BIỆT SẮC ĐẶC THÙ CHỦNG VIỆT Chương III |
III/1 .- VẦNG
NHẬT Từ
thời thượng cổ, hầu như dân tộc nào
cũng quan tâm mặt trời và tôn thờ mặt
trời như một vị thần linh đầy
quyền năng và sức mạnh. Đó là điều
dễ hiểu. Tuy nhiên các dân tộc Miêu, Viêm về
sau gọi là Bách Việt cũng thờ vầng
nhật th́ có chi lạ?
Từ
những điêu khắc trên mặt trống đồng,
các học giả, triết gia ngày nay có nhiều cách
đọc để t́m hiểu xă hội Việt
của thời gian 1000 đến 7000 tr. CN (giai đoạn
văn hóa Bắc Sơn). Trước
nhất là đọc đúng theo những h́nh khắc
trên mặt trống, nhờ đó mô tả khá chính xác
các sinh hoạt xă hội Việt cổ như làm
nghề nông, trồng lúa, đă có cối xay lúa,
cối giă gạo cho trắng. Có chăn nuôi gia súc,
thuyền bè đánh bắt tôm cá. Nghệ thuật xây
cất nhà cửa, sân khấu có mái che, có màn kéo. Có
văn, thơ, ca, múa. Cách ăn mặc của dân chúng
trong các dịp hội hè. Từ đó có thể suy ra
các lănh vực khác như truyền thống sinh
hoạt xă hội, luân lư, đạo đức,
luật lệ, văn học nghệ thuật, nghề
nghiệp… Kế
đó là đọc theo con mắt triết học
từ những biểu tượng được tŕnh
bày trên mặt trống để biết được
quan niệm nhân sinh và vũ trụ của người
xưa… Triết gia Lương Kim Định cho
rằng trống đồng là cuốn sách cổ
đă lưu giữ lại toàn bộ tư tưởng
của tổ tiên Việt tộc. Ai
cũng biết, các dân tộc khác thờ mặt
trời với một ư nghĩa đơn thuần:
thần ánh sáng có nhiều quyền năng và sức
mạnh. Trong khi đó, các dân tộc Bách Việt
đă thoát ra ngoài quan niệm mộc mạc, đầy
mặc cảm tự ti đó. Tổ tiên Việt
tộc nh́n mặt trời như một biểu tượng
tinh thần, một cực trong Lưỡng Cực hay
một Tài trong Tam Tài của triết lư Nông nghiệp
Miêu tộc. “Nhân
giả kỳ thiên địa chi đức” (Người là
cái đức của Trời và Đất.) Đấy
là giá trị tột đỉnh của con người
Miêu, Viêm trong Nho khi nói tới mặt trời. Lệ
thường, khi nói tới Nho ta liền nghĩ
tới đức Khổng Phu Tử và cho rằng Nho
do ngài đặt ra. Sự thực, Nho không do đức
Khổng Phu Tử khai sáng, chính ngài đă viết
trong sách Trung Dung là ngài : “Thuật nhi bất tác”
ở đoạn khác ngài viềt “Khoan nhu nhĩ
giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường
dă quân tử cư chi” th́ ta nên hiểu rằng,
Nho vốn đă có từ trước ở phương
Nam mà ngài chỉ là người ghi chép lại chứ
không sáng tác. Trong
những phần trước, chúng tôi đă tŕnh bày,
văn hóa Trung Hoa là sự vay mượn mang tính
chiếm đoạt từ văn hóa truyền
thống và văn minh của các dân tộc Miêu
tức Viêm về sau gọi là Bách Việt đă
bị du mục Trung Hoa cổ xâm lăng. Do đó, xin
quư độc giả nên quên hẳn những ư nghĩ
cho rằng “Việt là man di, là Nam man… Từ ngàn xưa
Việt đă học lóm được văn minh
Tầu…” như 1000 năm qua người Việt
vẫn thường lầm lẫn khi nói tới
vấn đề này. Vậy Nho là ǵ, của ai và
xuất hiện từ bao giờ? Nếu
hiểu theo nghĩa uyên nguyên th́ Nho là đáp ứng
mọi nhu cầu thâm sâu của con người. Sách
Pháp Ngôn viết: Thông
Thiên Địa viết Nho (Thông được
với Trời, Đất tức là đáp ứng
được mọi nhu yếu thâm sâu của con người.) Tại
sao phải cảm thông với Trời, Đất
mới t́m được cái nhu yếu thâm sâu
hầu đáp ứng đời sống chân thiện
mỹ của con người? Bởi v́ người nông
nghiệp Đông Á cổ đại đă suy ra
rằng con người là một trong ba vị thế
quan trọng của vũ trụ: đó là vị
thế Tam Thông: Trời, Đất, Người…
Trời là chủ, Đất là chủ và Người
là chủ. Đức
Khổng Tử viết : Nhân
giả kỳ Thiên Địa chi đức, âm dương
chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tứ
khí. (Người là cái đức của
Trời, Đất, là giao điểm của Âm Dương,
là nơi Quỷ Thần tụ hội, là cái khí tinh
tế của Ngũ hành (năm vật chất đầu
tiên trong vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ rất cần thiết cho sự sinh hóa và
sống c̣n của vạn vật). Ngài
c̣n nhấn mạnh : Nhân
giả kỳ Thiên Địa chi tâm giả (Con người
là cái tâm của Trời Đất) Những
câu trên nói rơ vị thế của Người đối
với Trời, Đất: Con người là linh khí
của vũ trụ, là cái đức, là trung tâm…
của Trời Đất, của quỷ thần,
của âm dương. H́nh
như chưa vừa ḷng, ngài viết thêm : “Đạo
giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo,
nhân chi sở dĩ đạo giả”
(Đạo là ǵ? Trời không phải là đạo,
Đất không phải là đạo, Người
mới là đạo !)
Như
thế, quan niệm nhân sinh và vũ trụ của “người
quân tử cư ngụ ở phương Nam” đă
đưa vị thế con người lên tột
đỉnh : Đó là vị thế Nhân chủ Con
người không thể chỉ biết kêu xin Quỷ,
Thần hay nương tựa vào Trời và Đất
để chỉ ra cho ḿnh hay để cầu xin cho ḿnh
con đường sống mà chính ḿnh phải
biết xử dụng những thứ đó để
tạo lập hạnh phúc cho ḿnh. Để
h́nh dung Trời mang ư niệm tinh thần, tâm linh…
tổ tiên hiền triết Việt tộc vẽ h́nh
tṛn (biểu tượng) hay hiện thực bằng
chiếc bánh dầy cắt ra từng khoanh tṛn, h́nh tṛn
của đồng tiền cổ, mái nhà cong… Để
đối lại với Trời, khi nói tới Đất,
vật chất, lư trí… các cụ vẽ h́nh vuông hay
cái bánh chưng, cái lỗ h́nh vuông trên đồng
tiền cổ, cái nền nhà, chiếc bánh chưng…
Thực là huyền diệu khi người Việt chúc
người sản phụ bằng câu: “mẹ tṛn
con vuông” vừa để nói lên ḷng mong ước
sự vẹn toàn trong việc sinh con của người
mẹ vừa minh xác sự xuất hiện của con
người vừa lọt ḷng mẹ là thành quả
của sự tụ hội Trời Đất, Quỷ
Thần, Âm Dương… Con
người ấy từ khi lọt ḷng mẹ cho đến
khi tắt thở được người xưa mô
tả như kiếp người đang đi trên
một đoạn nào đó của con đường
thiên lư. Con Người ấy, đầu đội
trời chân đạp đất, an nhiên tự
tại, biết rơ và làm chủ con đường anh
hay chị ấy đang tiến bước trong
trời đất bất tận để t́m về
chân thiện mỹ. Vậy trước khi sinh ra trong h́nh
hài một đứa bé, sinh vật ấy đă là cái
ǵ? Sau khi thân xác ấy tàn lụi, sinh vật đó
sẽ là cái ǵ? Đi về đâu? Các
tôn giáo lớn trên địa cầu và tổ tiên
Việt tộc đă nói về sinh vật kỳ
diệu đó: Đó là linh hồn, thần hồn hay
nói nôm na là ba hồn chín vía, là phách… Công
giáo tŕnh bày linh hồn bằng h́nh ảnh:
Thiên chúa thổi hơi vào Adam để tạo nên
nguồn sống. Vậy hơi thở Thiên chúa
được coi như khởi thủy của linh
hồn con người Thiên chúa giáo. Nếu là người
công chính, khi nhắm mắt xuôi tay, linh hồn ấy
sẽ trở về với Thiên chúa. Phật
giáo tŕnh bày linh hồn bằng h́nh ảnh
kiếp luân hồi. Nếu con người diệt
được tham sân si, chăm lo hành thiện, nói
chung là giác ngộ lời đức Phật, linh
hồn ấy sẽ thoát được kiếp luân
hồi tức là được giải thoát và đạt
được cơi vô cùng của niết bàn. Người
Dravidian, một ḍng cư dân ở vùng Tây
Bắc Ấn Độ cách đây 3200 năm trở
về trước, và đạo Ấn Độ
(Indu) ngày nay, định nghĩa linh hồn như
một phần chi thể của Purusa đại ngă
(Thượng đế) thoát ra, thâm nhâp vào phôi thai mà
làm người. Con người đó phải toàn
thiện để trở về với Purasa đại
ngă. Cả
ba tôn giáo trên đều kêu gọi con người
phải cầu nguyện, diệt dục, thi hành bác ái…
mới đạt được cơi vĩnh hằng.
Chắc chắn, không phải ngẫu nhiên mà nhân
loại đă có những lư giải về linh hồn
một cách khá trùng hợp như vậy. C̣n
văn hóa Miêu tộc cổ th́ sao?
Người
là một kết hợp hoàn mỹ của tinh thần
và lư trí, của linh hồn và thể xác… Hai nguyên
lực này khi tương nhượng, khi lấn ép nhưng
luôn luôn hài ḥa cân bằng đến mức tuyệt
đỉnh. Chẳng những thế, trong âm luôn luôn
có dương và trong dương luôn luôn có âm. Đó
là một sự gắn bó chặt chẽ của hai
nguyên lực để tạo nên một bản
thể toàn vẹn cũng gọi là Nhân bản Toàn
diện. Đó
là nền tảng, là khởi điểm của
triết lư Nhất nguyên Lưỡng cực và
triết gia Lương Kim Định gọi là
triết lư An Vi. Trong
phần cuối của chuyện ông Bàn Cổ*,
được mô tả như sau: Khi ông Bàn Cổ
chết, hai con mắt ông biến thành mặt
trời và mặt trăng. Máu ông chảy ra thành sông,
hồ, biển cả. Xác ông ră ra thành đất, thành
núi. Lông tóc đâm rễ xuống đất mọc lên
thành rừng cây bạt ngàn c̣n những con vật
sống trên cơ thể ông trở thành loài người…
Như thế, người xưa coi mặt trời là
thành quả cao nhất mà con người đă tu
luyện để đạt hạnh phúc và soi
rọi cho con cháu, hậu thế… *
Chuyện ông Bàn Cổ chúng tôi có bàn kỷ ở chương
5. Ở đây chúng tôi chỉ xin trích đoạn
để dẫn chứng mặt trời với con người
Nhân bản toàn diện mà thôi. Chuyện
ông Bàn Cổ là một chuyện mang tính biểu tượng,
tính ẩn dụ rất cao độ của các dân
tộc nông nghiệp Miêu, Viêm về sau gọi là Bách
Việt. Con người Nhân chủ khi chết đi
vẫn hiện diện một cách mật thiết
với vũ trụ và hậu thế qua h́nh ảnh
mặt trời, mặt trăng, đất nước,
biển cả, rừng cây và nhân loại. Đoạn
văn kể câu chuyện có vẻ thô sơ đó
đă phác họa những tư tưởng khởi
đầu cho một minh triết cực kỳ uyên thâm,
chủ đạo đời sống con người
Đông Á: triết lư Nhân chủ với mẫu người
Nhân bản Toàn diện. Khi sống là một con người
biết sống trong tinh thần làm chủ. Khi
chết, vẫn tiếp tục là một hữu ích
cho hậu thế và tồn tại với vũ
trụ như mặt trời, mặt trăng… hay
trở về với thần linh theo quan niệm tôn giáo. Như
thế, biểu tượng Vầng nhật của văn
hóa nông nghiệp Miêu, qua đoạn chót chuyện ông
Bàn Cổ, mặt trời không phải là một
vị thần đầy quyền uy, sức mạnh mà
là một gương thành công của con người:
Sau khi chết, một con mắt của ông Bàn Cổ
biến thành mặt trời. Ông Bàn Cổ, mẫu người
trượng phu ấy, đă biết sống sao cho
đáng sống, đă biết chết sao cho đáng
chết vậy. Theo
dịch lư, miền Nam thuộc hỏa, biểu tượng
của mặt trời trong dịch là quẻ ly, ly vi
nhật (mặt trời màu đỏ). Tên nước
ta từ xưa đến nay đa số đều
chọn danh xưng liên quan mật thiết với
quẻ ly như : Xích Quỷ (xích là đỏ),
Nam Việt, Đại Nam, Việt Nam (phương
Nam thuộc hỏa, ứng vào quẻ ly) cho đến
cả màu đỏ truyền thống đều luôn
luôn hướng về quẻ ly này. Thời triều
đ́nh vua Bảo Đại dùng cờ long tinh (cờ
vàng có một sọc đỏ ở giữa),
thời chính phủ Trần Trọng Kim dùng cờ
quẻ ly (cờ vàng ở giữa có chữ ly
gồm 2 sọc đỏ hai bên, sọc đỏ
ở giữa th́ tách làm hai đoạn), thời chính
phủ quốc gia Việt Nam rồi đệ I và
đệ II Việt Nam Cộng Ḥa th́ có cờ vàng ba
sọc đỏ. Màu đỏ mặt trời đúng
là mầu truyền thống của Việt tộc
từ cổ chí kim không bao giờ thay đổi. Người
xưa đă dựa vào trời để tŕnh bày
những suy tư của họ: Trời có một giá
trị linh thiêng, luôn luôn sinh động, soi rọi và
liên hệ với người vô cùng chặt chẽ,
thân thiết như cha mẹ, ông bà, tổ tiên đối
với con cháu: 1.
