Sài G̣n có bề dày
lịch sử rất lâu đời, bắt đầu
từ nền văn minh Óc Eo với vương
quốc Phù Nam trong những năm đầu công nguyên,
cho đến ngày nay đă trở thành thành phố
quan trọng nhất của đất nước.
Trước khi xuất hiện người
Việt
Vương
quốc Phù Nam từng
phát triển thành Đế quốc hùng mạnh
với nền vinh minh phát triển rực rỡ, chinh
phục nhiều nước lân bang, biên giới lúc
đỉnh điểm của nó bao
gồm toàn bộ vùng Nam Bộ của Việt Nam ngày
nay, toàn bộ Campuchia, vùng đồng bằng sông Mênam
của Thái Lan, một nửa diện tích Malaysia, và
một phần Myanmar.

Bản
đồ Đế quốc Phù Nam.
Sau khi Phù Nam xảy ra nội chiến và
suy yếu, Chân Lạp nhân cơ hội đó đánh
bại và chiếm được Phù Nam. Chân
Lạp chia các vùng đất của ḿnh thành Thủy
Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Thủy Chân Lạp là
vùng sông nước bao gồm cả vùng Sài G̣n và Nam
bộ, cùng một phần miền nam Campuchia ngày nay. C̣n Lục Chân Lạp hay Thổ Chân
Lạp là vùng đất khô có nhiều rừng núi,
ngày nay đều là vùng đất thuộc Campuchia.
Vùng Thủy Chân Lạp là vùng đất
rộng lớn, nhưng là nơi phù sa bồi đắp
nên nhiều đất trũng lầy lội, dân cư
thưa thớt tập trung sống ở Prei Nokor
(Thị Trấn Trong Rừng) và Kompong Krabey (Bến Trâu).
Có một số học giả cho rằng Prei Nokor chính
là Sài G̣n sau này, c̣n Bến Trâu th́ chính là Bến Nghé.
Đến thế kỷ thứ 8,
Chân Lạp diễn ra nội chiến, vùng Thủy Chân
Lạp bao gồm cả Sài G̣n và Nam bộ ngày nay
bị chia thành nhiều tiểu quốc nhỏ độc
lập. Sau
khi bị người Mă Lai và người Java
(thuộc Indonesia) thống trị, Chân Lạp sụp
đổ.
Đến
thế kỷ thứ 9, người Khmer xây dựng được
Đế quốc Khmer
(c̣n gọi là Đế quốc Ankor) hùng mạnh,
diện tích lên đến 1,2 triệu km², bao gồm
cả Miến
Điện (Myanmar), Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, và vùng
Thủy Chân Lạp.

Bản đồ Đế quốc
Ankor. (Ảnh từ Howstuffwork.com)
Đến thế kỷ 15, Đế quốc Khmer
suy yếu, bị Xiêm La thôn tính và tiêu diệt.
Đế quốc Khmer hoàn toàn sụp đổ, người
Khmer phải chịu thần phục Xiêm La.
Người
Việt đặt chân đến Sài G̣n
Vào thế kỷ 16, chúa
Nguyễn Hoàng phát triển Đàng Trong, tạo thành
cát cứ hùng mạnh, từ đó các đời chúa
Nguyễn liên tục phát triển về phương
nam.
Nhận thấy chúa Nguyễn có thể
giúp ḿnh chống người Xiêm, vua Cai Miên là Chey
Chetta II xin được bang giao với chúa
Nguyễn và cầu hôn với công nữ Nguyễn
Phúc Ngọc Vạn. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đang
có kế hoạch phát triển về phương nam nên
đồng ư với cuộc hôn nhân này.
Chúa
Nguyễn gửi quân đội và vũ khí sang Cao Miên
giúp người Khmer đẩy lui quân Xiêm La. Từ đó chúa Nguyễn được
phép lập hai thương điểm ở Prei Nokor
(thuộc khu Chợ Lớn, Sài G̣n sau này) và Kompong
Krabey (khu vực Bến Nghé, Sài G̣n sau này) để
thu thuế.
Người Việt ở đàng trong
được phép đến sinh sống ở vùng
Thủy Chân Lạp (tức vùng đất Sài G̣n,
Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam và
một phần miền nam Campuchia ngày nay). Từ đó
người Việt có tiền đề để
tiếp tục tiến về phương nam.
Ngọc Vạn cũng xin chồng
cho phép người Việt tự trang bị vũ khí
để bảo vệ đất đai của ḿnh,
đồng thời cũng sẵn sàng giúp Cao Miên
đánh đuổi Xiêm La nếu quân Xiêm lại
tiến sang.
