Những tướng lĩnh nổi danh đă thất bại tại Đại Việt (P.1): Đại tướng Mông Nguyên từng làm rung chuyển cả Á Âu |
Bài
viết này không phải nhằm mục đích hạ
thấp các tướng lĩnh đó, mà chỉ là mượn
chút uy danh của họ để nêu bật lên
sự huy hoàng của các tướng sĩ nước
Nam… Chiến tranh luôn đem lại khổ đau và tai
nạn cho nhân loại. Dù cho kẻ thắng hay người
thua đều v́ nó mà phải thương tâm.
Chẳng thế mà Nguyễn Du đă từng có thơ
rằng: “Liên phong cao sáp nhập thanh
vân Tắc đồ tùng măn tàng
xà hổ (Quỷ Môn Quan – Nguyễn Du) Dịch thơ: “Giăng giăng núi phủ vút
từng mây Bụi gai ngăn lối hùm
beo núp (Bản dịch của Trương Việt Linh.
Nguồn: thivien.net ) Dù biết chiến tranh ác liệt khủng khiếp, nhưng
vẫn có vô số kẻ khuấy động can qua,
đem tai họa đến cho biết bao lương dân.
Tất cả cũng chỉ v́ muốn vinh danh anh hùng
trên chiến địa, muốn được lưu
truyền thiên cổ. Rất nhiều kẻ trong
số đó đến từ các triều đại
Trung Quốc, khi đạo đức thoái hóa đă
không dùng Đức trị thiên hạ mà là ngồi
trên lưng ngựa chinh phạt khắp nơi. Nhưng Trời không chiều kẻ bạo ngược.
Trong suốt lịch sử quân sự lừng lẫy
của Thiên triều Trung Hoa, lại có một vùng
đất nhỏ bé nhưng là nơi chôn vùi sự
nghiệp của vô số hậu nhân Tôn Vơ Tử
suốt 4.000 năm. Đó chính là Đại Việt. Vẫn biết rằng “thành bại là lẽ thường
của binh gia”, nên bài viết này không phải
nhằm mục đích hạ thấp các tướng
lĩnh đó, mà chỉ là mượn chút uy danh
của họ để nêu bật lên sự huy hoàng
của các tướng sĩ nước Nam, những
con người nhỏ bé nhưng anh dũng đă
đường đường chính chính đánh
bại các đối thủ mạnh hơn để
bảo vệ quê hương ḿnh. Không ai trong số
họ muốn được vinh danh, nhưng ngàn năm
con cháu vẫn sẽ luôn ghi nhớ. V́ triều đại nhà Trần là triều đại
có chiến công lừng lẫy nhất, chúng ta sẽ
bắt đầu với họ nhé. Phần 1: Ngột Lương Hợp Thai – Uriyangqatai
(1200-1271)
Uriyangqatai (chữ Mông Cổ: ᠥᠷᠢᠶᠠᠨᠺᠠᠲᠠᠢ, Урианхайдай), c̣n được chép trong sử liệu chữ Hán
với phiên âm Hán Việt là Ngột Lương
Hợp Thai hay Cốt Đăi Ngột Lang. Ông là một
chỉ huy quân sự kiệt xuất của quân đội
Nguyên Mông và là tướng chỉ huy quân Mông Cổ
xâm lược Đại Việt lần thứ
nhất vào năm 1258. Ngột Lương Hợp Thai
được xếp là công thần đứng hàng
thứ 3 của nhà Nguyên.