Trời sinh trời dưỡng 2.
Trời cho cầy cấy đầy đồng, 3.
Trời sinh trâu th́ sinh cỏ, 4.
Trời nắng rồi Trời lại mưa 5.
Trời chưa cho lúa chín vàng 6.
Trời mưa lác đác ruộng dâu 8.
Trời cao đất rộng bao la, 9.
Trời Đất hương hoa, 10.
Trời mưa th́ mặc trời mưa Từ
những câu ca dao, phong dao trích dẫn nêu trên, vầng
nhật quả là một h́nh ảnh gắn bó, thân
thiết như t́nh cha mẹ, ông bà đối với
con cháu. Biệt sắc Việt tộc ấy thực là
hiếm quư và khó t́m thấy ở bên ngoài vùng đất
Đông Á. Nó gắn liền với đời
sống con người Việt tộc từ cổ
đến kim trong tục ngữ, phong dao, ca dao, hội
họa dân gian, trên các đồ đá, đồ
gốm. đồ đồng cổ… III/2 .- TIÊN
RỒNG Khi
tŕnh bày biệt sắc Tiên Rồng thiết tưởng
cũng nên mời quư độc giả thưởng
thức lại câu chuyện kỳ lạ mà tổ tiên
chúng ta đă để lại. Đó là chuyện
Họ Hồng Bàng: “Theo
tục truyền, vua Đế Minh là cháu ba đời
vua Thần Nông Đế Viêm, khi đi tuần thú phương
Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (năm dăy núi
lớn ở phía Nam Trung Hoa ngày nay, chúng nằm
vắt ngang từ Tây sang Đông) th́ gặp
một nàng Tiên. Hai người lấy nhau và sinh
hạ một người con đặt tên là Lộc
Tục. Sau đó Đế Minh truyền ngôi lại
cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương
Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam.
Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương,
quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cơi nước Xích
Quỷ bấy giờ Bắc giáp Động Đ́nh
Hồ (Hồ Nam), Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và Đông giáp
bể Nam Hải. Kinh
Dương Vương Lộc Tục làm vua nước
Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 tr.CN),
lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ và
sinh ra Sùng Lăm. Sùng Lăm nối ngôi vua xưng là Lạc
Long Quân. Lạc
Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con vua Đế
Nghi nước Xích Thần) là công chúa Âu Cơ. Bà Âu
Cơ sinh ra một bọc trứng, nở ra 100 người
con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là
ḍng dơi Rồng, nàng là ḍng dơi Tiên nên ăn ở
với nhau lâu không được. Nay được
100 đứa con th́ nàng hăy đem 50 đứa lên núi,
c̣n 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải”. Người
con trưởng Lạc Long Quân được bà Âu Cơ
phong làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương,
đóng đô ở Phong Châu (bây giờ là huyện
Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng
Văn gọi là Lạc hầu, tướng Vơ gọi
là Lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan lang, con
gái vua gọi là Mỵ nương, các quan nhỏ
gọi là Bố chính. Quyền chính trị th́ cứ
cha truyền con nối. Họ Hồng Bàng làm vua
được 18 đời, đến năm Quư Măo
(258 tr.CN) th́ bị nhà Thục lấy mất nước”.
Đấy là huyền sử Tiên Rồng Theo
các học giả trên thế giới, truyền
thuyết, huyền sử, nhân thoại hay thần
thoại thường được người xưa
dựa vào lịch sử để gửi gấm tư
tưởng của ḿnh… Do vậy, trong truyền
thuyết, huyền sử hay nhân thoại vừa có
phần nào giá trị lịch sử lại vừa
mang giá trị tư tưởng trong đó. Bởi v́
vào thời gian đó, loài người chưa có
chữ viết hoặc đă có nhưng c̣n sơ khai
không đủ để diễn đạt tư tưởng
hoặc từ ngữ mang tính trừu tượng. Cũng
có thể v́ chính quyền đương thời
cấm đoán mà người xưa phải chuyển
qua phương thức chuyện cổ hay huyền
sử, nhân thoại để truyền bá trong
cộng đồng dân tộc. Chuyện Tiên Rồng là
một tỷ dụ điển h́nh. Vậy chuyện
Tiên Rồng đến với dân Lạc Việt vào
thời điểm nào? Lư do nào đă thúc đẩy
người xưa phóng tác từ lịch sử ra câu
chuyện kỳ lạ đó? Trong
Chương II, chúng tôi đă đối chiếu
chuyện Tiên Rồng với cuộc liên minh quân
sự các bộ tộc nông nghiệp nước Xích
Quỷ để cứu viện nước Xích
Thần. Cuộc hôn nhân giữa công chúa Âu Cơ và
Lạc Long Quân có tính cách cổ vũ tinh thần
đoàn kết giữa hai nước Xích Thần và Xích
Quỷ trong cuộc kháng chiến chống du mục Hoa
tộc tại Trác Lộc năm 2704 trước CN. và
xác minh nguồn gốc, văn hóa truyền thống
của cư dân nông nghiệp Miêu tộc. Đấy
là một trong những cái khiêng của Việt
tộc cố chống lại chủ trương xóa
bỏ văn hoá của cường lực Hoa tộc
quyết tâm làm cho Việt tộc quên đi dĩ văng
của họ. B́nh
thường, khi những biến cố lịch sử
làm cho một số truyền thống văn hóa quan
trọng dần dần đi vào tàn lụi, quên lăng,
th́ xă hội có nhu cầu duy tŕ giai đoạn
lịch sử hay văn hóa ấy bằng cách : 1.-
San định (sắp xếp gọn gàng, có hệ
thống và loại bỏ những tin tức sai
lầm…) những tin tức lịch sử họ
thu thập được như Khổng Tử đă
làm khi nhà Chu đi vào li loạn v́ chiến tranh
giữa các chư hầu khiến luân lư, đạo
đức suy đồi… 2.-
Đưa vào vè, vào kinh, hát nói, ca dao, ru em, phong dao
hoặc hội họa, điêu khắc…
kêu gọi bảo tồn các giá trị văn hóa dân
tộc như người Việt hải ngoại
đă làm khi rời khỏi quê hương trốn
chạy cộng sản… 3.-
Dựa vào biến cố lịch sử đó để
gửi gấm tư tưởng của tiền nhân
hay của đương thời bằng cách phóng tác
thành truyền thuyết, huyền sử, nhân thoại,
để giáo dục và lưu truyền cho hậu
thế. Tôi
tin chắc rằng, trong thời đại Hùng-vương,
“lịch sử Tiên Rồng” đă được
kể đầy đủ và trung thực. Tuy nhiên cho
đến khi Hoa tộc hoàn thành việc nuốt
trọn vùng đất cuối cùng của Việt
tộc, th́ chủ trương đồng hóa của
Hoa tộc được thi hành triệt để.
Nguồn gốc và văn hóa Bách Việt là mục tiêu
quan trọng nhất mà các triều đ́nh Trung Hoa
phải xóa bỏ. Phải làm cho dân Việt quên
hẳn quá khứ của dân tộc. Phải cắt
đứt mọi liên hệ văn hóa của con cháu
Bách Việt với tổ tiên của chúng. Phải
hạ giá trị chúng xuống hàng Man di, Nam man.
Phải làm cho chúng đời đời không ngóc
đầu lên được!! Do vậy, “Lịch
sử Tiên Rồng” bằng mọi giá phải bị
đàn áp, phải ch́m vào bóng tối. V́ thế, “Huyền
sử Tiên Rồng” liền được người
xưa thay thế để vừa bảo vệ tài
nguyên tư tưởng của cha ông vừa duy tŕ
nguồn gốc dân tộc. Những
ǵ du mục Hoa tộc đă làm ở Đông Á đều
giống hệt du mục Ariyan (Ấn Âu) khi xâm lăng
Ấn Độ đă đối xử với dân
tộc Dravidian cổ. Du mục Hébreux (Do Thái cổ)
khi tiến vào đất Palestin c̣n dă man hơn du
mục Hoa tộc và du mục Aryian. Dân Hébreux (Do Thái)
có chính sách tiêu diệt văn hóa các dân tộc
bị họ xâm lược vô cùng tàn độc,
được ghi vào kinh thánh của họ: Dân Hébreux
chiếm được thành nào ở vùng Palestin th́ tàn
sát toàn bộ nam, phụ, lăo, ấu kể cả
đàn bà mang thai… cho đến cả ḅ, cừu, dê,
lừa, ngựa, chó… thành tŕ, cung điện, đền
thờ. nhà cửa dân chúng… Nói chung, họ hũy
diệt tất cả, chỉ để lại mặt
đất trống trơn cho dân Hébreux (Do Thái)
ở!! Dù vậy, đôi khi v́ dân bản xứ quá
đông, hoặc họ bỏ trốn vào sa mạc
khiến người Hébreux không giết hết
được. Về sau, cứ mỗi lần có
chiến tranh nổi dậy của người bản
xứ cũ, dân Do Thái lại đổ lỗi cho
tổ tiên của họ đă không giết hết người
bản xứ!!… (kinh Cựu ước đồng
thời là sách lịch sử của Do Thái). Ngược
lại, trong các cuộc xâm lăng Đông Á của
Hoa tộc, có lẽ Miêu tộc c̣n sống sót là
nhờ đất đai của người Miêu
rộng mênh mông. Miêu dân lại đông xấp ngàn
lần Hoa tộc nên họ không thể giết
hết mà phải giữ các ngài làm nô lệ cho
họ và đồng hóa dần dần th́ có lợi hơn
là giết tiệt giống như Do Thái đă làm trên
mảnh đất tư teo Palestin. Quả nhiên, chính sách
đồng hóa của Hoa tộc đă biến 95% Miêu
dân thành Trung Hoa (ngày nay). C̣n lại không tới 5% là
Lạc Việt, sau 1000 năm nô lệ và suưt bị
đồng hóa đă thoát ra khỏi xích xiềng mà
dựng lại cơ đồ Đại Việt sau
đó. Nhờ
có huyền thoại Tiên Rồng mà dân tộc Việt
Nam có một khẩu hiệu đoàn kết cực
kỳ quan trọng trong công tác dựng nước và
giữ nước. Tuy
nhiên, du mục Hoa tộc lại thua xa cái thật thà
rất đáng khen của người La Mă. Khi quân La
Mă xâm lăng Hi Lạp và nhờ học được
văn minh Hi Lạp mà họ trở nên cực kỳ
cường thịnh. Trước sau, các sử gia La Mă
tự nhận rằng người La Mă học
được của Hi Lạp, nhờ Hi Lạp mà
họ trở nên giàu mạnh, văn minh… và họ
truyền bá văn minh đó ra khắp thế
giới. Nền văn minh Hi Lạp nhờ đó
được vinh danh và tồn tại cho đến
ngày nay. Từ
huyền thoại Tiên Rồng mà cổ nhân đă
chuyển từ bước ngoặc chiến tranh Trác
Lộc (2704 tr.CN) chúng tôi xin góp ư như sau : Các
dân tộc trên thế giới có thói quen chọn cho dân
tộc ḿnh một vật biểu tượng và xây
dựng chung quanh biểu tượng đó một
huyền thoại nhằm đề cao nguồn gốc
của dân tộc họ. Người Pháp th́ có con gà
cồ, Anh th́ sư tử, Nga th́ gấu trắng,
Đức có chim ưng, Ấn Độ có rắn, Lào
có voi, Hoa tộc có cọp trắng (sau khi chiếm hai
nước Xích Thần và Xích Quỷ (rồng đỏ)
th́ người Trung Hoa lấy rồng thay cọp)…
Hầu hết mọi dân tộc chỉ dùng độc
nhất một vật biểu tượng thuộc
loại hùng mạnh của cường lực du
mục. Chỉ riêng Việt tộc là có hai biểu tượng
là Tiên và Rồng , mang cái lăng mạn tính
của người nông nghiệp Đông Á đồng
thời ẩn dấu trong đó một triết lư
cực kỳ uyên nguyên, tuyệt diệu. Các
nhà nghiên cứu triết học Đông Á gọi Tiên
Rồng là biểu tượng cao nhất, vi tế
nhất của “nét song trùng” . Và, phải chăng
nhờ nét song trùng hiện diện hầu như trong
mọi lănh vực mà ngôn từ của người
Việt trở nên phong phú và mang tính lăng mạn
rất cần có của những nhà thơ, nhà văn
! Khởi
đầu, người ta thấy nét song trùng này
khắc vào những viên đá cuội t́m được
trong các ngôi mộ rất cổ ở Bắc Sơn
(Thái Nguyên) mà từ lâu, các nhà nghiên cứu ở
Viện Bác cổ Hà Nội chưa hiểu được
ư nghĩa nhưng lại rất phổ cập trong
đại chúng Việt Nam xưa cũng như ngày
nay. Nó bám chặt vào đời sống dân Việt như
h́nh với bóng trong ngôn ngữ và tập quán sinh
hoạt nhân gian… Nét song trùng đi vào tiếng nói
tạo thành một biệt sắc ngôn ngữ Việt
tộc một cách kỳ diệu, duyên dáng hầu như
không nước nào trên thế giới có truyền
thống ngôn ngữ song trùng này: đất nước,
làng xóm, non sông, ruộng vườn, nhà cửa, bàn
ghế, chén đũa… hay ông bà, cha mẹ, thầy
tṛ, vợ chồng, con cái, trai gái, cháu chắt, chú bác,
cô d́… hay chơi đùa, ca hát, hội hè, ăn
uống… hay xanh xanh, đo đỏ, trăng
trắng… hay thoang thoảng, bồng bềnh, thơm
thơm, thui thúi… Có thể nói, hầu như bất
cứ một từ nào cũng có thể kẹp thêm
một từ đối nghĩa, đồng bộ hay
đồng âm đi kèm để tạo ra âm song trùng
truyền thống đặc thù của người
Việt. Trong
tập quán, khi đă có bánh th́ có trái, có cau th́ có
trầu, có xôi th́ có chè, có rượu th́ có trà, có
trống th́ có chiêng, có hội phải có hè, có
cờ phải có quạt… Triết
lư Nhất nguyên Lưỡng cực đặt con người
vào phạm trù xử thế có t́nh lư, có nhu cương,
có tinh thần vật chất… để đạt
được tối đa thái ḥa th́ biệt
sắc song trùng đi vào hiện thực trong cùng
khắp đời sống Việt tộc. Nét song trùng
vừa xuất hiện tràn ngập, vừa thâm sâu
đến độ trở thành vật biểu Tiên
Rồng. Con
người Việt tộc được sinh ra, nuôi
dưỡng và dẫn dắt tiến lên con người
Nhân bản Toàn diện vừa bởi Tiên trên
trời vừa bởi Rồng dưới nước.
