đầu từ các đô thị miền Nam,
với vai tṛ quan trọng của các nhà sư Khánh Ḥa
và Thiên Chiếu. Vào những năm 30, các hội
Phật giáo ở Nam Ḱ, Trung Ḱ và Bắc Ḱ lần lượt
ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng.
Các cuộc tranh luận về tư tưởng
Phật giáo [21]đă diễn ra trên báo
chí hết sức sôi nổi. Cho đến nay,
Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ
đông nhất ở Việt Nam. Pho tượng
đồng lớn nhất đựợc đúc trong
thời hiện đại cũng là tượng
Phật - đó là pho tượng Phật Adiđà cao
4m, trọng lượng kể cả ṭa sen là 14
tấn, do phường đúc đồng Ngũ Xá
thực hiện trong 3 năm 1949-1952 hiện đặt
tại chùa Thần Quang làng Ngũ Xá (Hà Nội). Đạo
Phật thân thiết với người Việt Nam
đến nỗi dường như một người
Việt Nam nếu không theo một tôn giáo nào khác th́
ắt là theo Phật hoặc chí ít là có cảm t́nh
với đạo Phật. Theo số liệu
của Ban Tôn giáo Chính phủ th́ số tín đồ
Phật tử xuất gia khoảng 3 triệu người,
số thường xuyên đến chùa tham gia các
Phật sự khoảng 10 triệu người, số
chịu ảnh hưởng của Phật giáo
khoảng vài chục triệu người [Ban Tôn giáo
1993: 272]. 22.3. Tính tổng hợp và tính linh
hoạt như những đặc điểm của
Phật giáo Việt Nam.
22.3.1. Tính tổng hợp, đặc trưng
của lối tư duy nông nghiệp, Tính
tổng hợp, đặc trưng của lối tư
duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nỗi
bật nhất của Phật giáo Việt Nam. Khi vào
Việt Nam, Phật giáo đă tiếp xúc ngay với
các tín ngưỡng truyền thống của dân
tộc và, do vậy, đă được tổng
hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ
thống chùa "Tứ pháp" thực ra vẫn
chỉ là những đền miếu dân gian thờ các
vị thần tự nhiên Mây-Mưa-Sấm-Chớp
và thờ đá. [22] Lối
kiến trúc phổ biến của chùa chiền
Việt Nam là "tiền Phật hậu Thần"
với việc thờ trong chùa các thần, các thánh, các
vị thành hoàng thổ địa, các anh hùng dân
tộc. [Hiệp Hội DL 1995: 176]. Hầu như
không có chùa nào là không để bia hậu, bát nhang
cho các linh hồn, hồn vong đă khuất. Phật giáo
Việt Nam lại tổng hợp các tông phái
với nhau. Ở Việt Nam không có tông phái
Phật giáo nào thuần khiết. Tuy thiền tông
có chủ trương bất lập ngôn, song
ở Việt Nam chính các thiền sư đă để
lại khá nhiều trước tác có giá trị.
Ḍng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi th́ pha
trộn với Mật giáo, nhiều thiền sư phái
này, nhất là những vị sống vào thời
Lư như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không, đều nổi tiếng là
giỏi pháp thuật, có tài thần thông biến hóa,
Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặt
chẽ con đường giải thoát bằng tự
lực với con đường giải thoát bằng
tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh
độ tông (niệm Phật Adiđà và cầu
Bồ-Tát cứu vớt).
H́nh 22.3 Hàng
chục pho tượng Phật, Bồ Tát, A La Hán trên
bệ bàn thờ Chùa
miền Bắc là cả một Phật diện vô cùng
phong phú (h́nh 22.3) với hàng mấy chục pho tượng
Phật, Bồ Tát, La-Hán của các tăng phái khác
nhau. Riêng tượng Phật Thích-ca cũng đă
có tới 5 dạng: 1.
Thích-ca sơ sinh (thường gọi là Thích-ca
Cửu Long, do tích khi sinh có 9 con rồng đến phun
nước cho ngài tắm (h́nh 22.4). 2.