Được
vua Cao Miên đồng ư, chúa Nguyễn liền cho quân
đến đóng ở vùng Prei Nokor (Sài G̣n ngày nay),
Biên Ḥa, Bà Rịa của Cao Miên nhằm bảo
vệ người Việt làm ăn buôn bán sinh
sống, đồng thời giúp Cao Miên khi có biến.
Nhờ đó chỉ trong một thời
gian ngắn người Việt xuất hiện
rất đông ở khu vực ngày nay là Đồng
bằng sông Cửu Long, Sài G̣n, Biên Ḥa, Bà Rịa…s
Nguyễn Cư Trinh, người pḥ
tá cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên đưa người
Việt vào Nam Bộ đă có lời tổng kết
rằng: “Đời
trước lập Gia Định, tất trước
mở xứ Mỗi Xoài, rồi mở xứ Đồng
Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới
mở xứ Sài G̣n, thế là lấy ít đánh
nhiều, lấn dần như tằm ăn” (trích Phủ Biên tạp lục của
Lê Quư Đôn).
Sáp
nhập vào lănh thổ Đàng Trong
Năm 1628, vua
Chey Cheta II qua đời, t́nh h́nh Cao Miên rối ren, nội
bộ Hoàng tộc đâm chém nhằm đoạt
quyền.
Hai con của vị vua đă quá cố là
Ang Sur và Ang Tan dấy binh chống lại vua Ramathipadi I
(Nặc Ông Chân) nhưng thất bại, hai người
này t́m đến thái hậu Ngọc Vạn th́
được Thái Hậu nói sẽ giúp đỡ
cầu cứu chúa Nguyễn Phúc Tần.
Chúa Nguyễn liền cho tướng
Nguyễn Phước Yến đưa quân đến
Mỗi Xuy (nay thuộc huyện Phúc An, tỉnh Bà
rịa Vũng tàu), quân Chúa Nguyễn tiến
được vào thành bắt vua Ramathipadi I.
Nhờ sự can thiệp của chúa
Nguyễn mà Ang Sur được làm Quốc vương,
xưng là Barom Reachea V, đóng tại Long Úc (Oudong); c̣n
Ang Nan (Nặc Nộn) làm Phó vương đóng
tại thành Sài G̣n ngày nay.
Hai
Vương của Cao Miên thần phục Chúa
Nguyễn, đồng ư cống nạp theo định
kỳ và hoàn toàn phụ thuộc vào Chúa Nguyễn. Thời kỳ này cũng chứng
kiến cư dân Việt đến Cao Miên sinh
sống rất đông, kiểm soát rất nhiều vùng
đất.
Lúc này tại Trung Quốc, nhà Thanh
lật đổ nhà Minh lập ra triều đại
mới. Năm 1679, một
số quan tướng nhà Minh không theo nhà Thanh đem
3.000 người đi trên 50 thuyền đến đàng
trong, dâng sớ xin được làm dân mọn
xứ Việt.
Chúa Nguyễn Phúc Tần nhận
thấy nhiều vùng đất của Cao Miên ở phía
nam màu mỡ nhưng chưa được khai phá nên
giao cho họ khai hoang đất đai để
ở; phong cho họ quan tước rồi đến
vùng Gia Định, Nông Nại (Đồng Nai ngày
nay), trấn Định Tường (thuộc Mỹ
Tho), Bàn Lân, Lộc Đă (tức Biên Ḥa, Đồng
Nai ngày nay). Tại những vùng này họ mở mang
đất đai, lập phố chợ, giao thông buôn
bán. Dần
dần các tàu thuyền người Hoa, người phương
Tây, Indonesia đến đây buôn bán ngày càng tấp
nập.
Cuốn “Gia Định thành thông chí”
của Trịnh Hoài Đức mô tả rằng:
Những người Hoa đến Đông Phố (tên
khác của Gia Định, thuộc Sài G̣n ngày nay)
mở mang đất đai, lập phố chợ, giao
thương buôn bán. Tàu
thuyền người Hoa, người phương Tây,
người Nhật, người Chà Và (tức người
Java thuộc Indonesia ngày nay) tụ tập tấp
nập, khiến vùng Đông Phố vô cùng thịnh vượng.