Sách
Nhân Chủ của Triết gia Lương Kim Định
bàn về Tiên Rồng như sau: “Đó
chính là hai cột trụ chống đỡ ṭa nhà văn
hóa Việt tộc. Nó đem lại cho nền văn hóa
này nét đặc trưng vô cùng quư giá mà không
một nền văn hóa nào có, ít ra là đến
độ sáng chói như thế. Các học giả
gọi đó là “Nét song trùng biểu thị lưỡng
hợp tính” (Dual unit). Lưỡng hợp tính nếu
nói theo khoa học, là dây nóng và dây lạnh của
điện lực hay là hai cực Nam, Bắc của
thỏi nam châm hoặc là proton và electron trong nguyên
tử hay trong thuyết tương đối của
Einstein : “Không, Thời nhất phiến” nghĩa là
không gian và thời gian đúc lại thành một
(Space time continueum). Đây
là một khám phá cực kỳ mới lạ; v́ trước
kia, người ta quan niệm không gian và thời gian
như hai thực thể đứng rời nhau. Einstein
khám phá KHÔNG và THỜI luôn luôn ḥa hợp như hai
sợi chỉ ngang dọc dệt trên tấm vải. Và
từ đó, KHÔNG, THỜI được coi như
những viên gạch xây nên vũ trụ. Thuyết
tương đối của Einstein đă phá vỡ
tận gốc rễ văn hóa Tây phương vốn
chỉ xây dựng trên độc nhất một
cực KHÔNG mà bỏ THỜI. Do đó, triết lư Tây
phương tuy rất đồ sộ nhưng đă
không xây dựng được một nền
triết lư nhân sinh”. Một
trong những triết gia nổi tiếng của Tây phương
hiện nay, ông Heidegger khi b́nh luận câu “Người
là con vật biết suy lư” của Tây phương
ông chua chát viết một câu thật thê thảm: “Văn
hóa Tây phương truyền đến đâu th́ gieo
máu và nước mắt đến đó!” III/2A
.- Một bài thơ cổ diễm lệ ảnh hưởng
từ tư tưởng Tiên Rồng: Trong
hai nền văn học Trung Hoa và Việt Nam có
truyền tụng một bài thơ cổ rất
diễm lệ. Bài thơ tŕnh bày tâm sự của
một thiếu phụ Bách Việt cổ có chồng
đi hành quân xa đă cho tôi một vài suy nghĩ
“vui vui”. Nhân đây xin lạm bàn bài thơ ấy
để quư độc giả thưởng thức cái
thâm trầm của người xưa. Đó
là bài: “Cộng Ẩm Tương Giang Thủy”
Lệ
thường, những tác phẩm thi ca cổ, nếu
không đạt tới một giá trị tuyệt
vời, đi vào ḷng đại chúng, th́ khó có
thể tồn tại với thời gian. Thảng
hoặc, dù vẫn c̣n tồn tại nhưng cũng
chỉ được lưu hành trong giới thi nhân yêu
chuộng thơ cổ mà thôi. Riêng
bài thơ “Cộng Ẩm Tương Giang Thủy”
th́ khác. Tự nó kết liền với thơ văn
Việt tộc một cách đậm đà, mật
thiết hầu như ai cũng lỏm bơm nhớ vài
câu chữ Nho hoặcbài thơ dịch Việt ngữ
. Bài
thơ này xuất hiện từ thời Chu khoảng năm
700 tr. CN. Thời gian này các tộc họ Bách Việt
cổ ở cực Bắc Văn Lang không c̣n tôn
phục các vua Hùng Vương ở Phong Châu nữa.
Họ ly khai nước Văn Lang, nối đuôi nhau
lập thành thành nhiều nước Việt phương
Nam (Nam Trung Hoa) như Sở, Việt Thường, Dương
Việt, Mân Việt, U Việt, Việt (Việt Câu
Tiễn) , Nam Việt, Quí Việt, Tây Âu, Đông Âu,
Thục, … triều đ́nh các nước Việt tân
lập này được tổ chức theo truyền
thống du mục Trung Hoa nghĩa là thực tiển và
cường lực thống trị xă hội. Họ
đem quân đánh nhau liên tục (cùng thời với
giai đoạn Chiến quốc) chỉ với mục
đích chiếm đất dành dân và làm bá chủ
thiên hạ. Dù vậy, truyền thống văn hóa
của các nước này vẫn c̣n đậm nét
Việt tộc trong đời sống dân chúng. Trong
số này nước Sở thành h́nh sớm nhất và
là một nước lớn, hùng mạnh; kế đó
là nước Việt Quốc của Việt Câu
Tiển đă từng làm bá chủ chư hầu
cả 100 năm. Khởi đầu, tất cả các
nước nói trên nằm trong quốc gia Văn Lang
(từ 2704 tr.CN) đến thời nhà Chu (1109 tr.CN).
Kể từ giai đoạn này các địa phương
phía Bắc Văn Lang đă dần dần ly khai
khỏi chính quyền trung ương của các Hùng vương
mà lập ra những nước mới như đă
kể trên. Chúng tôi nghĩ rằng bài thơ này
xuất hiện trong giai đoạn chiến tranh
giữa các nước Việt (tân lập) nầy. Chàng
là một chiến sĩ trẻ tuổi tên là Lư Sanh
đang hành quân trong vùng Ngũ Lĩnh Sơn. Vợ chàng
là một thiếu phụ hiền thục, xinh đẹp
tên Lương Ư Nương . Nhà của vợ
chồng nàng ở cuối sông Tương. Mọc dài
theo hai bên bờ Tương Giang là những khóm trúc vàng
rất đẹp, thân trúc đan vào nhau san sát. Đặc
biệt giống trúc này có những mắt trúc
rất ngộ nghĩnh, trông giống như mắt người! Một
chiều Thu, bầu trời một màu xanh trong vắt,
đây đó những cụm mây bàng bạc trôi
lững lờ theo chiều gió. Lương Ư Nương
dạo bước dọc theo bờ sông Tương
Giang mà ḷng nặng trĩu t́nh riêng. Nàng chọn
một phiến đá dưới bóng trúc rồi vén
áo ngồi lên. Ḍng sông chảy lững lờ mang theo
những lá trúc, từng chiéc, từng chiếc, rơi
nhẹ trên mặt nước trông như những
chiếc thuyền nan mong manh, bập bềnh trên
biển cả. Ḷng Lương Ư Nương buồn
vời vợi nhớ thương người
chồng xa vắng đă lâu. Chồng nàng đang hành
quân ở thượng nguồn Tương Giang núi Ngũ
Lĩnh. Đă mấy Thu trôi qua trong cô liêu, khắc
khoải, nàng vẫn chưa được tin tức
của chàng. Nhưng
Lương Ư Nương vẫn luôn tin rằng ở
đầu nguồn ḍng Tương Giang này chắc
chắn Lư Sanh vẫn mạch khỏe, vẫn luôn
nhớ tới nàng… Niềm tin đó giúp cho nàng an tâm
chờ đợi ngày chàng trở về. Chợt
nàng thấy thấp thoáng dưới làn nước
trong veo có cái ǵ rất lạ… đúng rồi, nó như
những con mắt ai đang nh́n nàng đăm
đăm. Nàng quay đầu nh́n sâu xuống ḍng sông.
Ô ḱa! Lấp lánh trong ḍng nước gợn sóng,
đôi mắt của Lư Sanh đang nh́n nàng như tha
thiết, như tŕu mến!… Nàng dụi mắt nh́n
kỹ, không phải một đôi mắt, mà là hàng
chục, hàng trăm con mắt lẫn lộn bên
cạnh những lóng trúc vàng khi ẩn khi hiện trong
ḍng nước xanh biếc! Rồi…
nàng cũng nhận ra, đấy là những “mắt
trúc” phản chiếu trên mặt nước mà v́ quá
mẫn cảm, nàng đă liên tưởng đến
đôi mắt người yêu. Cảm
xúc dâng lên từ những con mắt thiết tha
ấy, nàng giang hai tay, với ra ḍng nước,
vốc lấy một vụm nước mát rượi
mang h́nh đôi mắt người yêu. Nàng tŕu
mến đưa lên miệng uống bằng cả
tấm ḷng nhớ thương vô bờ. Nàng nghĩ
rằng, ở đầu nguồn trên kia chàng cũng
đang nh́n nàng, cùng uống với nàng ḍng nước
Tương Giang… và chàng cũng đang nh́n thấy
những con mắt thương nhớ của nàng
đang nh́n chàng… Đạt
được sự cảm thông tuyệt vời
với người yêu, nàng trở về nhà trong
niềm vui nhẹ nhàng, b́nh an như những ngày
họ sống bên nhau.. Trong
bối cảnh đó êm đềm, thơ mộng
đó, bài thơ Cộng Ẩm Tương Giang
Thủy xuất hiện như một bản t́nh ca
bất diệt: Nhân
đạo Tương Giang thâm, Bản
dịch sau đây không biết của ai : Tương
Giang người bảo sâu, Bài
thơ thực độc đáo và hay hơn nữa là
nó nhắc nhở ta nhớ tới những sự tích
lâm ly từ con sông nổi danh này. Tương Giang c̣n
có tên là sông Tiêu Tương, do hai con sông Tiêu và Tương
cùng bắt nguồn từ núi Ngũ Lĩnh và
nhập lại thành một ḍng chảy lên phía
Bắc, qua Cánh Đồng Tương rồi đổ
vào Hồ Động Đ́nh. Tên
Tương Giang và Cánh Đồng Tương có
lẽ xuất phát từ chuyện bà Âu Cơ thương
nhớ Lạc Long Quân (mất tích) sau cuộc thảm
bại của Liên minh Xích Quỷ tại Trác Lộc
trước đại binh Hoa Tộc của Hiên Viên
(2704 tr.CN). Bà dẫn cánh quân 50 bộ tộc (một cánh
trong Liên Minh Xích Quỷ) chạy về miền Nam
ở vùng núi Ngũ Lĩnh. (Xin xem Chương II/4
.- Giả thiết lịch sử: Chiến tranh Trác
Lộc 2704/tr,CN) Sách
Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp TK.13
kể như sau:… Chờ lâu không gặp chồng, bà
Âu Cơ bèn lập đàn ở Tương Dạ*
kêu gọi tha thiết: “Quân
ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương
nhớ”. Các
“con” cũng khóc: “Bố
ở phương nào mau về với chúng con”. Thốt
nhiên Long Quân về trên đàn, bàn với Âu Cơ nên
chia các con ra giữ vững các nơi. Long Quân dặn
Âu Cơ phong con trưởng họ Hồng Bàng (con
đầu của người mẹ họ Hồng Bàng)
làm vua và đóng đô ở Phong Châu. Sau đó, công
chúa Âu Cơ nhớ nhà, nhớ nước bèn đem
các “con” đi lên biên cảnh. Vua Hoàng Đế
(sau chiến thắng tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng
vua và đổi tên là Hoàng Đế) nghe tin lấy làm
sợ mới phân binh trấn ngự quan tái khiến
“mẹ con” không về Bắc được. *
Cánh Đồng Tương, đồi Tương
Dạ: Những danh xưng Cánh Đồng Tương,
đất Tương Dạ, kinh đô Cửu Linh, sông
Tiêu Tương,… ở phía Nam Động Đ́nh
Hồ chắc chắn không do người Trung Hoa đặt
ra sau này mà đă xuất hiện từ câu chuyện
công chúa Âu Cơ và các con thương nhớ Lạc
Long Quân và lập đàn kêu khóc. Để rồi
từ đó trở thành những cụm từ: Sông
Tiêu Tương, Đồi Tương dạ, Kinh
đô Cữu Linh. Sông Tiêu Tưởng cũng gọi
là Tương Giang hay sông Tương rất nổi
danh trong văn học Việt cũng như Trung Hoa sau
này? Bên
cạnh cái diễm lệ cùng với nổi buồn mênh
mang và để lại nhiều cảm xúc sâu xa cho người
đọc của bài thơ, chuyện chàng Lư Sanh và nàng
Lương Ư Nương c̣n tiềm ẩn một tư
tưởng vô cùng lư thú, xin mời bạn đọc
tiếp : “Sông
Tương người bảo sâu… Sông
sâu mấy cũng phải có giới hạn của vật
hữu thể của lư luận. “Chẳng
bằng ḷng thương nhớ… Nhưng
ḷng thiếp thương nhớ chàng th́ quả
thật là không có ǵ để đo được!
Bởi v́ ai mà đo được cái chiều sâu
tâm linh ? Ngay bốn câu đầu chúng ta đă
thấy được tác giả bài thơ có chủ
ư so sánh giữa vật chất hữu thể và
tiềm thức tâm linh mà trong ḷng không khỏi liên tưởng
đến hai cực Âm và Dương trong Dịch lư.