Tuyết Sơn (Thích-ca thời ḱ tu khổ hạnh
ở chân núi Tuyết Sơn, h́nh 22.5) 3.
Thích-ca đứng thuyết pháp, 4.
Thích-ca ngồi ṭa sen (loại tượng phổ
biến nhất) và 5.
Thích-ca nhập Niết-bàn (lúc sắp mất – h́nh
22.6).
H́nh 22.4 Tượng
Phật sơ sinh với chín rồng (Cửu Long) chung
quanh
H́nh 22.5 Thích
Ca - Tuyết sơn khổ hạnh (Chùa Mía - Hà Tây) Ở phía
Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết
hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang h́nh
thức tiểu thừa (thờ Phật Thích-ca, sư
mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lư Đại
thừa: bên cạnh pho tượng Phật Thích-ca
lớn th́ vẫn có nhiều tượng Phật
nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử dụng
đồ nâu và lam.
Sự
gắn bó giữ đạo với đời mật
thiết tới mức không chỉ có các nhà sư
tham gia vào chính sự, mà các thời Lư-Trần c̣n có
khá nhiều vua quan quư tộc đi tu (thiền phái
Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử).
Trong 6 thế hệ đệ tử của phái
Thảo Đường th́ đă có tới 9 người
là vua quan đương nhiệm.[24]
Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa Phổ
Minh, quê hương nhà Trần, lại cho dựng
chiếc vạc đồng lớn tượng trưng
cho quyền lực (một trong "An Nam tứ đại
khí", xem ở trên). Vẫn
với truyền thống gắn bó đạo với
đời, đầu thế kỉ XX. Phật
tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt
động xă hội (như cuộc vận động
đ̣i ân xá Phan Bội Châu và đám tang Phan Châu Âu
Trịnh). Thời đệ nhất và đệ
nhị Cộng Ḥa Tổng Thống Diệm-Thiệu,
Phật tử miền Nam đă tham gia tích cực vào
phong trào đấu tranh đ̣i ḥa b́nh và độc
lập dân tộc, nổi bật là sự kiện
Phật tử xuống đường đấu tranh
mà đỉnh cao là vụ ḥa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu tại Sài G̣n tháng
6-1963 phản đối nền độc tài chuyên
chế của gia đ́nh họ Ngô (h́nh 22.8) .
H́nh 22.8 Ḥa
Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu
tại Saigon - tháng 6-1936 22.3.2. Hài Ḥa Âm Dương của Phật-giáo Đặc
trưng nổi bật thứ hai của Phật giáo
Việt Nam là xu hướng hài ḥa âm dương
có phần thiên về nữ tính - đặc tính
bản chất của văn hóa nông nghiệp. Các vị
Phật Ấn Độ xuất thân vốn là
những vị Phật đàn ông, sang Việt Nam
biến thành Phật ông Phật bà. Có
những chùa Mường c̣n giữ những tên
gọi rất nguyên sơ: Bụt đực,
Bụt cái [Trần Lâm Biền 1989: 41].
H́nh
22.9 Phật Bà Quan Âm - Ngh́n mắt ngh́n tay (gỗ - chùa
Bút Tháp)
H́nh
22.10 Quan Âm tống tử (chùa Tây Phương, Hà Tây)
H́nh
22.11 Phật Bà chùa Hương - Hà Tây Việt
Nam có khá nhiều chùa miếu mang tên các bà: chùa
Bà Dâu, chùa Bà Đậu, chùa Bà Tướng, chùa Bà
Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh... Tuyệt
đại bộ phận Phật tử tại gia là các
bà Trẻ vui nhà, già vui chùa là nói cảnh các
bà. Chùa ḥa
nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi
phong cảnh hữu t́nh. Vui như chảy hội
chùa. Đất Vua, chùa Làng, phong cảnh
Bụt. Cảnh chùa hữu t́nh, hội chùa
vui, cửa chùa rộng mở, cho nên cũng là nơi
chở che cho bao đôi gái trai t́nh tự: Trai
chưa vợ nhớ hội chùa Thày.