Năm 1679, chúa Nguyễn cho sáp
nhập Đồng Nai và Gia Định vào lănh
thổ Đàng Trong của ḿnh. Gia Định từ
đó thuộc về Đàng Trong, người
Việt cũng liên tục di dân đến đây
khiến vùng đất này ngày càng mở mang
thịnh vượng.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử
Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đi kinh
lược Đồng Nai.
Tượng
Nguyễn Hữu Cảnh nơi đ́nh thờ ông
ở Cù lao Phố. (Ảnh từ Bùi Thụy Đào
Nguyên – wikipedia.org)
Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất
Nông Nại đặt làm phủ Gia Định,
lập đất Đồng Nai làm huyện Phước
Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn
làm huyện Tân B́nh, lập dinh Phiên Trấn. Ông
sắp đặt các quan chức địa phương
để cai quản vùng đất này.
Sách Đại Nam liệt truyện ghi chép
lại rằng: “Nguyễn Hữu Cảnh đă chiêu
mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là
Quảng B́nh) trở vào Nam vào đất ấy
(tức đất Trấn Biên và Phiên Trấn),
rồi đặt xă thôn, phường ấp, định
ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh”, “đất
đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có
thêm bốn vạn hộ.”
Từ đó vùng đất Gia Định,
Đồng Nai ngày càng thịnh vượng. Nguyễn
Hữu Cảnh tạo dựng các đơn vị hành
chính, chia đặt tỉnh lỵ, ông đặt tên
vùng Sài G̣n là huyện Tân B́nh v́ có nhiều người
dân Quảng B́nh quê ông vào đây lập nghiệp,
chia thành hai dinh Trấn Biên (Biên Ḥa) và Phiên Trấn
(Gia Định), vùng Sài G̣n Gia Định trở thành
thủ phủ của Thủy Chân Lạp tức Nam
bộ sau này.
Dưới
thời nhà Nguyễn
Năm 1790, Nguyễn Vương
Nguyễn Phúc Ánh cho xây trại thủy quân và xưởng
thủy quân bên rạch Bến Nghé, chính là vị trí
xưởng đóng tàu Ba Son ngày nay.
Năm 1789, Nguyễn Phúc Ánh cho xây
dựng thành Gia Định thật vững chắc
để ngăn quân Tây Sơn đến Nam bộ.
hai sĩ quan người Pháp là Theodore Lebrun và de
Puymanel giúp thiết kế với tổng nhân công xây
dựng ước chừng 30.000 người, thành
được xây dựng theo kiến trúc Vauban.
Dù là sử dụng kiến trúc phương
tây, nhưng lại rất gần với văn hóa phương
đông, thành có 8 cạnh giống như bát quái, nên
c̣n có tên là thành bát quái. Năm 1790, thành được
xây xong có chu vi khoảng 4.176 mét với ba mặt
được sông che chở.
Thành Gia Định được xây
xong khiến tuyến pḥng thủ Nam bộ trở nên
vô cùng chắc chắn, quân Tây Sơn không sao đánh
vào thành được, thành có thể chịu
được cả đạn pháo hiện đại
nhất vào thời bấy giờ.
Tiếc rằng sau này thành Gia Định
bị vua Minh Mạng cho phá hủy trong cuộc nổi
loạn của Lê Văn Khôi, rồi xây thành khác
nhỏ hơn gọi là “thành Phụng”. Các nhà nghiên
cứu cho rằng nếu c̣n thành Gia Định th́
Gia Định khó mà thất thủ trước quân
Pháp vào năm 1859.
Dưới thời thuộc Pháp
Sau khi chiếm được Sài G̣n vào
năm 1859, người Pháp quy hoạch lại Sài G̣n
thành một đô thị lớn theo phong cách châu Âu.
Ngày 22/2/1860, Đô đốc Francois Page
tuyên bố mở Cảng Sài G̣n. Đến năm
1862, bộ luật đầy đủ về Cảng
Sài G̣n đuộc công bố. Ngày 23/11/1862, chiếc tàu
chạy bằng hơi nước đầu tiên
hoạt động khai trương tuyến đường
biển Pháp – Sài G̣n
Ngày 29/9/1861 đánh dấu tờ báo
đầu tiên ra đời ở Sài G̣n là tờ Le
Bulletin officiel de l’Expédition de la Cochinchine (Nam Kỳ
viễn chinh công báo).
Năm 1863, Bến Nhà Rồng được
khởi công, năm 1864 th́ được khánh thành và
đi vào hoạt động.

Bến Nhà Rồng xưa kia.
