Việt
Nam không hề đánh chiếm Thủy Chân Lạp
Lâm Văn Bé |
-
Việt Nam và Cao Miên là hai lân bang luôn thù nghịch
nhau. Từ 10 thế kỷ qua, ngay khi Cao Miên c̣n suy
yếu phải thần phục Việt Nam, Cao Miên
vẫn t́m cách gây hấn với Việt Nam. Thí
dụ như trong 183 năm trị v́ dưới
triều đại nhà Lư (1012-1195), Chân Lạp đă
cử các sứ bộ đến kinh đô Thăng
Long của Đại Việt để triều
cống đến 24 lần, nhưng giữa các
lần triều cống ấy, Chân Lạp lại
đem quân, hoặc đơn phương, hoặc liên
kết với Chiêm Thành đánh phá đến 9
lần châu Nghệ An, vùng biên viễn của Đại
Việt. (Nguyễn Tiến Dũng. Về quan hệ
của Đại Việt và Chân Lạp – Nghiên
cứu lịch sử số 11 (2010), tr.39). Trong
thời chiến tranh giữa Miền Nam với
Cộng Sản Miền Bắc (1960-1975), Cao Miên đă
cho Cộng sản thiết lập căn cứ trên
đất Miên, sử dụng hải cảng
Sihanoukville và các phi trường để chuyển
vận người và tiếp tế hậu cần cho
đoàn quân xâm lược (với điều
kiện "tặng" cho Miên 1 lô hàng trong số 10
lô). Sở
dĩ Cao Miên khiêu khích và hiếu chiến với
Việt Nam như vậy v́ Cao Miên mang nặng tâm
thức là Việt Nam đă chiếm đất
Thủy Chân Lạp để thành lập đất
Nam Kỳ. Giới lănh đạo Cao Miên, từ hoàng
tộc đến giới trí thức theo chủ nghĩa
dân tộc cực đoan luôn dùng mọi mưu chước
để khích động ḷng căm thù của người
dân Miên dùng bạo lực để đánh phá
Việt Nam, giết hại kiều dân Việt Nam trên
đất Miên và gần đây nhóm Khmer Krom đ̣i
Việt Nam phải trả lại lănh thổ Nam
Kỳ, vu cáo Việt Nam trên các diễn đàn
quốc tế. Bài
viết căn cứ vào các sử liệu và luận
cứ về công pháp quốc tế cũng như các
thỏa ước biên giới đă kư kết để
chứng minh là người Việt không hề đánh
chiếm Cao Miên, và sự h́nh thành đất Nam
Kỳ là do sự cộng cư của những
thổ dân bản địa, những người dân
Việt miền Thuận Quảng xuôi Nam, và những
người Minh Hương, tất cả đă cùng
đồng lao cộng khổ đến khai phá
một vùng đất hoang vu vô chủ. Phù
Nam: tiền đề của Thủy Chân Lạp Tưởng
cũng cần nhắc lại, theo truyền thuyết và
cổ sử Trung Quốc và được chép
lại trong sử Việt, vùng đất hoang vu
nầy, từ đầu công nguyên đến thế
kỷ thứ 7 thuộc về Vương Quốc Phù
Nam, bao gồm một vùng đất bao la trải dài
từ trung Lào qua Nam Thái Lan đến bán đảo Mă
Lai về phía Tây, và về phía Đông chạy
dọc theo theo bờ biển từ phía Nam Champa đến
Hà Tiên. (Wikipedia) Vương
quốc nầy gồm những dân cư hải đảo
như Mélanésien, Indonésien, Môn, theo văn minh Ấn
Độ. Di tích c̣n t́m thấy được
của nền văn minh Phù Nam, thường gọi là
văn hóa Óc Eo đă được Louis Malleret,
thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ (École
française d’Extrême-Orient, viết tắt là EFEO) khám phá
ra năm 1944 ở Óc Eo gần núi Ba Thê nay thuộc
tỉnh An Giang.
