Trạng Tỏi |
Tài cao đức lớn,
‘Trạng Tỏi’ đất Việt khiến cả
triều đ́nh nhà Minh kính nể
Trong
lịch sử khoa bảng nước ta, ai cũng
biết cụ Nguyễn Khuyến đỗ đầu
cả ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đ́nh nên
được gọi là “Tam Nguyên”. Nhưng ít ai
biết rằng ngoài “Tam Nguyên Yên Đổ”,
lịch sử Việt Nam c̣n có một “Tứ Nguyên
Nguyễn Đăng” học vấn trác tuyệt, thường
được dân gian nhắc đến với cái tên
thân thương là: “Trạng Tỏi”. Nguyễn
Đăng sinh năm Bính Tư (1576) đời vua Lê Anh Tông,
trong một gia đ́nh nghèo khó ở xă Đại Toán,
huyện Quế Dương (nay thuộc xă Chi Lăng,
huyện Quế Vơ), tỉnh Bắc Ninh. Làng Đại
Toán chuyên sống bằng nghề trồng hành,
tỏi nên gọi là làng Tỏi. Làng gồm 4 thôn
đều có tên nôm là Tỏi: Tỏi Măo, Tỏi
Thuỷ, Tỏi Đồng, Tỏi Mai. Tuy nghèo nhưng
gia đ́nh ông có truyền thống hiếu học, cha
mẹ ông đă nuôi các con ăn học chu đáo. Làng trồng hành
tỏi có Trạng nguyên Khi
c̣n nhỏ, nghe nói cụ nghè Nguyễn Đ́nh Tuân, quê
ở làng Vơ, xă Quảng Bố, huyện Lang Tài là người
hay chữ, dạy giỏi trong vùng, gia đ́nh
Nguyễn Đăng đưa cậu bé đến
tận nhà thầy xin học. Cụ nghè chỉ
nhận những người hiếu học và thông
minh, nên ra một câu đối, ai đối hay
mới nhận làm môn sinh. Nguyễn Đăng vui
vẻ nhận lời. Cụ nghè ra vế đối: “Vó
vó, te te, vơng tiến sĩ” Vế
này đặt ra ba yêu cầu hóc búa về nội
dung: một là “vó, te, vơng” là những đồ dùng
sinh hoạt, làm ăn của nhà nông; hai là làng Vó, làng
Te đồng thời là những nơi cụ nghè
ở; ba là ở nơi thôn dă nghèo khó như vậy
mà xuất sinh một ông nghè như thế, chứng
tỏ là nơi có truyền thống hiếu học. Nguyễn
Đăng nghe xong liền đối ngay: “Hành
hành, tỏi tỏi, kiệu trạng nguyên” Vế
đối của cậu bé thật là lời hay ư
đẹp, đáp ứng được cả 3 yêu
cầu của vế ra: “hành, tỏi, kiệu”
vừa là tên của rau, của các loại gia vị
vừa là địa danh của quê ông. Trong một làng
quê chỉ có nghề trồng hành, tỏi, rau màu
lặt vặt như vậy mà sinh ra một “quan
trạng” th́ thật hiếm thấy! Nghe
xong, cụ nghè khen hay và chấp nhận cho Nguyễn
Đăng theo học. Khoa
thi năm Nhâm Dần (1602), Nguyễn Đăng 26
tuổi đă thi đỗ giải nguyên qua các kỳ
thi Hương, thi Hội, thi Đ́nh. Ông c̣n đỗ
thủ khoa kỳ thi ứng chế (kỳ thi đặc
cách do vua Lê Kính Tông mở) nên được nhà vua
ban tặng danh hiệu là “Tứ Nguyên”. Danh hiệu
này có lẽ độc nhất vô nhị trong nước.
Tuy nhiên, nhân dân địa phương quen gọi ông
là “Trạng Tỏi”. Cụ nghè làng Vó mến tài
ông ngay từ ngày đầu nhập học nên đă
gả con gái của ḿnh cho ông.
Tài văn chương
khiến cả triều đ́nh nhà Minh thán phục Nguyễn
Đăng là một văn quan mẫn tiệp với
triều Lê, được vua Lê Kính Tông, Lê Thần
Tông rất mến phục và trọng dụng.
Triều đ́nh bổ nhiệm ông chức Hộ
bộ Hữu thị lang, tước Phúc Nam Hầu. Năm
Hoằng Định Quư Sửu (1613), Nguyễn
Đăng được triều đ́nh cử đi
sứ Trung Quốc, bấy giờ thuộc triều nhà
Minh, đời vua Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn
Lịch. Thời gian đi sứ là 10 năm. Đến
năm thứ ba, Hoàng đế nhà Minh triệu
tập sứ thần các nước ở Trung
Quốc nhân ngày đại khánh, mở tiệc chiêu
đăi các sứ thần, và chỉ thị cho các
sứ thần mỗi người làm một bài thơ
hoặc phú nói về chùa Phi Lai, một danh lam
thắng cảnh ở Trung Quốc. Cái tên “Phi Lai
tự” xuất phát từ sự tích ngôi chùa tự
nhiên ở đâu bay tới chỉ trong có một
đêm. Hạn trong 5 ngày phải nộp bài để
Hoàng đế ngự lăm. Mới
hơn 2 ngày, Nguyễn Đăng đă làm xong bài
“Phú chùa Phi Lai” (Phi Lai tự phú) và là người
nộp bài đầu tiên. Đến ngày thứ 5 là
ngày hạn nộp bài cuối cùng, hàng trăm bài thơ,
phú được đệ tŕnh lên Hoàng đế.