Ngột Lương Hợp
Thai. (Ảnh minh họa từ youtube) Con trai của Subotai, người đem đến châu
Âu “Cơn thịnh nộ của Chúa Trời” Cha của Ngột Lương Hợp Thai là một
vị tướng lừng lẫy khắp thế
giới từ Á sang Âu, chính là Subotai (Tốc Bất
Đài). Tốc Bất Đài là một dũng tướng
bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hăn
trong Tứ Cẩu hay Tứ Dũng (4 viên dũng tướng);
3 người c̣n lại là Gia Luật Mễ, Hốt
Tất Lai, Triết Biệt. Tốc Bất Đài
đă theo chân Thành Cát Tư Hăn từ những ngày
đầu lập quốc. Ngoài việc góp phần quan trọng trong các chiến
dịch đánh bại các đế quốc Khwarizm cũng
như hạ gục Kim và Tây Hạ ra, th́ vinh quang
lớn nhất của Subotai chính là chiến dịch
viễn chinh gây kinh hoàng khắp châu Âu được
ví như cơn thịnh nộ của Chúa Trời. Ông đă khởi động cuộc chiến với
chuỗi chiến thắng trải dài từ Nga, Ba Lan,
Hungary, Áo và thậm chí đă chuẩn bị xâm lăng
đế chế La Mă, nhưng cái chết của
Đại Hăn Ogotai (Oa Khoát Đài) đă khiến
chiến dịch bị hoăn vô thời hạn. Và ông
đành kết thúc cuộc đời binh nghiệp
với chiến dịch sau cùng tiêu diệt nhà Nam
Tống. Vinh quang trải khắp Á Âu Là con trai của Tốc Bất Đài, Ngột Lương
Hợp Thai thừa kế thành công tài năng quân
sự của cha ḿnh và cũng trở thành một tướng
lĩnh nổi tiếng của nhà Nguyên Mông. Ông
từng tham gia đánh nước Kim của người
Nữ Chân ở miền Liêu Đông, tấn công Đức
và Ba Lan dưới cờ của Bạt Đô (sau này
là Đại Hăn của Hăn quốc Kim Trướng) cũng
như nhận lệnh tấn công đế quốc
Ả Rập cùng Húc Liệt Ngột (em của Hăn Mông
Cổ là Mông Kha) [1]. Sau này Húc Liệt Ngột là Hăn
của Hăn quốc Y Nhi (Hăn quốc này bao gồm Iran và
Iraq hiện nay). Nhưng sau đó, Ngột Lương
Hợp Thai nhận lệnh mới và không ở trong
đội quân đi đánh Bagdad. Từ năm 1252, Ngột Lương Hợp Thai và
Hốt Tất Liệt đánh Đại Lư –
quốc gia của người Thoán Bặc (người
Di ở Vân Nam), chiếm được kinh đô
từ năm 1253. Sau đó, Hốt Tất Liệt
nhận việc mới và Ngột Lương Hợp
Thai trở thành tổng chỉ huy. Năm 1254, Ngột Lương Hợp Thai đă hoàn thành
việc b́nh định nước Đại Lư
với việc bắt sống vua Đại Lư là
Đoàn Hưng Trí. Nhằm dọn đường cho quân Mông Cổ
tiến đánh nhà Nam Tống từ phía Nam, Ngột Lương
Hợp Thai tiến quân vào Đại Việt theo
đường từ Vân Nam dọc theo sông Hồng vào
tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1 năm 1258).
Quân của Ngột Lương Hợp Thai có ít
nhất là hơn 3 vạn người, trong đó 2
vạn là quân của Đoàn Hưng Trí. Định mệnh sa lầy nơi Đại Việt Ngày 12 tháng Chạp (17 tháng 1 năm 1258), các lực lượng
tiên phong của Ngột Lương Hợp Thai do Aju và
Cacakdu chỉ huy đă đến B́nh Lệ Nguyên và
giao chiến với quân Đại Việt do đích
thân vua Trần chỉ huy tại đây.