Truyện thơ nôm lục bát Phan Trần dài
gần ngh́n câu kể về mối t́nh đắm say
của một đôi trai gái (một thư sinh
họ Phan với một ni-cô họ Trần) [26]dưới
mái chùa, mối t́nh lại được sư cô thông
cảm giúp đỡ. Ca dao Việt Nam có câu:
Đàn ông chớ kể Phan Trần. Đàn bà
chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. 22.3.3. Tính Linh Hoạt của Phật-giáo Tính
tổng hợp, tính hài ḥa âm dương có thiên
về nữ tính là những biểu hiện đa
dạng của truyền thống văn hóa nông
nghiệp. Bên cạnh đó, truyền thống văn
hóa nông nghiệp c̣n có tính linh hoạt.
Tính linh hoạt này đă khiến cho khi vào Việt
Nam, Phật giáo đă bị Việt Nam hóa một
cách mạnh mẽ. Ngay khi
Phật giáo vừa đặt chân vào Việt Nam, người
Việt Nam đă tạo ra một lịch sử
Phật giáo riêng cho ḿnh: Nàng Man, cô gái làng Dâu Hà
Bắc, một trong những đệ tử đầu
tiên của Phật giáo, trở thành Phật mẫu;
đứa con gái của nàng hóa thân vào đá trở
thành Phật tổ với ngày sinh là ngày Phật
đản 8-4. Vốn có
đầu óc thiết thực, người Việt Nam
coi trọng việc sống phúc đức, trung
thực hơn là đi chùa: Thứ nhất là
tu tại gia, thứ nh́ tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù
xây chín bậc phù-đồ, không bằng làm phước
cứu cho một người. Coi trọng
truyền thống thờ cha mẹ ông bà hơn là
thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ mới là chân tu (ca dao); đồng
nhất cha mẹ ông bà với Phật: Phật
trong nhà không thờ đi thờ Thích-ca ngoài
đường (tục ngữ). Vào
Việt Nam, Đức Phật đựợc đồng
nhất với những vị thần trong tín ngưỡng
truyền thống
Muốn
giữ cho Phật giáo ở măi bên ḿnh, người
Việt Nam nhiều khi phá cả giới luật.
Có những nơi, do muốn gặp ông sư gắn bó
với làng ḿnh để giữ chùa, cúng lễ, dân
làng đă tổ chức cưới vợ cho sư,
khiến cho ngôi chùa gần như trở thành một
gia đ́nh! [Thích Thanh Từ 1966: 66].
Muốn hiểu điều này, không thể dừng
lại ở h́nh thức của sự kiện, mà
phải đi vào nội dung. Việc các tôn giáo
thường cấm kị các "cán bộ"
của ḿnh xây dựng gia đ́nh chẳng qua là để
phụng sự việc đưa tôn giáo đến
với quần chúng đựợc tốt hơn.
Trường hợp của chúng ta tuy trái giới
luật nhưng lại đúng mực đích-giúp dân
làng gắn bó hơn với tôn giáo này. Đó
chính là biểu hiện của tính linh hoạt trong
Phật giáo Việt Nam! Người
Việt Nam giao tiếp theo nguyên tắc "xưng
khiêm hô tôn" (& 15.1.6) cho nên các vị
bồ-tát, ḥa thượng mà người Việt Nam
qúy trọng đều được tôn làm Phật
cả: Phật bà Quan Âm (vốn là bồ-tát).
Phật Di-lặc (vốn là ḥa thượng).