Chàng
với thiếp, một người ở đầu sông,
một người ở cuối sông, buồn thương
đến độ nhớ nhau mà không thể gặp
được nhau. Lư tính vốn là một sức
mạnh thường áp đảo cảm tính
khiến cho giá trị Nhất nguyên Lưỡng
cực mất hẳn trạng thái cân bằng, dẫn
đến khổ đau trong đời sống. Cái
khổ v́ Âm thiếu Dương hay Dương
thiếu Âm làm cho nàng phải sống thui thủi, không
c̣n sinh thú và chàng cũng không tránh khỏi xót xa, lo
lắng cho người vợ đang cô quạnh ở
nhà… Làm
thế nào để Âm và Dương gặp nhau?
Quả nhiên đây là một vấn nạn cần
được hóa giải để cân bằng
cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ.
Ḍng nước Tương Giang với những
mắt trúc phản chiếu từ ḍng sông và cái giao
cảm nẩy sinh từ tâm linh con người tạo
thành một nhịp cầu nối lại Lưỡng
cực. Điều mà tự thâm tâm người
thiếu phụ phát sinh ư tưởng ngộ nghĩnh:
những đôi mắt của chàng đang âu yếm
nh́n nàng và nàng vốc nước uống với chàng,
đă tạo thành niềm ủi an, ḷng yêu đời
trong cuộc sống cô liêu của người chinh
phụ. Trên
lănh vực từ ngữ, tên chàng là Lư Sanh, mang ư nghĩa:
Lẽ thường của cuộc sống, thuộc
về Lư luận, biểu tượng là Rồng hay
Đất thuộc Dương tính. Tên nàng là Lương
Ư Nương, mang ư nghĩa: Ư tưởng lương
thiện, đạo đức, thuộc về Tâm
linh, biểu tượng là Tiên hay Trời thuộc Âm
tính. Tại
sao tên của chàng và nàng cùng nội dung bài thơ
lại mang nét Âm Dương Tiên Rồng Việt
tộc? Phải
chăng tác giả bài thơ cổ là một hiền
triết Bách Việt xưa đă đem tâm tư
gởi gấm vào bài thơ tuyệt đẹp
ấy? Tâm tư ấy rơ ràng mang tư tưởng Tiên
Rồng song hiệp rất rơ nét. Đó cũng là
triết lư Nhất Nguyên Lưỡng cực của
Việt tộc tiền sử!! Bởi
đó, để làm sáng tỏ nguyên ư bài thơ
cổ, có người đă chắp thêm cuối bài
thơ : T́nh
đôi ta tuy hai mà một hoặc Chàng
với Thiếp tuy hai mà một! Chàng
với Thiếp tuy mỗi người ở một
đầu sông nhưng cùng uống chung một ḍng nước
nên trở thành một. Và, dẫu là một nhưng
vẫn là hai cuộc đời, hai nếp sống khác
biệt. Nếu
T́nh với Lư, Nhu với Cương, Vật chất và
Tinh thần luôn luôn nằm trong Nhất nguyên Lưỡng
cực th́ con người, th́ xă hội hài ḥa,
hạnh phúc biết bao! III/2B
.- Thâm ư bôi xóa những địa danh Việt cổ
của Hoa tộc. Về
sau, văn chương Trung Hoa có kể chuyện hai bà
vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi t́m xác
chồng ở Cánh Đồng Tương. Khi họ
đến bờ sông Tương th́ nghe dân địa
phương nói vua Thuấn chết ở đấy.
Hai bà này bèn ngồi bên những bụi trúc trên
bờ Tương Giang mà khóc. Nước mắt
họ rơi trên các lóng trúc. Cũng v́ vậy mà con
sông nầy có tên là sông Tiêu Tương, Cánh Đồng
Tương và trúc hai bên bờ sông Tương có
những đốm xanh rất đẹp giống
những giọt nước mắt của hai bà
ấy. Thật
ra, cho đến thời nhà Thương, Hoa tộc
chỉ mới tràn tới vùng đất phía Bắc sông
Dương Tử, th́ vào thời vua Thuấn 1200 năm
trước đó chắc chắn vùng đất phía
Nam sông Dương Tử c̣n xa lạ đối
với Hoa tộc. Chúng
tôi nghĩ, chuyện hai bà vợ vua Thuấn mang
nặng tính giả tạo, huyễn hoặc qua giai
thoại nước mắt của hai bà này làm cho
những lóng tre hai bên bờ Tương Giang mang
những dấu lốm đốm h́nh giọt nước
mắt. Để rồi từ đấy, Trúc ở
vùng Tương Giang được gọi là Trúc
Lệ. Rơ ràng người Tầu đặt ra
chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc
xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu
Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương
Dạ… của Việt tộc đồng thời
quảng cáo cho nghiệp vụ buôn bán loại trúc vàng
Tương Giang, Động Đ́nh vốn là sở
trường của người Trung Hoa xưa nay. Câu
chuyện hai bà vợ vua Thuấn đi t́m chồng
rất cảm động nhưng không tạo
được cảm xúc cho người nghe v́ nó không
thật và thiếu giá trị lịch sử. Ở
mặt khác, nó lộ rơ ư đồ bôi xóa những
mốc lịch sử và những địa danh
chỉ rơ gốc ngọn của Việt tộc:
những hoạt động của công chúa Âu Cơ và
nước Văn Lang sau chiến tranh Trác Lộc . Họ
“đánh lận con đen” nhưng không dấu
được cái đuôi mờ ám khi dại dột
nói rằng : Nước mắt của hai bà vợ vua
Thuấn là nguyên nhân cho các lóng tre hai bên bờ Tương
giang về sau có những vết đốm rất
đẹp giống như những giọt nước
mắt!! Dù
sao, chân và giả của những câu chuyện
thời Tiền sử, chúng ta tạm gác đó để
trở lại bài thơ cổ. Những câu chuyện
trên với những nét sầu đau bi đát đă
khiến biết bao văn nhân, thi sĩ Trung Hoa và
Việt Nam thương cảm viết lên những ḍng
thơ tuyệt tác quư hiếm: “Ḱa
đâu trúc lệ nhuộm mầu! Hay “Ngàn
Tương thủa rụng cơn mưa, Ai
cũng nói chuyện Tiên Rồng là một huyền
thoại nhằm tuyên dương ṇi giống. Nhưng
mấy ai ngờ rằng tổ tiền hiền
triệt Việt cổ đă kư thác vào đấy
một minh triết cực kỳ sáng chói và nội
dung giai đoạn lịch sử cực kỳ quan
trọng của dân tộc mà kẻ thống trị
Trung Hoa thời đó muốn bưng bít. III/3 .- TRUYỀN
THỐNG TẢ NHẬM Tả
nhậm là thuận trái. Lấy trái (tả) làm
trọng, phải (hữu) làm khinh. Theo truyền
thống Việt – Hoa (sau thời Chiến quốc),
tả tướng trọng hơn hữu tướng.
Trên bàn thờ th́ bên trái trọng hơn bên phải.
Ṿng quay 12 con thú của một Giáp cũng quay từ
tả sang hữu. Người ta vẫn bảo:
Trọng tả là của Tầu. Nhiều ngàn năm
rồi không ai phản đối. Chúng tôi xin
đưa vấn đề này lên dư luận để
minh chính rằng: Văn hóa tả nhậm xuất phát
từ Việt tộc. 1.-
Từ thời Chiến Quốc (khoảng 600 tr.CN)
trở về trước, Hoa tộc xử dụng
tả hữu rất lộn xộn, v́ sự vay mượn
chưa chính thức trở thành “Hoa tịch”.
Nếu chú ư, cho đến thời Xuân thu (trước
thời Chiến quốc) quan Hữu tướng
trọng hơn quan Tả tướng. Về sau, khi Hoa
tộc tràn tới phương Nam th́ văn hóa Động
Đ́nh mới chính thức ăn sâu vào xă hội Hoa
tộc. Khi đức Khổng Phu Tử hoàn thành
Tứ thư th́ tả nhậm “đương nhiên
nhập vào quốc tịch Trung Hoa”. 2.-
Cổ thư Trung Hoa “Hoài Nam Tử” khi nói về người
Văn Lang đă viết: “Người Văn Lang
thuận tả, xă hội có 10 điều luật”
. Văn Lang là hậu duệ Miêu tộc th́ Miêu
tộc cũng thuận tả. Khi sử gia Tầu
viết như thế, th́ có nghĩa là họ
thuận hữu! 3.-
Du mục Hoa tộc khi lên ngựa, tay trái họ
cầm cương c̣n tay phải họ cầm roi. cài
nút áo ở giữa (nút bên tà áo phải, khuy bên tà
áo trái) , cầm kiếm hay làm các việc khác.
Họ thuận hữu y như các dân tộc du mục
khác trên thế giới. Trái
lại, nông nghiệp Miêu tộc ra ruộng cầm
dao, vác cuốc, cầm cày tay phải, c̣n tay trái
họ cài nút áo (hàng nút ở nách phải) .
Phụ nữ bồng em bên nách phải, tay trái làm các
việc khác. Do vậy Miêu tộc thuận tả. Tính
cách “quen tay” này trở thành truyền thống
của mỗi cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên
ở Việt tộc th́ thói quen thuận tả
dần dần tiến lên, phát sinh tư tưởng
đề cao lănh vực tinh thần, trọng văn,
bảo vệ kẻ yếu và trở thành biểu tượng
văn hóa. Ngày
xưa, người Việt mặc áo cài nút bên
phải hoặc áo tṛng qua đầu hoặc dùng hai
vạt trước buộc túm lại; c̣n các loại
áo cài ở giữa là ảnh hưởng 1000 năm
bị Hoa tộc (vốn trọng hữu) đô
hộ. Đến khi Việt Nam bị Pháp đô
hộ th́ ta lại tiếp tục bắt chước
truyền thống châu Âu: trọng hữu. Như
thế, trọng tả hay tả nhậm là một
biệt sắc của văn hóa Việt tộc đă
đi sâu vào xă hội Trung Hoa mặc dù họ vẫn
c̣n thói quen du mục như thuận tay phải và cài
nút áo bằng tay phải. Chẳng những thế,
họ xử dụng tả hữu không dứt khoát
khi họ nói “cánh tả”, “tả phái” hay
“tả khuynh” để gọi phía chống đối.
Tả đạo là cái đạo sai lầm, tà ma.
Ẩu tả là làm lếu láo, làm lấy rồi…
Chữ tả đối với họ là tan nát, rách
tả tơi, bậy bạ… mà người quân
tử phải xa lánh. Như thế, rơ ràng trọng
tả của Việt chưa xóa hẳn cái trọng
hữu của du mục Hoa tộc đă có trước
khi tràn vào đất Trung Hoa ngày nay. Từ
thói quen thuận tả, thử t́m hiểu tại sao
người Việt cổ nâng phía Tả lên hàng
biểu tượng? Theo triết gia Kim Định, tay
trái gần tim hơn nên mạch máu ở tay trái lưu
thông mạnh hơn. Nông nghiệp Miêu tộc vốn là
xă hội “Nhân trị” nên trọng tay gần tim
tức là trọng t́nh nghĩa hơn sức mạnh,
trọng văn hơn vơ, trọng tinh thần hơn
vật chất, t́nh hơn lư, âm hơn dương (Người
Âu châu trọng phái nữ là do giao tế, nịnh
đầm chứ không phải biểu tượng
triết học) . Huân
tước người Anh, Robert Stephenson Smith, 1st Baron
Baden-Powell of Gilwell (1857-1941) người khai sáng phong trào
Hướng đạo Thế giới đă sáng
tạo ra truyền thống “bắt tay trái” cho toàn
thể đoàn viên Hướng đạo Thế
giới. Khi chủ tọa lễ Lên đường
cho Tráng sinh (danh hiệu cao nhất dành cho ngành Tráng Hướng
đạo Thế giới: Tráng sinh Lên đường)
th́ ông trao cho người tráng sinh một chiếc
gậy hai nạng c̣n gọi là gây Lên đường
(gậy dài 1m20 đầu gậy có 2 nạng nhỏ tương
tự cái nạng ná bắn chim). Ông
cho rằng, tay trái gần tim, biểu tượng cho ḷng
nhân ái, cho ḥa b́nh nên Hướng đạo sinh dùng
tay trái để bắt tay chào hỏi nhau. C̣n gậy
Lên Đường ông mô tả như sau: Tráng sinh luôn
luôn đối diện trước hai ngả
đường trái-phải, chính-tà, vui tươi-giận
dữ, thành thật-gian dối, tận tâm-bê bối,
siêng năng-lười biếng… Ông khuyên người
Tráng sinh Lên đường phải luôn luôn sáng
suốt chọn con đường lương tri, công
chính, hành thiện… Quả nhiên, thật hiếm hoi
để thấy một người phương Tây
có lối suy nghĩ và hành xử mang tính Nhân chủ,
Nhân trị của con người nông nghiệp Đông
Á cổ tuyệt diệu như thế. Thật
ra nếu quư độc giả đă từng là
một Hướng đạo sinh th́ sẽ không
ngạc nhiên khi biết rằng ông Baden-Powell là
một sĩ quan trong quân đội hoàng gia Anh
quốc đă từng công tác lâu năm tại Ấn
Độ. Một dân tộc nông nghiệp có bà con
với nông nghiệp Miêu tộc Đông Á từ ngày
cùng nhau rời Đông Phi di chuyền về phía Đông
cách đây khoảng 90.000 năm. (Theo The Nation Academy
Of Science – USA, ngày 29.07.1990, Tiến sĩ J.Y. CHU
dựa vào Khoa học Di truyền DNA, chứng minh
rằng người Hiện đại đầu tiên
xuất hiện ở Đông Phi Châu). Tay
trái thường yếu hơn tay phải nên cần
được thương yêu, che chở… do vậy,
truyền thống các triều đ́nh Đông Á thường
giao cho quan Tả sử chép lời, quan Hữu sử
chép việc. Lời là phẩm, là vô h́nh nên
được trao cho tả; Việc là lượng, là
hữu h́nh nên trao cho hữu. Biểu
tượng tả nhậm hiện diện rơ ràng trong
câu : “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”
. Dân tuy rời rạc, không có thế đáng tôn, nhưng
tiềm ẩn một giá trị đáng trọng, nên
dân là quư nhất, ư dân là ư Trời. Xă tắc là
nền đắp cao để thờ thần Đất
và thần Mùa màng giúp cho dân được sống
ấm no, nhưng chính v́ do dân lập ra nên Xă tắc
được đứng ở hành thứ hai. Vua tuy
là chúa tể cả thần và dân nhưng kỳ
thực phải nhờ ḷng dân có yêu mến, quy
phục; xă tắc có yên ổn th́ ngôi vua mới
được lâu bền. V́ thế nhà vua phải
đứng hàng thứ ba. Nếu đem so sánh với
sinh hoạt đất nước ta hiện nay, chúng
ta có thể nói: Công dân vi quư, Hiến pháp thứ chi,
Hành pháp vi khinh. Nếu tổng thống dựa vào
truyền thống này mà lănh đạo đất nước
th́ kết quả sẽ tốt đẹp hơn là
lệ thuộc bất cứ một tập đoàn nào
khác. Triết
lư Tả nhậm được coi là nền tảng
xây dựng xă hội nhân chủ, nhân trị người
Miêu cổ, tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Sách
Nhân chủ của triết gia Lương Kim Định
có kể một chuyện cổ mang tính ẩn dụ
rất cao : “Xưa
có một người họ Dư tên Bất Đ́nh,
ở Ngô Hưng. Bữa kia, họ Dư thấy có người
đang nhốt một con rùa trong cái giỏ bên
đường, ông liền mua rồi đem thả
xuống khe. Sau họ Dư làm việc có công lớn,
nhà vua phong tước vị: Dư Bất Đ́nh
hầu. Dư cho đúc ấn có h́nh đầu rùa trên
mũi ấn. Lạ thay, đầu rùa quay về bên
tả. Dư cho đúc lại đến lần
thứ ba, mà đầu rùa vẫn cứ quay về bên
tả. Dư thấy vậy, dùng ngay ấn đó mà
không đúc lại nữa và theo triết lư Tả
nhậm mà trị dân”.