Nguồn:
Internet V́
nhiều lư do phức tạp và không xác định rơ
rệt (không là đề tài của bài viết v́
giới hạn trang giấy) có một cuộc nổi
dậy của một sắc tộc tên là Kambuja (nghĩa
là những đứa con của Kambu, tên của
thủ lănh, sau nầy được người Pháp
đổi lại là Cambodge, Chenla) từ miền Korat
(Bắc Cao Miên và Hạ Lào bây giờ) tràn xuống vùng
Biển Hồ, đánh đuổi người Môn và
lập nên vương quốc Chân Lạp vào thế
kỷ thứ 7. Vương quốc Phù Nam bị tan
rả sau năm 627, những tiểu quốc trong Phù
Nam cũ lần lượt thành lập những
quốc gia mới, những người Môn chạy
sang sinh sống ở vùng sông Ménam (Thái Lan), Miến
Điện, một số ít chạy sang vùng Đồng
Nai và cao nguyên Trung Phần (người Stieng, người
Mạ bây giờ). Vương
quốc Chân Lạp mới nầy đóng đô ở
Anglor và phát triển quyền lực ở vùng
Biển Hồ mà cao điểm là xây dựng các
đền đài Anglor (vùng Siemreap) vào thế kỷ
12-13. Anglor Wat là đền đài lớn nhứt
được xây từ 1112 đến 1152. Đến
thế kỷ 13, Anglor bao gồm một diện tích
độ 100 km2 và là một trong những thành phố
lớn nhứt thế giới thời ấy. Năm
1431, Xiêm tàn phá Anglor, vương triều phải
dời đô về Phnom Penh (1439). Đến thế
kỷ 16 kinh đô lại dời về Oudong (hiện
nay là một huyện của tỉnh Kompong Speu, cách
Phnom Penh 30 km) rồi mới trở lại Phnom Penh
từ 1866 dưới thời Norodom đệ nhứt. Anglor
từ đó đă bị bao phủ trong rừng sâu
cho đến năm 1851 mới được Henri
Mouhot, một nhà côn trùng học người Pháp vô t́nh
t́m thấy nhân khi đi nghiên cứu côn trùng và
chỉ bắt đầu được trùng tu
lại từ 1880. (Encyclopédie Encarta 2001. Paris: Microsoft,
2001, article sur le Cambodge). Nhưng
nội bộ các vương tộc Chân Lạp,
từ lúc thành lập, luôn luôn tranh chấp nhau, chia
cắt đất nước thành nhiều lănh địa
(như vào thế kỷ thứ 8 có đến 5 lănh
địa). Họ rất hiếu sát và hay trả thù,
trong 3 lần dời kinh đô từ Anglor, qua Oudong
rồi Phnom Penh hay mỗi lần thay đổi
triều đại, dân Miên tàn phá hết di tích và tàn
sát phe đối nghịch. Nội chiến đă làm
quốc gia suy yếu, Chân Lạp thường bị
Xiêm (đến 1939 mới đổi là Thái Lan)
nhiều lần đánh chiếm đất đai hay
phải cắt đất dâng cho Xiêm mỗi khi có
một ông hoàng Miên sang Xiêm cầu cứu. Cuộc
Nam Tiến dưới thời chúa Nguyễn Cuộc
Nam Tiến của dân Việt Nam đă bắt đầu
trong bối cảnh nội chiến nầy của
xứ Chân Lạp và cuộc nội chiến Trịnh
Nguyễn của Việt Nam. -
Năm 1620, vua Chey Chetta II đến Thuận Hóa xin
cầu hôn với công chúa Ngọc Vạn (khi trở
thành hoàng hậu có tên là Ang Cuv hay Sam Đát), con
của chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên. Cuộc hôn nhân
nầy chẳng qua là một dịp đi t́m đồng
minh của vua Chân Lạp, cầu viện chúa
Nguyễn để đánh lại Xiêm lúc nào cũng
đe dọa Chân Lạp. Chúa Nguyễn cũng lợi
dụng việc gả con gái để đưa quan
quân lên Chân Lạp và mang về những tiếp
liệu cần thiết (lúa gạo, trâu ḅ, voi) để
đánh chúa Trịnh và đưa người Việt
đi vào lập nghiệp ở vùng đất Phù Nam
cũ ở hạ lưu sông Mekong. Tuy
trên danh nghĩa là đất Chân Lạp, nhưng trong
thực tế là đất vô chủ bởi lẽ
từ 10 thế kỷ, v́ sự suy yếu nội
bộ, v́ chiến tranh liên tiếp với Xiêm, vùng
đất nầy hoàn toàn hoang vu không có guồng máy
cai trị của Chân Lạp. -
Năm 1623, niên kỷ đầu tiên đánh dấu
cuộc Nam Tiến, chúa Săi cho đặt hai trạm
thu thuế ở Prei Nokor (Saigon, nay ở khoảng
Quận 5) và Kas Krobei (Bến Nghé, nay ở khoảng
quận 1) (theo Địa chí văn hóa TPHCM, tr. 475).