Sau khi Minh Thần Tông và các quan to trong triều
chấm và xếp loại, th́ bài “Phi Lai tự phú”
của Nguyễn Đăng làm là hay nhất, không bài
nào bằng. Bài
phú của Nguyễn Đăng giai điệu du dương
trầm bổng, khi nhặt khi khoan, thi trung hữu
hoạ, tựa như lạc vào chốn bồng lai tiên
cảnh. Sau đây là một trích đoạn của
“Phi Lai tự phú” (cụ Long Cát Nguyễn Thế
Đống dịch nghĩa, năm 1938): “Trong chùa th́: Hoa sen toả ngát; Hương xạ thơm rơi. Kinh Bối diệp tụng khuây
niềm tục; Ngọn từ đăng soi sáng
đường đời. Khoá lễ sớm, tiếng
kệ vừa im, ngỏ cửa sổ tiểu đi
thấp thoáng; Hồi chuông chiều, chén trà
đă cạn, vào pḥng trai sư ngủ thanh thơi. Trên vách đề thơ đen
nét mực; Trong nhà sửa lễ trắng
mâm xôi. Ngoài cửa thơm tho, hoa Bát
Nhă bốn mùa đỏ ối; Trước thềm mát
mẻ, trúc Chân Như ngh́n thuở xanh tươi. Ngoài chùa th́: Đông Tây cửa tía; Cao thấp bia xanh. Mau gót ngọc trèo lên bậc
đá; Leo thang mây bước tới
cung Quỳnh. Đài bả truyền trên
nền cao, con hiên viên hai voi cùng dấu kín; Đ́nh bán vân trong ghi tích
cổ, vở Tôn Khác một vượn kết duyên lành. Đưa khách hoa cười
tươi trước gió; Đón xuân chim hót váng trên cành. Rửa sạch bụi
trần, nước khe biếc rồng phun bay phơi
phới. Tránh qua mây khói, ngọn thông
già hạc đỗ nhẹ tênh tênh. Cảnh trí ấy từ khi bay
đến; Giang sơn này bởi đó
lừng danh”.
Tất cả các sứ
thần của các nước và các quan văn vơ trong
triều đ́nh nhà Minh đều rất cảm
phục tài văn chương của Nguyễn
Đăng. Hoàng đế Minh Thần Tông phong cho ông
học vị “Lưỡng quốc Trạng nguyên” và
mở tiệc yến chiêu đăi. Trong
bữa tiệc, Hoàng đế lại thử tài ông,
ra cho ông một vế đối: “Thập
khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư
phụ mẫu”. Ông
ứng khẩu đối ngay là: “Thốn
thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ
quân vương”. Đôi
câu đối này đối chọi từng chữ.
Vế trên ba chữ “khẩu”, “thập”, “tâm”
ghép lại thành chữ “tư” nghĩa là
“nhớ” (nhớ nhà, nhớ nước, nhớ cha
mẹ). Vế đối của Nguyễn Đăng
th́ ba chữ: “thốn”, “thân”, “ngôn” ghép
lại thành chữ “tạ” (tạ trời, tạ
đất, tạ nhà vua). Hoàng đế nhà Minh khen là
rất hay, và cho phép Nguyễn Đăng trở
về nước trước thời hạn 7 năm. Trước
khi ông về nước, Hoàng đế Minh Thần Tông
c̣n cho thợ chế tác ra một loại độc b́nh
bằng sứ có hoa văn trang trí thật đẹp
và viết bài Phi Lai tự phú của ông lên xung quanh
lọ độc b́nh, để làm kỷ niệm
tặng ông mang về nước, và trưng bày ở
các biệt thự, lâu đài, danh thắng ở trong
nước, không bán cho nhân dân mua. Đương
thời có câu ca ngợi về tài thơ phú của
Nguyễn Đăng rằng: “Phú ông Tỏi,
hỏi làm chi?”. Với
đức độ, tài năng của ḿnh, Nguyễn
Đăng đă có nhiều cống hiến cho dân,
cho nước. Ông luôn làm việc hết ḿnh và
được người đương thời ca
ngợi, các quan trong triều nể phục. Đến
khi về trí sĩ, ông lại mang nốt phần tâm
lực của ḿnh ra để giúp đỡ làng xóm
quê hương. Ông mở lớp dạy học ở
làng Hán Đà, Hán Quảng, học tṛ theo học
rất đông. Nhiều người trong số đó
đă hiển đạt. Có thể nói ông đă có công
xây đắp cho truyền thống giáo dục tại
xứ Bắc trong quăng đời xế bóng. Ông
mất năm Đinh Dậu (1657), hưởng thọ
81 tuổi. Sau khi qua đời, ông được
triều đ́nh phong tặng danh hiệu “Tế
thế trạch dân Đại Vương”. Đoàn Phạm |