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền
ḥa của người Việt Nam với những tên
gọi rất dân gian: ông Nhịn Ăn Mà Mặc
(Thích-ca Tuyết Sơn gầy ốm —Xem trên h́nh
22.5), ông Nhịn Mặc Mà Ăn (Di-lặc
to béo—H́nh 22.13), ông Bụt Ốc (tượng Thích-ca
tóc quăn)... Nhiều pho tượng Phật tạc
theo lối ngồi chân co chân duỗi rất giản
dị, thoải mái (tượng Tuyết Sơn,
Phật bà chùa Hương). Trên đầu
Phật bà chùa Hương (h́nh 22.11 thiếu v́
mờ) c̣n lấp ló cả lọn tóc đuôi gà
truyền thống của người phụ nữ
Việt Nam. Ngôi chùa
Việt Nam được thiết kế theo phong cách
ngôi nhà Việt Nam với h́nh thức mái cong cổ
truyền có ba gian hai chái, năm gian hai chái... Chùa
Một Cột như một lễ vật dâng lên
Phật Bà với h́nh bông sen thanh thoát ở trên và
trụ đá biểu hiện ước vọng
phồn thực (no đủ và đông đúc) ở
dưới là một kiến trúc dân tộc độc
đáo. Mô h́nh này không chỉ có ở Chùa
Một Cột Hà Nội: cột đá chùa Dạm (Hà
Bắc) chạm h́nh đôi rồng chầu viên
ngọc và h́nh sông nước với 6 lỗ đục
trên đỉnh, với dấu hằn của một xà
ngang cho thấy điều này [Ngô Văn Doanh 1990].
Phật Di-lặc Việt Nam không chỉ độc
đáo ở danh hiệu "nhịn ăn mà
mặc ' mà c̣n được h́nh dung như
một người ông hiền từ với đàn
trẻ thơ bá vai bá cổ. Cùng
với mái đ́nh ngôi chùa trở thành công tŕnh quan
trọng ở mỗi làng. Người dân đi
bất ḱ đâu lỡ độ đường
đều có thể ghé chùa xin nghỉ tạm
hoặc xin ăn. Thành ngữ của chùa có nghĩa
là "của công"; từ đó mà sinh ra các
lối nói: làm chùa (không được trả công),
ăn chùa, học chùa (không trả tiền)... 22.3.4. Phật-giáo Ḥa Hảo Sự
cải biến linh hoạt (khả năng Việt Nam hóa)
trên cơ sở tổng hợp đạo Phật
với đạo ông bà đă tạo nên Phật và Ḥa
Hảo, hay đúng hơn là Đạo Ḥa
Hảo, mà giáo chủ là Huỳnh Phú Sổ. Huỳnh
Phú Sổ (1919-1947) quê ở làng Ḥa Hảo (Tân Châu,
Châu Đốc). Ông thuở nhỏ thông minh, nhưng
đau ốm nhiều, thường lên núi Tà Lơn trên
núi học hành tu đạo. Ngày 18-5-1939 ông đứng
ra khai đạo. Tên gọi "Ḥa Hảo"
vừa chỉ danh quê ông, lại vừa nói lên tinh
thần liên kết trên cơ sở hiếu ḥa và
giao hảo. Từ đó, Huỳnh Phú Sổ
đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng
tác thơ văn, kệ giảng. Đến
những năm 50, đạo Ḥa Hảo có trên 1
triệu tín đồ; sang những năm 70, lên
tới 2 triệu người [Ban tôn giáo 1993:
205][27], có cơ quan ngôn luận
(tạp chí Đuốc từ bi) và xuất
bản bộ kinh Sấm giảng thi văn toàn
bộ của Huỳnh Phú Sổ. Hàng trăm
thư viện của trên 30 quốc gia có lưu
trữ kinh sách, báo chí của đạo Ḥa Hảo
[Nguyễn Văn Hầu 1968: 269-284]. Đạo
Ḥa Hảo lấy pháp môn Tịnh Độ tông
làm căn bản, nối kết hợp với đạo
của dân tộc thờ ông bà tổ tiên mà đề
ra thuyết tứ ân (ơn): Ân tổ tiên cha
mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân
đồng bào và nhân loại. Trong
bốn ơn đó, ơn tam bảo đứng hàng
thứ ba, c̣n ơn cha mẹ được xếp hàng
thứ nhất. Đạo
Ḥa Hảo rất chú trọng giáo dục tinh thần
dân tộc, ư thức chống ngoại xâm (ơn đất
nước): "Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên
cha mẹ, sống ta phải nhờ đất nước
quê hương. Hưởng những tấc đất,
ăn những ngọn rau.... ta có bổn phận
phải bảo vệ đất nước khi bị
kẻ xâm lăng giày đạp. Ráng nâng đỡ
xứ sở quê hương lúc nghiêng nghèo và làm cho
đựợc trở nên cường thịnh. Ráng
cứu cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài
thống trị. Bờ cơi vững lặng thân ta
mới yên, quốc gia mạnh giàu ḿnh ta mới
ấm" [Nguyễn Văn Hầu 1968: 125- 126]. Đạo
Ḥa Hảo không chủ trương nghi lễ rườm
rà: Tín đồ Ḥa Hảo cúng Phật không có ǵ
khác ngoài đèn hương, nước lă và hoa
quả; không thờ tượng, không cúng bằng cá
thịt, vàng mă,....người tu tại gia có 3 nơi
thờ phượng là bàn Thông Thiên (ngoài sân) với
bàn thờ Ông Bà và bàn thờ Phật (trong nhà).