Sự kiện chúa Nguyễn cho đặt hai trạm
thu thuế cho phép ta suy luận rằng trước
đó, lưu dân người Việt đă đến
khẩn hoang lập làng ở vùng đất vô
chủ nầy rồi, và trạm thuế của chúa
Nguyễn chỉ là chánh sách "dân làng đi trước
nhà nước theo sau". Trịnh hoài Đức cũng
xác nhận trong Gia Định Thành Thống Chí: "Dân
Nam vô Mô Xoài từ các Tiên hoàng đế tức
Nguyễn Hoàng (1558-1613), Nguyễn Phước Nguyên
(1613-1625)". Như
vậy, Mô Xoài (tức Bà Rịa bây giờ) là địa
điểm đầu tiên có người Việt
đến quần cư. Từ
đó, chúa Nguyễn khuyến khích dân Thuận
Quảng và đưa tù binh bắt được
trong cuộc chiến tranh với chúa Trịnh vào Nam
khẩn hoang lập ấp ở vùng đất
mới. -
Sau những đợt di dân tự nguyện và cưỡng
bách của người Việt, vào giữa thế
kỷ 17, có hai đợt di dân của người
Trung hoa đến. Năm
1679, khoảng 3000 binh sĩ trung thành với nhà Minh
đi trên 50 chiến thuyền đến xin chúa
Nguyễn cho lập nghiệp. Chúa Nguyễn Phúc
Tần chia ra hai nhóm, một nhóm do Trần Thượng
Xuyên chỉ huy đến khai phá vùng Cù Lao Phố (Biên
Ḥa), một nhóm do Dương Ngạn Địch
chỉ huy xuống Mỹ Tho và Cao Lănh. Trong
cuộc cộng cư nầy, những cuộc hôn nhân
giữa người Minh với người Việt
đă tạo thành cộng đồng người Minh
hương. Năm 1710, theo giáo sĩ Labbé, số người
Việt và Minh Hương lên đến 20 000 người,
phần lớn tập trung trong vùng Đồng Nai và
Tiền Giang. Năm
1671, một nhóm di dân khác cũng người Minh do
Mạc Cữu chỉ huy đổ bộ lên đảo
Koh Tral (Pháp âm từ tiếng Miên là Koh Sral = tiếng
Việt là Phú Quốc) rồi dùng đường
bộ lên Kampot, đến Oudong xin thần phục vua
Miên. Mạc Cữu được vua Miên cho phép khai
thác một vùng đất rộng lớn trong vịnh
Xiêm La, gọi là Căn Khẩu, mở ṣng bạc, buôn
bán với các ghe tàu qua lại, thu hút lưu dân Trung
Hoa từ khắp nơi tới, có một thế
lực rất lớn trong vùng. Bị vua Xiêm đánh
phá, Mạc Cữu được chúa Nguyễn
cứu trợ, nên sau khi dẹp được quân Xiêm,
Mạc Cữu xin sát nhập tất cả đất
đai đă khai khẩn về chúa Nguyễn năm
1724. Chúa Nguyễn đổi tên Căn Khẩu thành
dinh Long Hồ, sau nầy là Hà Tiên. Vua
Miên vẫn tiếp tục cầu cứu với chúa
Nguyễn mỗi khi có cuộc xâm lăng của Lào
hay Xiêm, hay giải quyết những tranh chấp trong
hoàng tộc, và để trả ơn, một vùng
đất rộng lớn từ Hà Tiên, Châu Đốc
qua đến lănh thổ Cao Miên hiện nay như
Kompong Som, Kampot... lần lượt được các
vua Miên dâng tặng cho chúa Nguyễn -
Năm 1732, vua Preh Satha II dâng đất Meso (Mỹ Tho)
và Longhor (Long Hồ) -
Năm 1757, vua Pheh Bat Ria dâng đất Phsar Dec (Sa Đéc)
và 2 huyện Tầm Bôn, Lôi Lạp thuộc tỉnh
Long Hồ (Vĩnh Long) cùng tỉnh Moat Chruc (Châu Đốc) -
Năm 1758, vua Ông Tôn, dâng đất Prac-Pra-Bang (Tràvinh),
Kleng (Sốc Trăng)… Như
vậy, đến năm 1758, cuộc Nam Tiến xem như
