Chức
quan Tổng đốc có từ khi nào ? Tôn Thất Thọ |
Tổng đốc Hoàng Diệu Tổng đốc
là chức danh có từ thời nhà Nguyễn. Trong
cuốn Quan chức nhà Nguyễn, soạn giả
Trần Thanh Tâm cho biết: "Theo
chế độ quan chức nhà Nguyễn, ngoài bộ
máy cai trị ở mỗi tỉnh (gồm Bố chính,
Án sát với hai Phiên ty, Niết ty giúp việc) cứ
hai tỉnh, có khi ba tỉnh, triều đ́nh lại
bổ nhiệm thêm hai vị đại thần (ngang
quyền chức với thượng thư, hàm chánh
nhị phẩm văn giai) về tăng cường
cho bộ máy nhà nước ở tỉnh, có quyền
lực tối cao về hành pháp và tư pháp của
những tỉnh được cai quản. Tổng
đốc như người thay thế triều đ́nh
về nắm hai tỉnh một, chỉ đạo
mọi mặt, đồng thời kiêm luôn chức Phó
Đô ngự sử và cả chức Đề đốc
các tỉnh về chỉ huy vơ trang đứng trên
vị Lănh binh của tỉnh đó.Do đó, nếu có
Tổng đốc, th́ bỏ chức Đề đốc.
Sau này, nếu Tổng đốc không có, mới có
Tuần vũ ở từng tỉnh...
Dưới
quyền Tổng đốc chỉ đạo chung
về đường lối, có các quan chức sau
đây trực tiếp cai quản từng tỉnh
một Tuần vũ, Bố chánh, Án sát (hành chánh), Lănh
binh (vơ trang)..." (sđd,
tr. 300) Cũng tương
tự như thế, trong Tự Điển nhà
Nguyễn, soạn giả Vơ Hương An chép: "Tổng
đốc: Chức hàm quan văn ở trật chánh
nhị phẩm đứng đầu một tỉnh
lớn (vd:Thanh Hóa), hoặc hai tỉnh nhỏ (vd:
Nghệ An-Hà Tĩnh, gọi tắt An Tĩnh)..."(TĐNN;
sđd, tr. 591). Trong hai
tự điển trên, chúng tôi chưa thấy các tác
giả ghi cụ thể về thời điểm ra
đời của chức danh Tổng đốc nói trên.
Nhà
Nguyễn kéo dài 143 năm, trải qua nhiều
triều vua nên có sự thay đổi khá phức
tạp. Bộ máy quan lại luôn được thay
đổi, nhiều chức quan mới được
đặt thêm, trong lúc không ít những chức quan cũ
bị băi bỏ. Có những chức quan tồn
tại rất nhiều đời nhưng địa
vị, quyền hạn th́ không ngừng thay đổi.
Chính v́ vậy việc t́m hiểu nguồn gốc,
chức năng, quyền hạn, ban ngạch... của
các chức quan cũng là việc cần t́m hiểu,
đặc biệt là thông qua các tài liệu ghi chép
về chức quan bằng chữ Hán, chữ Nôm. Nội
dung bài viết là bước đầu t́m hiểu
về chức quan Tổng đốc qua ghi chép của
một số tài liệu do Quốc sử quán hoặc
cá nhân biên soan: Sách Khâm
Định Đại Nam Hội điển Sự lệ
(欽定大南會典事例)ghi
chép về tổ chức và lề lối làm việc,
cùng các thể lệ về mọi mặt công
việc của bộ máy nhà nước từ Gia Long
đến Tự Đức có ghi về sự phân
bổ chức danh Tổng đốc ở các
tỉnh. Số lượng bấy giờ là 12 người
được phân chia như sau: "Tổng
đốc, Tuần phủ các tỉnh: Tổng
đốc Nam Nghĩa một viên, trụ sở
tại phủ Điện Bàn - Quảng Nam; Tổng
đốc B́nh Phú một viên, trụ sở tại
phủ Hoài Nhân- B́nh Định; Tổng đốc Định
Biên một viên, trụ sở tại phủ B́nh Tân -
Gia Định; Tổng đốc Long Tường
một viên, trụ sở tại phủ Định
Viễn- Vĩnh Long; Tổng đốc An Hà một viên,
trụ sở tại phủ Tuy Biên- An Giang; Tổng
đốc An Tĩnh một viên, trụ sở tại
phủ Anh Sơn- Nghệ An; Tổng đốc Thanh Hóa
một viên, trụ sở tại phủ Thiệu Hóa;
Tổng đốc Hà Ninh một viên, trụ sở
tại phủ Hoài Đức - Hà Nội; Tổng
đốc Định Yên một viên, trụ sở
tại phủ Thiên Trường - Nam Định;
Tổng đốc Hải An một viên, trụ sở
tại phủ B́nh Giang - Hải Dương, Tổng
đốc Sơn Hưng Tuyên một viên, trụ