Nhưng ngay cả điều này cũng không nhất
thiết. Huỳnh Phú Sổ dạy tín đồ: "Nếu
trong nhà chật, nội bàn Thông Thiên với một lư
hương thôi cũng được, bởi v́
sự tu hành cốt ở chỗ trau tâm trỉa tánh
hơn là do sự lễ bái ở ngoài... Kẻ
nào ở chung đậu với người khác
hoặc cửa nhà nhỏ hẹp quá không có chỗ
thờ phượng th́... chỉ vái thầm và
niệm Phật trong tâm thôi cũng được"
[Nguyễn Văn Hầu 1968: 145]. Với giáo
Lư và cách hành đạo như trên, đạo Ḥa
Hảo chủ trương không có hàng giáo phẩm
và hệ thống tổ chức của đạo.
Sau này, khi đạo phát triển mạnh, những người
đứng đầu mới lập ra hệ thống
các ban trị sự từ trung ương đến cơ
sở; có những thời ḱ, do có tham vọng chính
trị lớn, họ c̣n lập ra lực lượng
vũ trang và đảng phái chính trị riêng. [1]
Trị v́ là bộ tộc Sakya (Thích-ca) tại một
vương quốc nhỏ ở vùng phía Bắc
Ấn Đọ ngày nay, giáp giới với Ne-pan. [2]
Về sau La Hầu La trở thành người giúp
việc cho cha, là một trong 18 vị hộ pháp. [3]
Mà sau này các sách thường ghi rằng Phật tu
ở núi Tuyết Sơn [4]
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Đại Hội
kết tập I không thông qua Luận tạng [Minh Chí
1993:202]. Về tác giả, người ta thường
cho rằng luận tạng là do các môn-đệ
của đức Phật khởi thảo về sau, nhưng
cũng có người cho rằng chính đức
Phật đă dậy những điều chính yếu
của phần này [Bùi Biên Ḥa 1994: 73] [5]
La Hán (=A La Hán, tiếng Sanskrit: Arbat) là người
đă thoát khỏi cảnh sanh tử luân-hồi, không
phải tái sinh nữa, xứng đáng được
tôn sùng. [6]
Tiếng Sanskrit: Bodhisattva có nghĩa là “giác ngộ chúng
sinh” [7]
Do danh từ Tiểu thừa ngụ ư chê bai không
đúng, khiến những người hiểu lầm
nên tại Hội nghị Phật-giáo quốc tế
tại Népal năm 1956, các vị lănh đạo
Phật-giáo, thế-giới đề nghị bỏ
danh từ “Tiểu Thừa” và thay bằng PHẬT
GIÁO NGUYÊN THỦY [8]
Tại Ấn-Độ Phật-giáo phát triển
nhất vào thời kỳ vua Asoka (khoảng
thế-kỷ III trước Công-nguyên). Từ
thế-kỷ V sau Công-nguyên. [9]
Dựa vào tích Chữ Đồng Tử gập và
học đạo từ một nhà sư Ấn-Độ,
Phan Lạc Tuyên [1993: 23] khẳng định
rằng thời điểm thâm nhập của đạo