Người Pháp cũng phát triến
trại thủy quân của nhà Nguyễn thành công xưởng
Ba Son, xưởng này chính thức đi vào hoạt
động vào năm 1863.
Ngày 3/10/1865, quyền Thống đốc
Nam kỳ Pierre Roze ra 2 nghị định về Sài G̣n
và Chợ Lớn, theo đó quy định diện tích
Sài G̣n chỉ có 3km2 thuộc khu vực quận 1 ngày
nay, Chợ Lớn gồm 1 km2 thuộc quận 5 ngày
nay.
Sau đó Sài G̣n và Chợ Lớn không
ngừng được sáp nhập mở rộng.
Đến năm 1910 Sài G̣n bao gồm quận 1,
quận 3, quận 4 và một phần quận 7 ngày
ngay. Sài G̣n và Chợ Lớn cách nhau tại đường
Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật ngày
nay.
Năm
1868 đến 1869, xây dựng Ṭa Soái phủ Nam Kỳ
(sau là Phủ Thống đốc, rồi Phủ Toàn
quyền Đông Dương, thường được
gọi là Dinh Gia Long), nay là Bào tàng thành phố.
Năm 1868, tuyến xe điện đầu
tiên ở Việt Nam dài 5 km nối liền Sài G̣n và
Chợ Lớn đi vào hoạt động.
Năm
1882, thành lập Thư viện Sài G̣n.
Năm 1902, xây dựng cầu B́nh
Lợi bắc qua sông Sài G̣n, nhằm xây dựng
tuyến đường sắt đi đến Nha
Trang. Ngày nay cầu B́nh Lợi vẫn là tuyến giao
thông quan trọng trong tuyến đường sắt
bắc nam.
Năm 1903, tuyến tàu điện
nội thành được xây dựng.
Năm 1908, dinh Xă Tây được
đưa và hoạt động sau 10 năm xây
dựng, nay là Trụ sở UBND thành phố.
Năm
1914 ,chợ Bến Thành được xây
xong và đi vào hoạt động.

Đường phố Sài G̣n năm
1915. (Ảnh từ wikipedia.org)
Năm
1930, xây dựng ṭa nhà chi nhánh Ngân hàng
Đông Dương tại Sài G̣n. Ṭa nhà được
xây dựng rất chắc chắn và đẹp c̣n măi
đến tận ngày nay. Ṭa nhà này tọa lạc
tại Bến Chương Dương nh́n ra Bến
Nghé, nay là trụ sở Ngân hàng nhà nước và UB
Chứng khoán.
Năm
1931 Tổng thống Pháp ra sắc lệnh
thành lập khu Sài G̣n – Chợ Lớn. Khu trưởng
được Toàn quyền Đông Dương bổ
nhiệm quản trị chung cả 2 thành phố này.
Chợ Lớn được mở rộng hơn do sáp
nhập, trong khi Sài G̣n th́ thu hẹp do phần đất
thuộc quận 7 ngày nay sáp nhập vào Nhà Bè.
Tổng diện tích khu Sài G̣n – Chợ Lớn lúc này
là 51 km2.
Dưới
thời Việt Nam Cộng Ḥa cho đến nay
Sau
Hiệp định Genève, Sài G̣n được
Việt Nam Cộng Ḥa chọn làm thủ đô. Năm
1955, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm đổi
tên Khu Sài G̣n – Chợ Lớn thành Đô thành Sài G̣n
– Chợ Lớn.

Công trường Mê Linh dưới
thời Việt Nam Cộng Ḥa. (Ảnh từ Ảnh
của manhhai flickr)
Đến năm 1956, Ngô Đ́nh
Diệm làm Tổng thống lại ra sắc lệnh
đổi tên “Đô thành Sài G̣n – Chợ
Lớn” thành “Đô Thành Sài G̣n”.
Quăng thời gian 1954 – 1960, Việt Nam
Cộng Ḥa đă đầu tư xây dựng hạ
tầng rất nhiều cho Sài G̣n với sự
viện trợ của Mỹ. Tuy nhiên những khu
phố to đẹp chủ yếu do người Pháp
xây dựng từ năm 1940.
Năm 1975, Sài G̣n về tay chính
quyền Việt Nam hiện tại và đến năm
1976 đổi tên. Tuy nhiên nhiều người dân
vẫn quen gọi là Sài G̣n, và tên gọi này vẫn
được dùng phổ biến bởi gắn bó
với chiều dài lịch sử của thành phố
từ thuở ban đầu.
Trần Hưng
tổng hợp
|