Ngột Lương Hợp Thai quá tự tin vào năng
lực tác chiến và các chiến thắng quá dễ
dàng tại Đại Lư nên đă vô thức không
nhận ra rằng, lần này ông ta đă gặp
phải đối thủ lớn nhất của đời
ḿnh. Kế hoạch bắt sống bộ chỉ huy nhà
Trần và đánh tan quân Đại Việt chỉ
trong một trận của Ngột Lương Hợp
Thai đă thất bại khi Trần Thái Tông nghe
lời Lê Tần quyết định lui quân để
bảo toàn lực lượng. Quân Ngột Lương
Hợp Thai tiếp tục tấn công ồ ạt,
khiến quân Đại Việt phải bỏ kinh
đô Thăng Long. Nhờ dự liệu chính xác
về phương thức chiến tranh của quân Mông
Cổ, nhà Trần trước đó đă thực
hiện cuộc đại di tản toàn bộ kinh
đô và không để lại một chút ǵ cho đạo
quân xâm lược có thể lợi dụng. Thiếu lương thực, khí hậu bất lợi,
sự kháng cự của quân Đại Việt đă
khiến quân của Ngột Lương Hợp Thai
gặp nhiều khó khăn. Chỉ 12 ngày sau trận
giao chiến đầu tiên, tức ngày 29 tháng 1 năm
1258, quân Đại Việt đă phản công, đánh
bật quân của Ngột Lương Hợp Thai
khỏi Thăng Long bằng chiến dịch Đông
Bộ Đầu. Ngột Lương Hợp Thai
quyết định rút quân về Vân Nam. Giữa
đường, quân của Ngột Lương
Hợp Thai bị lực lượng của Hà
Bổng tập kích gây tổn thất nặng. Sau khi thoát về Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai
được lệnh hội sư công Tống
(tập hợp các cánh quân chuẩn bị cho chiến
dịch lớn tấn công nhà Tống) nhưng bị
tước giải binh quyền không lâu sau đó.
Quyền chỉ huy được giao lại cho con trai
của Ngột Lương Hợp Thai là Aju. Thiệt hại của quân Mông Cổ trong trận
chiến này có lẽ là lần thiệt hại
nặng nề nhất tính cho đến lúc đó, tùy
theo nguồn tài liệu mà chênh lệch từ già
nửa cho tới khoảng 4/5. Sử gia Rasid ud-Din cho biết rằng khi tiến lên
Ngạc Châu ở miền Nam Trung Quốc gặp
Hốt Tất Liệt, quân số của đoàn quân
này chỉ c̣n không quá 5.000 người. Nguyên sử [2], Ngột Lương Hợp Thai truyện
và bài bia kư A Truật chép rằng: Khi thâm nhập
đất Tống, đoàn quân này c̣n 3000 kỵ binh Mông
Cổ và 1 vạn quân Thoán Bặc. Bước ngoặt của cuộc chiến chống Mông
Cổ cho toàn thế giới V́ cuộc chiến chỉ diễn ra chưa đến
nửa tháng với chiến bại quá nhanh và
triệt để của quân Mông Cổ, người
ta thường ít nhận thấy mức độ
quan trọng của nó so với 2 cuộc chiến
khốc liệt hơn lần thứ 2 và thứ 3 sau
đó 30 năm. Nhưng các sử gia trong đế
quốc Mông Cổ như Rasid-ud Din và Lê Tắc (tác
giả An Nam chí lược) [3] lại thừa nhận
rằng, quả thực là Đại Hăn Mông Kha
muốn chiếm Đại Việt làm bàn đạp
để đánh thọc vào châu Ung, châu Quế phía
nam nước Tống. Nếu chiến dịch này không quan trọng th́ Mông Kha
đă không cử tới 50 chư vương của
triều đ́nh Mông Cổ, có cả pḥ mă Mông
Cổ tên là Quaidu tham gia chỉ huy đội quân này.
Việc quân Mông Cổ thất bại ở Đại
Việt cũng đă giúp Nam Tống tránh được
việc bị đánh kẹp từ phía Nam để
có thể tập trung binh lực đối phó Mông
Cổ ở phía Bắc. V́ thế, tuy quy mô đạo quân của Ngột Lương
Hợp Thai không lớn, chỉ cỡ 4-5 vạn, nhưng
thất bại triệt để chóng vánh của ông
ta đă giáng một đ̣n nặng vào toàn thể
chiến lược xâm lăng đất Tống theo
bốn con đường mà Mông Kha vạch ra. Sử
gia Hà Văn Tấn có nhận định rằng: “Có lẽ… trong đời chinh chiến của ḿnh,
chưa bao giờ Uriangqadai bị thua nhục nhă như
lần này”.