sở tại phủ Quảng Oai - Sơn Tây; Tổng
đốc Ninh Thái 1 viên, trụ sở tại phủ
Từ Sơn - Bắc Ninh".(ĐNHĐSL, sđd, tr. 86). Qua đó
ta thấy trong số 12 vị Tổng đốc, th́ có
11 vị phụ trách liên tỉnh, chỉ có 1 Tổng
đốc phụ trách một tỉnh; đó là
tỉnh Thanh Hóa. Về thời điểm phân định
này, không thấy Hội điển ghi cụ
thể. Trong sách Khâm
định Đại Nam Hội điển Sự lệ
tục biên (欽定大南會典事例續編)
chép tiếp từ thời Tự Đức trở
về sau, bao gồm các bài dụ, chỉ, nghị
định về quan chế, nghi lễ...Sách này cho
biết đến năm Đồng Khánh thứ 2 tăng
thêm một viên Tổng đốc; phụ trách hai
tỉnh B́nh Thuận- Khánh Ḥa, gọi là Thuận Khánh:
Nghĩa : Tổng
đốc, Tuần phủ các tỉnh: niên hiệu
Đồng Khánh thứ 2 (1887) lại tâu chuẩn: hai
hạt B́nh Thuận, Khánh Ḥa thuộc vùng trung châu
nguyên có đặt một Tuần phủ. Nay hai
hạt đó là vùng địa đầu trọng
yếu, nên sửa đổi đặt viên Tổng
đốc Thuận Khánh... T́m
hiểu thêm thời điểm có chức danh Tổng
đốc, sách Đại Nam Hội điển toát
yếu (大南會典撮要)
có nội dung tóm lược Hội điển
đời Minh Mệnh, gồm các nguyên tắc tổ
chức bộ máy cai trị nhà nước, cơ
cấu tổ chức của triều đ́nh, của
6 bộ, của các phủ, viện, vệ, ti, doanh...
Bộ máy cai trị ở các địa phương,
quy chế về quan lại, quân đội, giáo
dục, hành chính, h́nh pháp. Thời
điểm công bố phần nội dung chính của
sách là năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), trong
đó chức quan Tổng đốc được
ghi chép cụ thể như sau: " Quốc
gia thống nhất cương vực, phân định
hạt phận, đặt chức Tổng đốc,
Tuần phủ để cai quản một cách có
hệ thống. Dưới quyền có Bố chánh
sứ ty, Án sát sứ ty và quan Lănh binh. Tổng đốc
là người mang hàm Đô thống Thượng thư,
Thống chế. Nắm quyền thống trị quân dân,
thống lănh quan văn, vơ trong hạt, khảo xét quan
lại, sửa sang bờ cơi... Trong bài
viết Bước đầu t́m hiểu về
chức Tổng đốc qua ghi chép của một
số văn bản chức quan triều Nguyễn
của tác giả Lê Thị Thu Hương đăng
trên trang thông tin hannom.org,
dẫn từ sách Quốc triều điển
lệ quan chế lược biên (國朝典例官制略編)
chép về chế độ quan chức đời Minh
Mệnh (1820 - 1840) gồm: quan tước, phẩm
vật của các quan văn, vơ ..., trong đó quy định
lương bổng của Tổng đốc ( mang hàm
Chánh nhị phầm)như sau: "Hàm
Chánh nhị phẩm: tiền bổng cả năm 250
quan, 200 phương gạo, tiền trang phục mùa xuân
là 50 quan, tiền tuất là 200 quan. C̣n các quan Thượng
thư lục bộ, Tả hữu đô Ngự
sử ở Đô sát viện, Tổng đốc các
tỉnh, Tham tán Đại thần trấn Tây được
cáo thụ Tư thiện đại phu, Chính trị thượng
khanh, thụy là Trang Lượng, họ... vợ xưng
là phu nhân... Như chúng
ta đă biết, từ cuối năm 1831, vua Minh
Mạng cho bỏ các dinh, trấn để thành
lập các tỉnh. Năm 1832 cả nước có
tất cả 30 tỉnh, gồm: Bắc
Kỳ có 13 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa
Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định,
Ninh B́nh, Thái Nguyên. Trung
Kỳ có 12 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, B́nh
Thuận. Nam Kỳ
có 06 tỉnh: Phiên An (năm 1836 đổi tên thành Gia
Định), Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên. Như
thế có thể nói rằng chức quan Tổng đốc