(Vân đài Loại ngữ). Câu
chuyện mang truyền thống huyền thoại, nhưng
rơ ràng người xưa chủ ư nhấn mạnh
ở một điểm: Đầu rùa nhất định
quay về bên tả. Con rùa thường được
chọn làm biểu tượng cho sự cẩn
trọng, vững vàng, chính xác… rơ ràng mang môt
lời khuyên, một mật văn nhắc nhở con
cháu ḍng tả nhậm rằng: Không nên đổi hướng
đi mà cần kiên tŕ tôn trọng nhân nghĩa,
bảo vệ kẻ yếu, thực thi Nhân chủ, Nhân
trị th́ xă hội mới đạt thái ḥa. Theo
Từ điển Biểu Tượng Văn Hóa
Thế Giới của Jean Chevalier và A. Gheerbrant, con rùa
mang ư nghĩa vũ trụ: mai rùa biểu thị cho ṿm
trời, phía dưới bụng phẳng như
mặt đất. Bốn chân là bốn trụ
chống đở vũ trụ. Đầu và chân rùa
có khả năng rút vào bên trong. Những đặc tính
trên của rùa được coi là thích ứng
với những hoàn cảnh nguy hiểm một cách khôn
ngoan. Theo truyền thuyết, đời sống rùa kéo
dài hàng trăm năm có khi hàng ngàn năm… Đối
với Ấn Độ việc rùa thụt vào trong mai
là một biểu tượng của quán tưởng,
của sự trở lại trạng thái khởi nguyên,
tức là của tư thế cơ bản của trí
tuệ… Những chức năng trong đời
sống của rùa đă làm cho nó trở thành một
sinh vật được yêu thích chẳng những
ở Đông Á mà Âu châu, Phi châu cũng đưa rùa
lên hàng biểu tượng. Sách Bhagavad Gita (2/58)
của Ấn Độ viết: “Khi, tựa như
con rùa co hết tứ chi vào trong mai, con người tách
các giác quan khỏi các sự vật có thể cảm
giác, th́ sự hiền minh trong con người sẽ
thực sự vững chắc”. Biệt
sắc văn hóa Tả nhậm quả nhiên là một
triết lư sống đem lại sự an b́nh
tuyệt vời và thanh b́nh lâu dài cho con người
vậy. III/4 .- TẬP QUÁN
LÀNG XĂ Xin
nhắc lại về làng xă Việt tộc mà chúng tôi
đă tŕnh bày rất kỹ ở các phần trước.
Suy ra từ sử liệu của Trung Hoa th́ Miêu
tộc đă có hệ thống hàng vạn bộ
tộc, bộ lạc dưới sự “dẫn
dắt”*
chung của một vị vua gọi là Thiên Tử…
từ trước cuộc chiến tranh Trác Lộc
(2704 tr.CN). *
Chúng tôi dùng chữ “dẫn dắt” trong hai
ngoặc kép để thay cho chữ cai trị hay lănh
đạo của các chế độ quân chủ
phong kiến hay chuyên chế theo truyền thống du
mục sau này. Bởi v́ chức vua của Miêu tộc
nông nghiệp trong thời đại đó có dạng
như người cha, người thầy, người
tiên chỉ, người phán quan hay người giáo
chủ… Vị vua này có một số người
phụ giúp chuyên trách các vấn đề trong xă
hội như : mùa màng, y tế, thời tiết, xét
xử, sinh tử, giáo hóa, tế lễ, an ninh…
Lẽ dĩ nhiên cũng có những đội dân quân
có bổn phận “làm đủ thứ việc” mà
cấp trên giao phó chứ không phải là đạo
quân chuyên nghiệp chỉ dùng cho việc chiến
tranh. Cho
đến thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn
th́ họ đếm được hàng vạn bộ
tộc Bắc Miêu được phong làm nước
chư hầu (dân số và đất đai mỗi chư
hầu rộng khoảng cái tổng trước đây)
hoặc nước phụ dung (khoảng bằng cái làng,
trực thuộc cấp chư hầu) với những
vị vua nhỏ có nhiều đặc quyền theo
truyền thống du mục. Kế
đó, khi vua Hùng vương lập nước Văn
Lang (vùng Nam Miêu) th́ gọi hệ thống bộ
tộc, bộ lạc này là làng, tổng chúng tôi
thấy được những điểm tương
đồng của làng tổng Việt tộc với
các nước chư hầu và vừa nói trên
ngoại trừ những ông vua chư hầu hay vua
phụ dung th́ mang phong cách của một vị lănh chúa
phong kiến du mục. Những điểm giống
nhau về mặt xă hội là: địa lư, phong
tục, tập quán và tính chất tự trị
của hai hệ thống chư hầu Tầu và làng,
xă Việt. Về
sau, khi các vua chư hầu thôn tính nhau để
trở thành những nước chư hầu lớn
th́ xă hội cũng thay đổi với những
sắc thái văn hóa pha trộn giữa du mục và nông
nghiệp. Truyền thống văn hóa của xă
hội chư hầu cổ cũng dần dần
biến mất. Quư
độc giả hẳn biết chuyện vua Trụ
đời nhà Thương, ông vua này thuộc loại
thích chinh phạt nhưng đồng thời lại
đam mê sắc đẹp và nụ cười
của nàng Đắc Kỷ… Ông vua này nghe lời
bọn nịnh thần đốc xúi liền sai đánh
trống và đốt Phong hỏa đài trên núi Ly Sơn
(vốn là một mật hiệu giao ước
với chư hầu để họ kéo quân về
kinh đô cứu chúa) chỉ với mục đích làm
tṛ cười cho nàng Đắc Kỷ v́ nụ cười
của nàng rất đẹp mà nàng lại ít cười.
Chỉ nội trong đêm đó, các đạo binh chư
hầu tề tựu đầy đủ dưới
chân núi… để thấy vua Trụ đang ngồi
uống rượu, nghe nhạc và say mê nh́n nàng Đắc
Kỷ… cười. Câu chuyện cho chúng ta một
lời giải! Quân binh của các chư hầu
chỉ trong một buổi (có lẽ từ chiều
đến gần nửa đêm) đă có mặt
ở kinh đô. Vậy kinh đô của vua Thương
không lớn hơn một cái tỉnh lẽ ở
Việt Nam và những nước chư hầu chung
quanh không lớn hơn một cái tổng, cái làng. Các
chư hầu thời nhà Thương (khoảng 1500
tr.CN) trở về trước được xem là
những tổ chức tự trị, có lănh đạo
riêng, quân đội và kinh tế riêng. Vua chư
hầu chỉ vâng phục nhà vua trung ương qua
những quy định khá đơn giản như
phải tùng phục, dâng nạp các loại cống
phẩm, hỗ tương quân sự… Trong khi đó
làng, tổng Việt tộc cũng mang tính tự
trị rất cao. Đến độ luật vua
chỉ về đến cấp quận, huyện. C̣n
làng, tổng th́ tùy theo lệ làng mà thi hành luật
vua. Làng xă Việt Nam 100 năm trở về trước
đúng là có “dạng” của xă hội các nước
chư hầu thời Nghiêu, Thuấn… Triết
gia Kim Định nói về làng xă như sau: “Làng,
xă là một thể chế chính trị đặc thù
của văn hóa Việt suốt nhiều ngàn năm.
Khác với tổ chức chính trị của các
nền văn hóa khác, quyền của vua quan đă không
can thiệp vào đời sống làng, tổng. Dưới
mắt triều đ́nh, làng xă như một đảo
ngoài biển khơi, ở đó, người dân
tự lập, tự quyết định. Trong làng, dân
tự tổ chức điều hành và có trách
nhiệm trên mọi vấn đề. Họ tự
chủ đến độ tùy hoàn cảnh địa
phương, tùy tâm tính và thần linh để
tự tạo cho ḿnh những thể lệ đặc
biệt, những lệ đó ngay cả phép vua cũng
chịu thua, tưởng không có thể chế nào dân
chủ hơn. Thể
chế chính trị phép vua lệ làng này đă giúp người
dân nước ta luôn luôn được hưởng
nếp sống dân chủ và tự chủ trong khi
vẫn đóng góp cho việc chung của đất nước. Triết
gia cho rằng dịch chữ làng xă Việt Nam qua
tiếng Pháp là village th́ không chính xác và người
Pháp cũng không có từ ngữ nào khác để
dịch chữ làng xă cho đúng nghĩa. Bởi v́
village là đất của các lănh chúa Tây phương
và người dân sống trong đó là nông nô
của họ. Mọi người ở trong village
bị giai cấp lănh chúa và quư tộc làm t́nh làm
tội trăm chiều mà không thể chống đối.
Chủ đất có thể bắt bỏ tù hoặc
đuổi họ ra khỏi làng để lấy
đất lại … Khi
thực dân Pháp đô hộ nước ta, khởi
đầu họ thấy làng, xă tự trị th́
họ nghĩ rằng, tính tự trị sẽ làm cho
làng xă trở thành một quốc gia trong một
quốc gia. Điều này sẽ là một yếu
tố hủy hoại tinh thần chống Pháp của
người Việt. Tuy nhiên, người Pháp đă vô
cùng ngạc nhiên khi phát giác ra rằng, làng xă là
những cứ điểm nuôi dưỡng, yểm
trợ cách mạng vô cùng gắn bó (điển h́nh
nhất là cuộc nổi dậy tại Ba Đ́nh
của ông Đinh Công Tráng) . Th́ ra, tinh thần làng, xă
cùng với tinh thần quốc gia dân tộc là
một thứ keo sơn bền chặt không ǵ chia
cắt được của người Việt trong
suốt thời gian Pháp đô hộ nước ta. Chất
keo sơn đó là t́nh đồng bào của cái
bọc trăm trứng và t́nh làng nước
mà hầu như bất cứ thời đại nào cũng
được đưa ra làm phương châm
dựng nước, cứu nước và giữ nước. Người
Pháp liền tổ chức lại làng xă bằng cách
dành quyền bổ nhiệm những người thân
Pháp vào chức lư trưởng thay thế chức xă
trưởng do dân bầu, nhưng vẫn để làng
tự trị. Do sự thay đổi này, một
số làng trở thành nơi chứa chấp bè nhóm,
gian đảng, hối mại quyền thế, tham ô,
hà hiếp dân chúng. Lư trưởng th́ trở thành
tai mắt của thực dân Pháp… đă làm giảm
sút rất nhiều tính cách nhân chủ nhân trị trước
đó. Trong
sách “Làng xóm Việt Nam”, học giả Toan Ánh
viết như sau: “… Hành chánh tại làng xă
Việt Nam được tổ chức theo chế
độ tự trị, là một chế độ
đặc biệt đă được áp dụng
tại nước ta ngay từ thời tiền sử
. Việc cai trị trong xă từ xưa vẫn do dân
chúng cử ra theo những tục lệ cổ
truyền của mỗi làng xă… Triều đ́nh không
can thiệp tới việc đề cử này, và
dẫu triều đ́nh có muốn can thiệp chưa
chắc đă được v́ “phép vua thua lệ làng”. Thực
ra, cho tới thế kỷ XVIII, các triều đại
VN cũng đă nhiều lần muốn nhúng tay vào
việc làng xă, nhưng rút cuộc làng xă vẫn là
của dân và chính dân đă luôn luôn bầu lấy
những người lo việc dân…” III/5 .- QUAN
NIỆM NHÂN SINH VÀ VŨ TRỤ TRONG CA VŨ Chúng
ta thường nghe nói: “xướng ca vô loại”.