Có lẽ… trong đời
chinh chiến của ḿnh, chưa bao giờ Uriangqadai
bị thua nhục nhă như lần này. (Ảnh minh
họa từ youtube) Thậm chí các tác giả phương Tây như Peter D.
Sharrock và Vũ Hồng Liên (người Anh gốc
Việt) đă nhận xét về kết quả
cuộc chiến năm 1258 là một cuộc chiến
bước ngoặt của toàn thế giới
chống quân Mông Cổ: “Các bộ sử Việt ca ngợi các sự kiện
năm 1258 là một đại thắng, nhưng Nguyên
sử và An Nam chí lược cho là người Mông
Cổ đă thắng, v́ họ đă chiếm
được Thăng Long. Cuối năm đó, Đại
Hăn Mông Kha gửi một lá thư cho vua Trần, có nói
đến việc ông ta [vua Trần] đuổi hai
sứ Mông Cổ, và yêu cầu triều đ́nh
Trần thần phục. Điều đó có nghĩa
là nhà Trần đă không thần phục từ trước.
Điều đó cũng có nghĩa là thanh danh bất
khả chiến bại của người Mông Cổ
đă bị tan vỡ tại thời điểm này.
Nguyên sử, An Nam chí lược và các bộ sử
biên niên Việt chỉ viết sơ sài về
cuộc chiến năm 1258, nhưng thật ra đây là
một bước ngoặt trong lịch sử thế
giới, v́ đây là bước lùi đầu tiên
của quân Mông Cổ tại châu Á và trong chiến
dịch chinh phục thế giới của họ. Nó
được nối tiếp bằng thất bại
được biết đến nhiều hơn
của họ trong tay người Mamluk tại Ain Jalut
tháng 9 năm 1260” [4]. (C̣n tiếp…) Tĩnh Thuỷ Chú thích: [1] Hăn (“khan”, “han”, đôi khi
“xan”) trong tiếng Mông Cổ và tiếng Thổ Nhĩ
Kỳ là một tước hiệu có nhiều nghĩa,
ban đầu có nghĩa là “thủ lĩnh” một
bộ tộc. Một Hăn kiểm soát một lănh
thổ gọi là Hăn quốc. Đôi khi cũng có
thể dịch là Hoàng đế. Ngày nay các Hăn
chủ yếu c̣n ở Nam và Trung Á. Khắc Hăn
(Khagan) nghĩa là Hăn của các Hăn. [2] Nguyên sử: Bản tiếng Việt:
https://sites.google.com/site/quankhoasu/nguyen-su Bản tiếng Hán:
http://www.guoxue.com/shibu/24shi/yuanshi/yuas_128.htm [3] “An Nam chí lược” được
viết bởi Trần Ích Tắc. Là hoàng thân nhà
Trần, nhưng Trần Ích Tắc là một người
tham vọng và muốn thay thế ngôi vị của Thánh
Tông và Nhân Tông. Khi nhà Nguyên xâm lược đến
Đại Việt năm 1285, ông đă dẫn gia
quyến xin hàng và được cải phong làm An Nam
quốc vương. Tuy nhiên, quân đội nhà Nguyên
liên tiếp thất bại khiến Trần Ích
Tắc tan vỡ kế hoạch và phải sống lưu
vong ở Đại Nguyên. V́ sự phản bội này
mà sau này nhà Trần đă loại Ích Tắc ra
khỏi tông thất. Ông ta phải cải họ nên
gọi thành Lê Tắc. Nguồn sách: https://drive.google.com/file/d/104IuZ5O9KmRxXjcg9wFs52uGMzRJHKaw/view [4] Peter D. Sharrock; Vũ Hồng Liên (2014).
Descending Dragon, Rising Tiger: A History of Vietnam (bằng
tiếng Anh). Reaktion Book. ISBN 1780233884. |