được lập nên từ năm 1832, khi vua Minh
Mạng đă hoàn chỉnh việc phân định và
thành lập 30 tỉnh trên cả nước. Đặt
Tổng đốc (đối với tỉnh lớn
hoặc gộp hai, ba tỉnh), Tuần phủ (đối
với tỉnh nhỏ), riêng tỉnh Thừa Thiên là Phủ
doăn; và các quan Bố Chính sứ, Án sát cùng Lănh
binh để trông coi mọi việc tại từng
tỉnh. Về sau,
các vua kế tiếp đă có những quy định
thêm, hoặc bổ sung thêm về chức danh này như
định ngạch, việc tuyển chọn, quy
tắc làm việc...Đơn cử các trường
hợp sau đây: Sách Đại
Nam Điển Lệ toát yếu (大南典例撮要新編)
do TS Nguyễn Sĩ Giác biên soan tóm tắt các điều
lệ của bộ Quốc triều hội điển,
có bổ sung các luật lệ mới. Trong đó ghi
về chức quan Tổng đốc như sau: "Lệ
ngày tháng Bảy niên hiệu Thành Thái thứ 1 (1889),
định ngạch hiện thời về chức quan
văn và vơ ở Bắc Kỳ. Tỉnh lớn:
một quan Tổng đốc, một quan Bố chánh
(sau không đặt nữa), một quan Bố chánh và
một quan Đốc học... Về
việc tuyển chọn người phụ trách,
đến đời Hàm Nghi có dụ cho Nha Kinh lược
tuyển bổ: "
Về Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh
và Án sát. Lệ niên hiệu Hàm Nghi thứ 1 (1885) quy
định rằng các tỉnh ở Bắc Kỳ có
khuyết chức Tổng đốc, Tuần phủ,
Bố chánh và Án sát th́ cho Nha Kinh lược
được chọn người mà đề
cử. (ĐNĐLTY, sđd, tr. 29-33) Về
phẩm hàm của Tổng đốc, sách Sử
học bị khảo (史學備考)
do cụ Đặng Xuân Bảng biên soan năm cho
biết Tổng đốc theo hàm của Binh bộ thượng
thư: Về quy
tắc làm việc, Đại Nam thực lục
trong mục Quy tắc làm việc khi mới phân chi
tỉnh chép: "Tổng
đốc, Tuần phủ hay các viên thự lư
Tuần phủ ấn vụ, công việc cũng
giống như nhau. Phàm trong hạt sự việc ǵ nên
tâu báo đều được làm chuyên tập tâu
lên. Duy Tuần phủ (ở tỉnh có Tổng đốc)
kiêm hạt, khi có chính sự lớn lao về hưng
lợi, trừ tệ th́ cùng với Tổng đốc
bàn bạc rồi kư tên tâu chung 1 giấy. Nếu ư
kiến khác nhau th́ làm tờ tấu riêng".(Thực
lục, T10 , Nxb Sử học, 1964 trang 364). Tóm
lại, theo ghi chép trong các sách nêu trên, chúng ta
nhận thấy chức danh Tổng đốc có sau năm
1832 là năm vua Minh Mạng phân chia cả nước
thành 31 tỉnh. Đây là vị quan đứng đầu
tỉnh lớn, hay liên tỉnh, nắm giữ tất
cả mọi việc quân dân trong tỉnh. Để
giữ chức Tổng đốc viên quan phải mang
hàm Thượng thư Bộ Binh kiêm hàm Hữu Đô
Ngự sử Đô sát viện, hưởng trật th́
thuộc hàm Chánh nhị phẩm Họ được
hưởng tiền dưỡng liêm hàng năm là 80
quan để làm tốt nhiệm vụ của ḿnh. **** Tài
liệu tham khảo: -
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định
Đại Nam Hội điển sự lệ T2, Nxb
Thuận Hóa, 2005. - TS
Nguyễn Sĩ Giác, Đại Nam Điển lệ toát
yếu, Nxb TPHCM, 1994. -
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam
thực lục T10, Nxb Sử học, 1964.
- Đặng
Xuân Bảng, Sử học bị khảo, Nxb <
-
Trần Thanh Tâm, Quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận
Hóa, 2000. - Vơ Hương
An, Từ điển nhà Nguyễn, Nxb Nam Việt (US),
2012. - Đỗ
Văn Ninh, Từ điển chức quan Việt Nam,
Nxb. Thanh niên, 2002. -
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ (Tục biên)
T10), Nxb. Giáo dục, 2009.
- Trang thông tin điện tử hannom.org.vn. |