Con nhà ca hát là những kẻ không được
liệt vào 4 thứ hạng được phân công
trong xă hội quân chủ chuyên chế (sĩ, nông, công,
thương) . Câu
này xuất phát từ Hán nho. Quư độc giả
đă thấy tác giả thường trích dẫn
từ nho để b́nh luận đấy là Việt
nho, câu nầy lại đổ cho Hán nho! Như
thế có mâu thuẫn không? Chúng ta đă biết, văn
hóa Bách Việt bị trộn lẫn trong văn minh
Trung Hoa, cứ tạm gọi là 50/50. Như
vậy nhất định không phải cái ǵ xuất
phát từ Hán nho cũng là của Bách Việt, và khi
chúng tôi gọi cái ǵ thuộc Bách Việt trong Nho là
chúng tôi có những bằng chứng từ các
chuyện cổ tích của Việt tộc hoặc
từ các di vật cổ do tổ tiên để
lại như trống đồng, khạp đồng.
dao, búa… và cả trong truyền thống tập quán
nhân gian, trong ca dao, đồng giao, phong dao, tục
ngữ… của Việt tộc mà Hoa tộc không có.
Trung Hoa ngày nay sau 5.000 năm lập quốc, rơ ràng
họ được thành h́nh với hơn 90% Miêu
tộc và một số chủng tộc khác ở
Đông Á, do vậy việc t́m lại tư tưởng
người Việt cổ trong văn minh Trung Hoa ngày
nay không phải là chuyện khó. Ca
vũ cổ th́ Tầu rất yếu kém, bởi đó
các vua chúa Tầu luôn luôn thưởng ngoạn
bộ môn này từ các đoàn ca vũ phương
Nam, nhất là vùng Giang Nam (châu thổ sông Trường
Giang c̣n gọi là sông Dương Tử) , Lưỡng
Quảng. Vùng Giang Nam, Lưỡng Quảng vốn là
đất của Bách Việt. Vua chúa Tầu thích nghe
ca vũ phương Nam nhưng vẫn miệt thị
ca vũ là xướng ca vô loại, bởi v́ nó
thuộc man di và đúng theo chính sách, cái ǵ xuất
phát từ man di là vô loại! Cái
mâu thuẫn đến buồn cười là trong khi
miệt thị xướng ca vô loại th́ tại sao
trong mọi lễ nghi của triều đ́nh lại
để giới ca múa điều hành hát lễ,
đánh chiên, đánh trống, thổi kèn, ca múa trước
các đàn lễ? Xướng ngôn cho vua quan hành
lễ? Chính họ là những người thân cận
thần thánh, dẫn dắt người khác đến
với thần thánh kia mà!! Những
h́nh chạm trổ trên các trống đồng,
thạp đồng Lạc Việt hầu như bao
giờ cũng có cảnh người gơ sanh, đánh
phèn la, thổi kèn, cơng nhau múa hát, giă gạo chày
nhịp hai, nhịp ba, múa hát trên thuyền… Trống
đồng là thần cổ, linh cổ của dân
Việt mà có cảnh ca múa th́ nhất định không
bao giờ người Việt cổ gọi ca múa là
“xướng ca vô loại”… Chắc chắn các
cụ đă gọi là lễ nhạc, là nhă nhạc
hay linh nhạc… Chỉ
sau thời gian bị Tầu đô hộ và tiêm
nhiễm truyền thống du mục Hoa tộc,
triều đ́nh Việt tộc đi theo quan niệm
Tầu : “xướng ca vô loại”. Tuy nhiên chỉ
có giới nho sĩ và triều đ́nh miệt thị
ca múa c̣n trong nhân gian th́ ca hát vẫn được
yêu mến và bảo tồn mặc dù nó đă
mất đi rất nhiều giá trị nguyên thủy,
v́ chẳng những không được nâng đỡ
mà c̣n bị chê bai, kỳ thị: con cái nghệ sĩ
ca múa “không được dự thi, không được
làm quan…”. Con cái nhà quan, nhà gia thế, đạo
hạnh kể cả con nhà giàu… đều không
lấy chồng, cưới vợ con nhà ca hát v́
sợ ḿnh trở thành “thông gia” và con cháu trở
thành “đồ vô loại!!!”. Từ
ca múa, ngâm, ru ḥ, hát nói… của nhân gian đến
lễ vũ trong các cuộc tế lễ ở đ́nh,
chùa, am, miếu; từ phong thái đi, đứng, quay
tả, quay hữu, tới lui, bái lạy, dâng của
lễ… đều được phối hợp
với trống đại, trống con, trống cơm,
chiêng, cồng, phèn la, đàn, kèn, sáo, mơ, sanh…
Tất cả đều được vũ hóa đến
độ tinh vi và nhất định những lễ
vũ đó không thể thiếu vắng trong các
cuộc lễ tế lớn nhỏ của Việt
tộc. Cao
điểm nhất về phía triều đ́nh là ba ngày
đại lễ Tế giao, tức là lễ do chính nhà
vua làm chủ tế trong việc giao cảm với
Trời, Đất. Lễ này xác định vị
thế Nhân chủ của người với Thiên
chủ và Địa chủ. Lễ Tế giao có
từ thời Thần Nông Đế Viêm. Thường
th́ kế tiếp sau các lễ hội… bao giờ cũng
có phần ca múa nhân gian và hội hè, xôi thịt vô cùng
hào hứng. Những
sinh hoạt họp lửa, hội ca trong nhân gian
vẫn c̣n truyền tụng cho tới ngày nay, mặc
dù thời gian đă bào ṃn đi khá nhiều
những vết tích của thời thái cổ. Một
học giả Pháp, ông Granet (1930) đă viết
lại một số sinh hoạt hội ca của các dân
tộc gốc Bách Việt vùng Nam Trung Hoa, Bắc
Việt Nam cho tới vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh. Thường
lệ hằng năm vẫn c̣n tổ chức
những buổi hội ca rất lớn : Hải
Nam và miền Bắc Việt Nam: Trong cộng đồng
Mường và Dao, khi một chàng trai yêu thương
một cô gái th́ mang đàn, sáo… đến trước
nhà cô ấy gẩy đàn và ca hát. Nếu cô ưng
ư th́ sẽ bước ra gặp chàng hoặc mời
chàng vào nhà nói chuyện. Khi hai người hợp ư
hợp t́nh th́ sẽ thưa với cha mẹ hai bên
để làm đám cưới và chàng trai sẽ
về ở bên nhà gái. Đám cưới kéo dài
suốt ngày và một đêm đốt lửa
hội ca mà phần chính là cô dâu và chú rể tŕnh
diện trước các bạn nam nữ. Vân
Nam : Người Lô Lô mặc dù làm việc
suốt tuần cực khổ nhưng cuối tuần
là tụ họp nhau múa hát, gơ nhịp, mời rượu…
giữa trai gái cho đến nửa đêm mới tan
hàng. Vào dịp cuối năm, họ mời gọi
tụ hội đông đảo, đốt lửa,
đốt pháo, ca, múa… vô cùng náo nhiệt suốt
cả đêm. Miêu
: Biên giới Vân Nam và Việt Nam, cùng
dạng với người Miêu Quảng Tây, người
Thổ Cao Bằng th́ tụ họp hai bè trai gái,
nắm tay múa hát theo nhịp trống cơm và đàn
“Lousen?”. Khi hát đối đáp, bên nào thua, con gái
sẽ bị ṿ tai cho đỏ lên mới thôi, con trai
th́ bị phạt rượu. Nam
Chiếu : Người dân tin rằng, có những
vụ mang thai với rồng trong lúc tắm hoặc
chạm phải cái cọc nổi mà có thai. Người
Miêu Tử ngoài hát đố c̣n có tṛ ném cầu làm
bằng chỉ ngũ sắc và đánh trống đồng… Long
Châu : Những người đi dự hội
ca mang cơm, rượu theo, có trên 1.000 người.
Tục lệ hội ca này vẫn lưu hành hàng năm
trong tỉnh Quảng Tây và thường bị nhà
cầm quyền Trung Hoa t́m cách ngăn cản. Mỗi
lần quan Tàu cấm th́ đường sá hỗn
loạn, thiên hạ xôn xao bất b́nh. Trong
các tổ chức này, dân Bô Di , nam nữ bao
giờ cũng hợp thân trước rồi mới cưới
sau. Xă hội Long Châu cho đến ngày nay vẫn
giữ chế độ mẫu hệ. Họ châm
biếm, riễu cợt những thiếu nữ
lấy chồng theo kiểu phụ hệ. Các giống
dân khác ở vùng Dương Tử Giang và Hán
Thủy cũng có những truyền thống như dân
Long Châu. Quư
Châu : Người Lô Lô thường tổ
chức hát trên núi. Họ đấu trí, thi tài ăn
nói và thi ca. Các cuộc hội ca này đang c̣n lưu
truyền mặc dù có phần thưa thớt hơn trước. Nhật
: Có lối hát đôi phối hợp
với múa gọi là Kagai. Họ chia thành hai nhóm hát
đối nhau hoặc có khi một người thay cho
cả nhóm. Các buổi Hội hát này thường
tập trung quanh vấn đề t́nh yêu trai gái
hoặc diễu khích nhau. Hát Kagai vẫn được
duy tŕ trong đại chúng. Trên
lănh thổ Việt Nam ngày nay từ những vùng
Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng B́nh, Nghệ
An, Thanh Hóa ra đến vùng thượng du miền
Bắc th́ các nhóm Mán, Mường, Thái, Mèo, Plong,
Hung, Hát, Vân Kiều, Toi Oi (Pa coh), Kha Tu, Dao, Chi Dao, Lê,
Bạch, Thổ, Nùng, Lô Lô, Tày… cũng có những
buổi họp lửa hội ca rất thịnh hành
nhờ các triều đ́nh Việt Nam không ngăn
cản. Đây là truyền thống văn hóa đặc
thù của các giống dân này từ lâu đời mà
cổ sử Trung Hoa cũng như Việt Nam ít
thấy đề cập tới khi nói về họ. Có
lẽ các vua chúa Trung Hoa và Việt Nam cho rằng đấy
là “xướng ca vô loại” của các dân
thiểu số nên không quan tâm tới. Tưởng
cũng cần nói thêm, các dân tộc thiểu số
miền Trung Việt Nam trước đây 2.000 năm
sinh sống ở ven biển. Sau đó họ bị các
giống khác mạnh hơn như Chiêm Thành, tấn công
dành đất, dồn họ lên núi. Các dân tộc
thiểu số miền thượng du Bắc Việt
Nam th́ có hoàn cảnh khác. Họ bị người
Trung Hoa xâm lấn, phải di tản về Nam. Họ
được các vua Việt Nam cho ở các vùng đồi
núi miền Bắc để làm phên dậu. Người
nghệ sĩ ca múa đất Kinh (người
Việt ở đồng bằng) chẳng những
không được sự tán trợ, khuyến khích,
dẫn dắt của triều đ́nh mà c̣n bị
miệt thị là “xướng ca vô loại” và
cấm cản giới này thi cử, làm quan… v́
vậy nghệ thuật ca múa cổ của người
Kinh đă mai một rất nhiều, nhất là về
bộ môn múa nếu so với đồng bào thiểu
số miền thượng. Từ khoảng 1940
trở về trước, ca vè cổ thu gọn trong các
tổ chức địa phương như làng xă,
ngoài đồng, trong nhà, trên sân… vào mùa gặt
hoặc ḥ đối đáp lúc cấy lúa, lúc giă
gạo, lúc chèo thuyền, kéo gỗ… hoặc
chuyển thành hát cô đào ở các phố thị mà
thôi. Họp
lửa, hội ca, do đó, là một sinh hoạt
truyền thống, rất được người
dân mọi giới, nhất là thanh niên nam nữ ưa
chuộng v́ nhờ những sinh hoạt này họ có
nhiều cơ hội gặp gỡ, t́m hiểu nhau trước
khi trở thành vợ thành chồng. Triết
gia Kim Định viết trong Văn Lang Vũ
bộ : “Ở thời sơ nguyên, khi chưa
bị những quy ước trái khoáy của du
mục bẻ quặt th́ trống quân (ca múa) là
một cuộc tế lễ toàn vẹn gồm ăn
uống, hát xướng, giao hoan… Và do đó, nó gây
âm vang sâu thẳm vào ḷng người đến độ
chỉ huy cuộc sống trong cả năm, từ ư
nghĩ cho đến việc làm, lời nói. Nó gây
sức mạnh đến nỗi mọi lời khác
sẽ biến đi nhưng những lời hát trong
trống quân được giữ lại như ca
dao, tục ngữ hay nếu đă có văn học th́
như kinh điển. Kinh thi chính là kết nạp
những bài hát trong trống quân. C̣n trong Việt
tộc th́ kết tinh vào trống đồng, nơi
chim mẹ Âu Cơ đang lao xuống hôn miệng
Rồng là bố Lạc”. Theo
Granet, ca vũ và trống đồng được
coi là hai bộ phận quan trọng nhất trong
việc tế tự của người Bách Việt mà
trước đó người Trung Hoa gọi là Miêu
tộc. Ca vũ kết hợp với trống đồng
đem tâm t́nh của người giao cảm với
trời, đất. Từ đó, trống đồng
được tôn trọng, gọi là thần cổ,
linh cổ, được tôn thờ và làm linh
chứng cho những lời thề nguyền long
trọng. Bs.