Phật xẩy ra “chắc chắn từ trước
công nguyên hàng thế-kỷ” [10]
Tích này được kể trong Lĩnh Nam trích quái
và nhiều sách khác, Xem 13.2.1 và [Nguyễn Tài Thư
1988 Chủ biên Lịch-sử Phật-giáo Việt-Nam] [11]
Một trong những người được Khương
Tăng Hội truyền đạo chính là Ngô Tôn
Quyền. Có nhiều khả năng là từ Luy
Lâu, Phật-giáo đă truyền sang Bành Thành
(kinh đô nước Sở ở hạ lưu sông
Trường Giang thuộc tỉnh Giang Tô
ngày nay), rồi từ Bành Thành đến Lạc
Dương (Kinh đô nhà Đông Hán xây
dựng trên bờ sông Lạc, phía Nam sông Hoàng Hà,
thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) tạo nên ba
trung tâm Phật-giáo lớn của đế quốc Hán
đầu công nguyên [Nguyễn Tài Thư 1988] [12]
Sách c̣n lưu giữ trong bộ Hoằng minh tập
ấn hành vào thế-kỷ VI, các sách Tùy Chi và
Đường Chi đều có nhắc đến
cuốn Lư hoặc Luận này. [13]
Câu hỏi 14 nêu: “Tôi nghe dùng người Hạ (=
Trung-Hoa) để cải hóa giống người Di,
Địch chứ chưa từng nghe dùng người
Di, Địch để cải hóa người Hạ
bao giờ”. Tác giả trả lời “V́ không
đi đâu không biết nên tự cho ḿnh là nhất
thiên hạ, cũng giống như một người
chỉ mới thấy sông, suối mà chưa thấy
biển, mới thấy ánh sáng của đuốc mà
chưa thấy ánh sáng mặt trời; Đạo
Phật giống như mặt trời, Khổng, Lăo
chỉ là ngọn đuốc” [14]
Có tác giả cho rằng cả Bụt lẫn Phật
đều bắt nguồn từ tiếng Hán, v́ người
b́nh dân Việt-Nam không hiểu biết về Sancrit,
họ không thể có tài thẩm âm như sư săi
hoặc Nho sĩ, trong dân gian từ Phật có
tần số sử dụng cao hơn. Nhưng
chứng cứ này đều không đủ sức
thuyết phục: Đâu cần phải biết
một thứ tiếng, đâu cần đến “tài
thẩm âm” mới có thể phiên âm được
một từ! Khi có nhu cầu dùng một khái niệm
mới, người ta chỉ việc “nghe sao nói
vậy” theo những nguyên tắc ngữ âm theo
tiếng mẹ đẻ của ḿnh, cho nên Buddha (hai
âm tiết) mới được rút lại thành Bụt
(một âm tiết).Người Việt b́nh dân
đâu cần phải biết tiếng Pháp, đâu
cần tài “thẩm âm” mà vẫn phiên chuyển không
biết bao nhiêu từ tiếng Pháp sang tiếng
Việt? c̣n khi từ Phật vào và thay thế
dần cho từ Bụt th́ hiển nhiên, nó
sẽ được dùng ngày càng nhiều hơn.