Nguyễn Thị Thanh, nói về ca vũ cổ Việt
Nam như sau : Thời cổ, ca vũ và trống đồng
c̣n được dân Bách Việt đem ra sử
dụng trong các lễ tế và hội hè, ca múa. Trên
trống đồng, khạp đồng… được
ghi chép bằng những nét khắc họa đặc
biệt về ca vũ và t́nh yêu nam, nữ trong
thực tế của sự sống hạnh phúc và duy
tŕ ṇi giống. Nhân
đây tôi xin giới thiệu 1 bài “hát nói” rất
cổ từ giai đoạn văn hóa Bắc Sơn
(7000-1000 tr.CN). Tôi đă tạm đặt tên là: III/6 .- THƯƠNG
EM TỪ THỦA TIÊN RỒNG Năm
1961, khi dự khóa đào tạo quản đốc
đồn điền do CHPI tổ chức tại Banmêthuột,
tôi được cử đi thực tập ở
đồn điền cà phê Ea Tull, Darlac. Tại đây
có một bản Mường di cư từ các
tỉnh phía Bắc miền Trung. Họ nói tiếng
Việt xen lẫn nhiều cổ ngữ nên rất khó
nghe nhưng lại rất thân t́nh với người
Kinh. Trong một ngày lễ giỗ tổ, tôi được
mời đến dự và đặc biệt chú ư
điệu vũ của một nhóm thanh niên thiếu
nữ Mường. Chín cặp, đứng xen kẽ
thành ṿng tṛn, hai chân dậm xuống đất bước
nhịp nhàng về phía trái, phía phải hay tiến vào
phía trong, lui ra phía ngoài, theo nhịp trống và
cồng. Tay người này úp vào tay người kia, lúc
đưa lên cao, lúc hạ xuống thấp hoặc múa…
Toàn cảnh có vẻ giản dị nhưng rất
đều, cân đối, hài ḥa và gợi cảm.
Họ “hát nói” một bài vè rất lạ trong khi múa.
Tôi thấy hay nên chép lại và học thuộc ḷng bài
vè ấy. Quư độc giả hẳn đă biết,
người Mường vốn là người
Việt nguyên thủy, sở dĩ họ chậm
tiến là do họ ở sâu trong rừng núi và ít
tiếp xúc với người Việt đồng
bằng. Bác
sĩ Nguyễn Thị Thanh, một nhà khảo cổ
ở Canada, cho rằng bài vè “Thương em từ
thủa Tiên Rồng” có nhiều cổ ngữ
từ thời văn hóa Bắc Sơn niên đại
từ 7000 năm đến 1000 tr.CN. c̣n triết gia Lương
Kim Định khi đọc bài vè th́ đă gọi: “Đây
là kinh Việt” THƯƠNG
EM TỪ THỦA TIÊN RỒNG 1.
Khoai to bồn th́ tốt cộ (Khoai to vồn th́
tốt củ) 2.
Đậu ba lá th́ bừa un (Đậu ba lá th́
vừa vun) 3.
Gà mất mạ th́ lâu khun (Gà mất mẹ th́ lâu khôn)
4.
Gái thiếu trai th́ thậm khổ 5.
Trai thiếu gái th́ thậm khổ 6.
Trời sinh trâu th́ sinh cỏ 7.
Đất sinh giếng th́ sinh mo (mo cau làm gầu múc nước)
8
. Người sinh oa th́ sinh tui (Người sinh o th́
sinh tui) 9.
Oa một ḿnh th́ khôn đặng 10.
Tui một ḿnh th́ khôn đặng 11.
Gió ngoài biển hắn dồn vô 12.
Mây trên trời hắn cuộn lại 13.
Oa với tui cùng cuộn lại 14.
Tui với oa cùng cuộn lại 15.
Hai đứa miềng cùng cuộn lại Chỉ
cần 15 câu giản dị, người Việt
cổ từ 4000 năm trước đă gởi
một thông điệp cực kỳ quan trọng bàn
về nhân sinh và vũ trụ quan mà ngày nay chúng ta
cần nghiên cứu xem các cụ muốn nói ǵ . III/6A
.- Đầu tiên, ta chú ư về những
con số : Nhóm
3 câu , tức số 3 : quan niệm Tam thông,
Giao cảm giữa Trời, Đất và Người. Nhóm
2 câu, tức số 2 : triết lư Nhất nguyên
Lưỡng cực (một thể có hai cực âm dương). Hợp
5 câu thành một đoạn, tức số 5 : Ngũ hành (kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ). Năm vật
chất quan trọng trong vũ trụ rất cần
thiết cho sự sinh hóa của vạn vật và
sự sống c̣n của vũ trụ. Thông
thường th́ vè hay thơ mỗi đoạn
chỉ có bốn câu. Ở đây, chủ tâm rất
dứt khoát của người xưa là luôn luôn có 2
câu cộng với 3 câu làm thành một đoạn 5 câu.
Minh bạch đến độ không thể lẫn
lộn là trùng hợp hay ngẫu nhiên được. III/6B.-
Bây giờ ta thử xét từng đoạn
của bài vè cổ: III/6B1:
Đoạn đầu Câu
1,2,3 nói về kinh nghiệm trồng trọt
và xuất xứ của bài vè là của người
nông nghiệp. Khoai, đậu, gà là ba loại
thực phẩm tiêu biểu của người nông
nghiệp xuất phát từ ba nơi khác nhau: khoai
ẩn ḿnh dưới đất, đậu kết trái
trên mặt đất và gà (chim) bay trên không. Chỉ
rơ thực phẩm, nguồn sống con người, có
mặt khắp nơi trong trời đất. Để
có đầy đủ các loại thực phẩm
ấy, điều quan trọng nhất là con người
phải có kinh nghiệm và yêu mến công việc
vỡ đất canh tác, chăm sóc, nuôi dưỡng…
trong lănh vực nông nghiệp tức là phải có trách
nhiệm làm chủ các lănh vực của ḿnh. Từ
3 câu trên ta có thể suy ra hai ẩn ư đă được
tác giả cài vào: 1)
Trách nhiệm của nhà nông: nguyên lư Nhân chủ. 2)
Số 3 dịch lư : –
Tam Tài : Trời là chủ– Đất là chủ– Người
là chủ; – – Tam Thông : Trời, Đất, Người
đồng thông, giao cảm. Nếu
ta thay trách nhiệm công tác nông nghiệp bằng
bất cứ công việc nào khác vào 3 câu đầu
th́ ta cũng thấy ngay nguyên lư Nhân chủ Việt
cổ vẫn là một lối đi hoàn chỉnh
dẫn dắt con người trên đường thành
công. Câu
4,5 xác định Triết lư Nhị nguyên
(hai thể riêng biệt, âm dương không bao giờ
đi chung) chỉ đem lại đau khổ triền
miên mà thôi (thậm khổ). Hành xử ở đời
mà chỉ dụng lư mà quên t́nh hay trọng t́nh mà
bỏ lư th́ chỉ đem lại đổ vỡ,
thất bại, buồn chán… Phải có cả hai: t́nh
và lư. Chẳng những thế, trong lư phải có t́nh,
trong t́nh phải có tư: đó là triết lư Nhất
nguyên Lưỡng cực. Tổng
hợp thành 5 câu của đoạn đầu: –
Đầu tiên là bài toán cộng rất chính xác: 2
+ 3 = 5 không sai vào đâu được. Tuy nhiên, đây
chỉ là giá trị đơn thuần rằng trong
số 5 này có 2 tư tưởng: nhân chủ và t́nh
lư cộng lại. Thế là quá đẹp. Nhưng c̣n
nữa bạn ạ ! –
Đó là giá trị phụ trội phát sinh từ
việc kết hợp hai tư tưởng Nhân
chủ và T́nh Lư song hành. Thực tế, khi hai tư tưởng
trên hợp tác với nhau th́ nó đẻ ra nhiều
chuyện tốt đẹp hơn nữa! Tỷ
dụ như o với tui mà cuộn lại… th́
chắc chắn o sẽ phát hành liền tù t́ mỗi
năm một tác phẩm, chứ đâu phải
chỉ có ḿnh tui với o phải không? C̣n khi có o
trợ lực cho tui để tui chỉ lo cày cấy,
trồng trọt, chăn nuôi… th́ cái ăn, của
mặc dư thừa. Hạnh phúc để đâu cho
hết! –
Kế nữa, số 5 mang ư nghĩa 5 vật chất
trong vũ trụ. Đó là ngũ hành (kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ) năm chất này rất
cần thiết cho sự sinh hóa của vạn vật
và sự sống c̣n của vũ trụ. –
Cũng từ số 5 Ngũ hành này, nó cho chúng ta
nhiều bài học của đạo làm người
Nhân chủ và đạo trị quốc Nhân trị : Một
.-Ngũ trong đời sống con người, Ngũ
thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (mang tính Dũng). Hai
.- Ngũ trong t́nh yêu, giao tế, và hùn hạp công tư,
Ngũ tâm: Thật thà, Trong sạch, Tận t́nh, Vui
vẻ, Lắng nghe (mang tính Thích nghi). Ba
.- Ngũ trong việc đối xử với người
trên kẻ dưới, Ngũ luân : Nhân, Hiếu, Đễ,
Trung, Thứ… (mang tính Trung Dung) Chúng
tôi gọi đấy là Tam tính. Vận dụng Tam tính
làm động lực xây dựng triết lư Nhất
nguyên Lưỡng cực th́ con người bước
lên vị trí Nhân chủ bên cạnh Trời, Đất
và xă hội bước lên vị trí Nhân trị
giữa Người với Người. Chỉ
mới 5 câu đầu, ta đă thấy tâm tư
của tác giả bài vè quả có một kiến
thức uyên bác tuyệt vời về cái lẽ thường
của con người đối với ḿnh, đối
với xă hội và vũ trụ. III/6B2
: Đoạn giữa Câu
6,7,8 : Trời sinh, đất sinh, người
sinh chỉ ra ba nhiệm vụ được phân
bố trong vũ trụ, trời làm việc của
trời, đất làm việc của đất, người
làm việc của người. Muốn cho mọi
việc đều ổn thỏa, hài ḥa, tốt đẹp…
con người phải có trách nhiệm của một
chủ trong ba ngôi chủ. Trách nhiệm đó là
cải sửa bản thân, cải sửa thiên nhiên, vũ
trụ để xây dựng cuộc sống mỗi ngày
một tốt đẹp đồng thời cảm thông
với trời, đất để đời
sống con người trở nên có ư nghĩa. Đó
là nguyên lư tam thông*
đồng thời cũng là nền tảng Nhân
chủ và luật cân bằng trong vũ trụ. *
Con người và trời, đất cùng sinh, cùng
sống khắng khít, giao cảm với nhau. Ư
niệm cùng sinh cùng sống khắng khít trên lănh
vực triết lư: Khi một người được
sinh ra th́ trời, đất mới xuất hiện
với người ấy; người ấy càng
“lớn lên” bao nhiêu th́ trời, đất cũng
“lớn lên” bấy nhiêu. Bởi đó, triết
học nông nghiệp Miêu tức Viêm Việt cho
rằng, nếu không có người th́ vũ trụ có
cũng như không. Con người t́m hiểu, xử
dụng và cải tạo vũ trụ, thiên nhiên để
xây dựng cuộc sống, do đó con người
giao cảm với trời đất trong suốt
cuộc sống của ḿnh. Người xưa gọi
là tam thông, chuyển hóa thành đạo làm người,
đạo thờ ông bà. Rơ ràng người xưa
đă thấy được con người có
một vị thế vô cùng quư giá, một biệt
sắc trong vũ tru mà lư giải Tây phương ngày
nay c̣n rất mập mờ khi cho rằng con người
chỉ hơn con vật ở chỗ biết suy lư
rồi xây dựng xă hội trên một chiều suy lư
đó!! A
.- Quan niệm vũ trụ : Trời
sinh trâu th́ sinh cỏ : Mọi việc làm
của trời làm đều có dụng ư tạo
điều kiện tốt đẹp và cân xứng
cho muôn vật sinh tồn. Đất
sinh giếng th́ sinh mo : Đất cũng
có việc làm đối xứng, tạo ra tài nguyên
vật liệu mà con người tựa vào đó mà
xử dụng để tồn tại. Người
sinh o th́ sinh tui : Con người cũng
không ở ngoài lẽ thường âm dương mà
trời đất đă tác động lên thiên nhiên
và vũ trụ. B
.- Luật cân bằng trong thiên nhiên Nhờ
trời đất và con người luôn luôn hướng
về: Có cái này phải có cái kia mà phát sinh Luật
cân bằng trong thiên nhiên. Nhờ đó mà mọi
vật phát triển và tồn tại. Làm ngược
lại là phản Luật cân bằng của tạo hóa. C
.- Xác lập : Con người có trách nhiệm bảo
vệ và duy tŕ sự cân bằng hài ḥa khi xử
dụng thiên nhiên và vũ trụ để tạo
cuộc sống hạnh phúc cho ḿnh. Câu
9,10 : Lời thơ của hai câu này mang tính
thuyết phục rất mạnh, nó có dạng như
một lời giáo huấn qua việc lặp đi
lặp lai hai cụm từ : “O
một ḿnh th́ khôn đặng! Nhằm
thúc dục đi vào Nhất nguyên Lưỡng
cực: Phải có đủ hai mới được
tức là cổ vũ một đời sống có âm,
có dương; có t́nh, có lư; có song hành đoàn
kết… III/6B3
.- Đoạn cuối : Câu
11,12: Gió dồn, mây cuốn là hai chuyển
động của trời đất. Nông nghiệp Bách
Việt rất cần mưa. Muốn biết có mưa
hay không th́ phải trông trời, nhất là trời
ở phía biển, phải xem gió, nh́n mây. Hạnh phúc
của nông nghiệp là khi thấy gió dồn, mây
cuốn từ ngoài biển, đem mưa trút xuống
đồng ruộng cho hoa mầu vươn lên. Người
Việt cũng thường dùng nhóm từ “mây mưa”
để diễn tả chuyện chăn gối,
hạnh phúc lứa đôi. Cổ nhân đă vận
dụng tới những chuyển động của
trời đất, của vũ trụ để
tiếp tục diễn đạt nguyên lư âm dương,
t́nh lư song hành hầu tiến đến mục đích
cuối cùng một cách toàn vẹn. Câu
13,14,15 : Hạnh phúc tràn đến rạt rào
không dứt trong đời sống con người
nếu biết nghe theo những điều nêu trên. III/6B4
.- Rà lại toàn bài Trong
suốt tài liệu trên, người viết nhiều
lần nhắc đến ba bộ số 2 – 3 – 5 do
nhiều thế hệ Miêu tộc c̣n gọi là Viêm và
về sau th́ gọi là Bách Việt sáng tạo. Các
thế hệ tiền nhân hiền triết đó đă
trải qua nhiều ngàn năm gối đầu lên
nhau, dùng cái tâm và cái trí để suy ra từ các
diễn biến của vũ trụ, của đời
sống con người tạo thành những quan
niệm nhân sinh, vũ trụ cực kỳ sáng chói. Ngày
nay, để có thể thông suốt tư tưởng
tiền nhân, cố triết gia Lương Kim Định
đă đề nghị đừng nh́n cổ
vật, di vật Việt tộc đằng sau tấm
kính suy lư Tây phương, đừng đánh giá
“bề mặt, ṿng ngoài”. Hăy dùng cái tâm linh con người
để giao cảm, để thẩm thấu vào
tận cốt lơi của mỗi sự kiện trên
nền tảng ba bộ số 2 – 3 – 5 ấy th́ chúng
ta sẽ nghiệm ra ngay giá trị tư tưởng
tổ tiên hiền triết Việt tộc.