[15]
Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần
Tung, là con Trần Liễu, bác của Trần Nhân Tông. [16]
Phái Trúc Lâm kế tục truyền-thống của các
nhà sư tu ở Yên Tử (mà khai sơn là sư
Hiền Quang) trước khi Trần Nhân Tông lên núi [17]
“Mục đích đi chùa không phải là để
cúng lạy, mà để học hỏi (tăng, ni) chánh
pháp, tập tu đức hạnh”. “Lạy Phật
không v́ van xin tha tội, không v́ cầu mong ban ân,
chỉ v́ quư kính…Lay Phật để thấy ḿnh c̣n
thấp nhỏ…Quư kính gương cao cả của
Phật để ḿnh nổi giận theo. Phước
đức lạy Phật là tại chỗ đó”
[Phật Pháp III: 370-373], [18]
Sách vở Trung-Hoa viết nhiều về Phật-giáo
Giao-Châu thế-kỷ này. Nhiều sĩ phu Trung-Hoa
đến nghiên cứu và thăm thú chùa chiền
Việt-Nam đă có thơ ca ngợi các nhà sư
ở đây. Các cao tăng được mời sang
kinh đô Trung-Hoa thuyết pháp cũng được
các thi sĩ Trung-Hoa hết sức mến mộ. Thi sĩ
Dương Cự Nguyên có bài Tống Phụng Đ́nh
pháp sư quy An Nam (Tiễn pháp sư Phụng Đ́nh
về An Nam) lời lẽ rất chân thành tha
thiết. Thi sĩ Cổ Đảo trong bài thơ Tống
An Nam Duy Giám pháp sư (Tiễn pháp sư Duy Giám người
An Nam) có đoạn cho thấy nhà sư Việt-Nam
đă giảng kinh riêng cho vua nghe; Giải kinh Xuân
Điện Lư. Hoa nhiều ngự sàng phi, Nam Hải
kỷ hồi qua gương vua, Đường Nam
Hải …Trở về ngọn núi xưa…) [Lê Văn
Siêu 1972: 391-396] [19]
Tiền thân chùa Một Cột ( 1 là Nội) sau này. Chùa
Diên Hựu xây năm 1049 với quy mô rất to
lớn. [20]
Theo tài liệu mới nhất là sách Nam Hà di tích và
thắng cảnh (Sở VHTT Nam Hà, 1994). Các tài
liệu trước đây thường ghi vạc
nặng 6150 cân ta (3,7 tấn) [21]
Nhưng đề tài tranh luận chính là: Thái độ
Phật tử là xuất thế hay nhập thế,
Phật-giáo là vô thần hay hữu thần, có linh
hồn hay không và quan hệ của nó với thể xác
thế nào?... [22]
Sự tích Man Nương kể rằng “Khi đẽo
tới giữa cây, chỗ ngày xưa sư dấu người
con gái, th́ chỗ ấy đă hóa ra một phiến
đá rất cứng. Búa ŕu của thợ đẽo
vào đều sị sứt mẻ hết. Mới
lấy phiến đá ném xuống nước,
phiến đá phóng xuất hào quang…Mọi người
…nhờ kẻ chài lặn xuống sông, vớt
phiến đá lên, rước vào điện Phật
mà thờ” [Nguyễn Tài Thư 1988:49] Có tài liệu
gọi phiến đá này là Thạch Quang Phật.
[23]
Nguyên văn chữ Hán: Vạn Hạnh dung tam
tế, Ưng phù cổ sấm ghi, Hương quan danh
Cổ Pháp. Trụ tích trấn vương kỳ. [24]
Các vua đệ tử phái Thảo Đường
gồm: Lư Thánh Tông (1054-1072), Lư Anh Tông (1138-1175), Lư
Cao Tông (1176-1210) [25]
Cũng như trường hợp Quan Âm Thị Kính,
trong dân gian tồn tại một câu chuyện thơ
rất dài về cuộc đời của bà chúa Ba
(công chúa thứ Ba) trải qua bao gian lao vất vả
để cuối cùng đắc đạo thành
Phật và được giao cai quản chùa Hương:
H́nh 22.9; là pho tượng đá tạc Bà tại
động Hương Tích với cốt cách rất
giản dị của người phụ nữ
Việt-Nam [26]
Thư sinh Phan Tất Chánh và ni-cô Trần Kiều Liên,
pháp danh Diệu Thường [27]
Ở một số vùng như Châu Đốc, An
Giang…số tín đồ của đạo này
chiếm tới 90% Thiện Ư – Bolsa & Tịnh Châu Re-Post ngày
10/6/2021 trên Hoa Tự Do “G groups” Thiện Ư - Bolsa & Tịnh Châu post ngày 24/5/2021 |