–
Toàn bài vè là ngôn ngữ Việt cổ mộc
mạc, ngắn gọn được xác định
xuất hiện từ giai đoạn văn hóa
Bắc Sơn (7000 đến 1000 tr.CN). –
Bài vè phát huy và cổ vũ một hệ tư tưởng
độc đáo chính xác đến độ
chẳng riêng ǵ người có ḷng t́m hiểu
phải ngạc nhiên, sảng khoái mà bất cứ ai
nghe một lần cũng đạt được
sự cảm thông dễ dàng và thấm sâu vào tâm
khảm dù chưa được giải thích tường
tận. –
Càng nghiên cứu bài thơ cổ, càng phát giác ra bao
kỳ thú khiến người viết không dám nghĩ
tiếp v́ đoạn khảo luận này đă quá dài. –
Quả thật, toàn bộ bài thơ cổ, vừa là
một bản t́nh ca tuyệt diệu đồng
thời là một luận đề triết học
vừa thực tiễn vừa siêu h́nh được
luận giải vô cùng sắc bén trên nhiều vấn
đề phức tạp của nhân loại mà các
triết gia thế giới ngày nay đang khổ công t́m
kiếm!! –
Cũng tương tự như nổi buồn của
nàng Lương Như Ư trong bài thơ cổ
“Cộng Ẩm Tương Giang Thủy” tŕnh bày
ở phần trước, quả nhiên nàng đă hóa
giải được niềm thương nhớ,
buồn khổ khi nh́n sông nước Tương Giang
bằng cái nh́n thông suốt và tâm linh giao cảm
tuyệt diệu ấy. Nếu Lương Như Ư là
một thiếu phụ tây phương ngày nay th́ nàng
không thể có cái tâm ấy để gặp
chồng! Và nàng cũng như xă hội nàng đang
sống (giả thiết nàng đang ở trong xă
hội tây phương) phải chấp nhận
biết bao biến động phát sinh từ sự
thiếu vắng tâm ư ấy? III/7 .- KIẾN
TRÚC VIỆT CỔ Một
số kiến trúc Á Đông mà ngày nay mọi người
thường thấy nơi các cung điện của
vua chúa, đ́nh, chùa, miếu, mộ, cổng… mang
một h́nh giáng rất đặc thù. Đó là mái nhà,
mái cổng oằn xuống ở giữa và hai đầu
mái th́ cong vuốt lên c̣n mái th́ lợp bằng
loại ngói âm dương… Các nhà khảo cổ
viện bảo tàng Hà Nội năm 1939 đă t́m
được tại di chỉ Bắc Sơn những
di vật chôn theo người chết trong các ngôi
mộ cổ cách đây từ 9000 năm đến
3000 năm, những ngôi nhà làm bằng đất nung
có mái nhà cong vuốt hai đầu. Họ gọi là
nhà Bắc Sơn. Những ngôi nhà được
khắc chạm trên trống đồng Lạc
Việt cũng là những ngôi nhà có mái cong rất
đặc biệt. Lịch
sử Trung Hoa có ghi lại một đoạn về
cuộc bang giao giữa nhà Đường và Nhật
Bản vào năm 606 về việc trao đổi du
học sinh và thợ thuyền của hai nước này.
Các du học sinh và thợ thuyền Nhật khoảng
200 người đă xây tại kinh đô Lạc Dương
một ngôi nhà sàn chín căn rộng lớn, có chân và
lên xuống bằng 5 bậc thang. Đặc biệt mái
nhà được làm cong vút lên theo truyền
thống văn hóa Nhật. Họ gọi là Minh nghĩa
đường. Kiến trúc Minh nghĩa đường
mang một nghệ thuật hài ḥa, nghiêm kính mà không
thiếu phần lộng lẫy nên đă làm vua quan nhà
Đường kinh ngạc và ngợi khen không
tiếc lời. Chính vua Đường cũng đă
vi hành đến xem. Từ đó, sinh hoạt
truyền thống xă hội Trung Hoa dần dần
chuyển hướng theo lối kiến trúc mái cong
đặc biệt đó. Đúng
ra, từ lâu về trước, các miền thuộc
Hồ Nam, Lưỡng Quảng, Giao Chỉ… đă có
kiến trúc mái nhà cong (nhà mái cong Bắc Sơn)
chứ không phải đợi du học sinh và thợ
thuyền Nhật đến với Minh Nghĩa
Đường. Phải chăng các mẫu nhà mái cong
Bách Việt trước năm 606 chưa đạt
tới nghệ thuật của kiểu nhà Minh nghĩa
đường Nhật Bản? Hay v́ vùng này đang
bị chiến tranh xâu xé suốt nhiều trăm năm
khiến đất nước hoang tàn không c̣n
những kiến trúc có tầm vóc, có nghệ
thuật? Hay v́ kỳ thị là kiểu nhà của dân
nô lệ Giao châu đô họ phủ, là Man di, Nam man nên
chưa lôi cuốn được vua chúa Trung Hoa? Theo
học giả B́nh Nguyên Lộc trong sách Nguồn
Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam th́ tổ tiên
của người Nhật là những dân quân Bách
Việt trong đạo quân liên minh Xích Quỷ của
Lạc Long Quân 2704 tr.CN, sau thảm bại tại Trác
Lộc, đoàn quân của Lạc Long Quân chạy ra
phía Đông, một nhóm đă vượt biển ra
hải đảo, kết hợp với giống Ai-Nô
mà tạo thành dân Nhật… Nếu giả thuyết
của cố học giả B́nh Nguyên Lộc là đúng
th́ việc người Nhật xây nhà Minh nghĩa
đường có mái cong ở Lạc Dương năm
606 là chuyện dễ hiểu. H́nh
ảnh Trời, Đất đă được người
xưa sáng tạo một cách khéo léo trong nghệ
thuật dựng nhà của người Bách Việt.
Với chiếc mái cong biểu hiệu của trời
và nền nhà h́nh vuông, biểu hiệu của đất.
Ở trong ngôi nhà với sự hiện diện
của trời tṛn, đất vuông đó, con người
xây dựng cuộc sống an b́nh, hạnh phúc. Con người
ấy, đúng là Người viết hoa chứ không
phải là “con vật biết suy lư” hay “con vật
tinh khôn” mà quư ông Aristote và Nguyễn Văn Đức
đề cập trong sách của các ông. Tư tưởng
đă được cơ chế hóa thành ngôi nhà mái
cong đầy nghệ thuật, thật không thể c̣n
sáng tạo nào ngoạn mục hơn! III/8 .- BÍ
MẬT PH̉NG TRUNG Nói
nôm na là truyền thống đỡ đẻ
(phụ sản) mang biệt sắc Việt tộc
của các quốc gia lập quốc trên ṿng cung Đông-Bắc,
Đông và Đông-Nam Trung Hoa ngày nay. Đó là các nước
bà con Việt tộc: Triều Tiên, Nhật Bản,
thổ dân Đài Loan, thổ dân Hải Nam, thổ dân
quần đảo Célèbres Inđonésia* và
Việt Nam. *
Cố Học giả B́nh Nguyên Lộc trong “Nguồn
Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam” tức là
cao nguyên Hi-Malaya (Thiên Sơn), với những dẫn
chứng rất đáng tin cậy th́ đoàn quân
của Lạc Long Quân sau khi thua trận ở Trác
Lộc năm 2704 tr.CN đă chạy theo bờ Bắc
sông Hoàng Hà và tản mác ra nhiều nơi ở
biển Đông: Một nhóm lên vùng Đông-Bắc
kết hợp với thổ dân, về sau lập ra nước
Triều Tiên; phía Đông kết hợp với
giống Ai-Nô ở hải đảo lập ra nước
Nhật; một số ra đảo Đài Loan; phía
Đông Nam họ lên quần đảo Célbrès Indonésia,
đảoHải Nam; phía Nam họ đổ bộ lên
đồng bằng Bắc Việt với đồng
chủng. Trên
thế giới, mỗi chủng tộc đều có
một truyền thống phụ sản riêng biệt
của tổ tiên họ truyền lại. Thường
th́ do “bà mụ” truyền lại cho con gái từ
đời này qua đời khác hầu như không bao
giờ thay đổi. Từ
ngày nền y học Tây phương phát triển
khắp thế giới th́ các nước trên thế
giới dần dần chuyển hướng theo phương
thức chung như chúng ta vẫn thấy ngày nay. Tuy
nhiên ở những vùng thôn quê hẻo lánh hoặc
miền núi xa xôi, các bà mụ vườn vẫn c̣n
xử dụng phương pháp cổ truyền để
phụ sản mỗi khi người dân cần
tới họ. Đối
với người Tầu, khi sản phụ tới
giờ “lâm bồn” th́ bà mụ đưa vào pḥng
sản phụ một chiếc bồn bằng gỗ
hoặc sành. Người sản phụ Trung Hoa
ngồi lên chậu mà sinh con… do vậy mà người
Tầu gọi lúc sinh con của phụ nữ Trung Hoa
“giờ lâm bồn”. Người
Lào th́ ngồi trên một cái giá gỗ c̣n dưới
đất th́ lót lá chuối (đă hơ lữa) và
cũng sinh nở như người Trung Hoa. Người
Nga th́ sản phụ nằm trên giường. Phần
trên bụng được treo một tấm màn có
ghi vài câu kinh nguyện để sản phụ trông vào
đó mà cầu kinh. Người chồng quỳ bên
cạnh, cầm tay vợ, nói những lời an ủi
và khuyến khích nàng. Trong khi đó th́ ở phía sau
bức màn, bà mụ làm công việc đỡ đẻ. Người
Đức th́ khác hẳn, người ta để hai
chiếc ghế đối diện cách nhau khoảng 70
cm. Một ghế th́ để người mẹ
hoặc chị của sản phụ ngồi dang
rộng hai chân. Ghế kia th́ sản phụ ngồi
dựa ngửa và gác chân lên đùi người đối
diện… Trong khi đó th́ bà mụ quỳ ở
giữa hai người mà làm công việc đỡ
đẻ. Chủng
Lạc Việt cùng các dân tộc sống trên ṿng cung
bán đảo và hải đảo Trung Hoa: Triều Tiên,
Nhật Bản, Đài Loan, quần đảo Célèbres
Indonesia, Hải Nam, Việt Nam có cùng một truyền
thống phụ sản giống nhau : Sản phụ
nằm trên giường, c̣n bà mụ th́ đỡ
đẻ và cắt rốn hài nhi bằng một
sợi chỉ tước ra từ lá dứa hoặc dùng
mảnh sành đập vỡ rồi dùng chỗ bén
để cắt rốn. Xem
ra th́ cách thức phụ sản Việt Nam và các nước
Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, đảo
Hải Nam, quần đảo Célèbres Indonesia gần
giống với lối phụ sản y học ngày nay.
Truyền thống chôn nhau hài nhi ở vườn sau
của chủng Việt đă tạo thành một
biệt sắc rất thân t́nh qua câu nói “Nơi chôn
nhau cắt rốn” để ám chỉ quê hương
xứ sở của ḿnh. Các dân tộc khác không có câu
nói đầy ư nghĩa thâm thúy mà gợi h́nh
tuyệt diệu như thế! III/9 .- CHUYỆN
ÔNG BÀN CỔ Chúng
tôi để chuyện Ông Bàn Cổ vào đây để
lấy phần biệt sắc văn hóa Việt
tộc, tuy nhiên chuyện ông Bàn Cổ có một
tầm vóc tư tưởng cực kỳ bao la
hiếm có. Người viết xin dành hẳn một
chương để rộng đường b́nh
luận : Chương 5 : Chân thiện mỹ trong
chuyện ông Bàn Cổ. Quư
độc giả, hoặc có thể lật tới chương
5 đọc tiếp để có sự liên tục tư
tưởng, hoặc cứ theo sự sắp xếp có
chủ ư của tác giả. Xin chân thành cám ơn. II/10 .- KẾT
LUẬN III Trên
đây là chín trong số hàng chục biệt sắc văn
hóa truyền thống Việt tộc mà chúng tôi nghĩ
là quá đủ để xác minh rằng : Bên
cạnh những tư tưởng thâm sâu của
Việt cổ đă bị Hoa tộc cưỡng
đoạt, xào nấu, rồi ép buộc dân Việt
phải tiếp nhận để đồng hóa; người
Việt làng xă, người Việt miền núi và người
việt thị thành… tùy theo bối cảnh xă
hội ḿnh sống, vẫn ngoan cường giữ
vững truyền thống nguyên thủy để
tồn tại. Đấy là những gia tài cực
kỳ quư giá mà người Việt đă bảo
tồn cho tới ngày nay trước bao thảm
họa đồng hóa của cường lực Hoa
tộc. |