chấm dứt. Lănh thổ Việt Nam đă mở
rộng từ vùng Đồng Nai đến Hà Tiên. Việt
Nam không hề đánh chiếm Thủy Chân Lạp Trong
việc mở mang đất Nam Kỳ, một vấn
đề cần được minh xác. V́
thiên kiến của một số người Miên quá
khích phần lớn thuộc thuộc hoàng tộc, v́
quyền lợi của thực dân Pháp chia rẽ
Việt Miên Lào trong chánh sách chia để trị, và
v́ óc tự hào quá đáng của một số người
Việt, một thiên kiến thường được
lưu truyền theo đó đất Nam Kỳ là đất
Thủy Chân Lạp khi xưa đă bị Việt Nam
thôn tính. Lập
luận nầy sai v́ những lư do sau đây: -
Lúc ban đầu, cuộc Nam Tiến là một
cuộc cộng cư giữa người Việt, người
Tàu và người bản địa (Miên, Môn, Chàm)
để khẩn hoang một vùng đất vô
chủ. -
Sau đó, đến thế kỷ 18, những đất
đai vùng châu thổ Cửu Long và vùng ven vịnh Xiêm
La mà vua chúa Chân Lạp lần lượt dâng
tặng, hoặc trực tiếp cho chúa Nguyễn,
hoặc gián tiếp qua tay ḍng họ Mạc là
những cống vật để tạ ơn sự
giúp đỡ quân sự cho Chân Lạp để
bảo vệ đất Chân Lạp, chống đỡ
lại sự uy hiếp thường xuyên của Xiêm
La. Đối với triều đ́nh Việt Nam, đó
là những cử chỉ thần phục của Miên,
bởi lẽ những đất đai mà vua Miên dâng
tặng cho chúa Nguyễn không hẳn thuộc vua Miên,
v́ từ sau khi Phù Nam tan ră, vùng đất nầy
chẳng bao giờ được Miên kiểm soát hay
đặt bộ máy cầm quyền. Nếu
dựa vào các nguyên tắc về công pháp quốc
tế ngày nay cũng như theo quan niệm vương
quyền thời quân chủ ngày xưa, vùng đất
hoang vu thường được gọi là Thủy
Chân Lạp trước khi chúa Nguyễn đưa dân
Thuận Quảng vào lập nghiệp không thể xem là
đất của Chân Lạp. Ngày
nay, để được gọi là quốc gia,
cần có ba yếu tố: lănh thổ, dân tộc, và
chánh quyền, cũng như ngày xưa, khi uy quyền
của vua lan rộng đến đâu th́ lănh thổ
nới rộng đến đó. Thần dân tùy
thuộc một triều đại chớ không tùy
thuộc một lănh thổ. Nơi nào dân không nộp
thuế khóa, không triều cống phẩm vật, nơi
đó xem như đất vô chủ. Chân
Lạp không phải là Phù Nam Tất
cả luận cứ như trên dựa vào tiền
đề Chân Lạp là thừa kế toàn bộ lănh
thổ của Phù Nam nếu căn cứ vào truyền
thuyết thần thoại và cổ sử Trung Quốc
mà Việt Nam sao chép lại (xem Lưong Ninh. Vương
Quốc Phù Nam: lịch sử và văn hóa.- Hà Nội
: Nhà XB Văn hóa, 2005) Tuy
nhiên, từ sau khi khám phá di tích Óc Eo năm 1944
bởi Louis Malleret cũng như nhiều khai quật
cổ vật sau năm 1975 thực hiện bởi chánh
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, các nhà nghiên
cứu Pháp tại trường Viễn Đông Bác
Cổ cũng như các chuyên viên khảo cổ, văn
minh học Việt Nam và thế giới đă hoài nghi
hay bác bỏ luận thuyết cho là nước Chân
Lạp là thừa kế nước Phù Nam cũ v́
những lư do sau đây: 1- Về địa vực Nước
Chân Lạp trải dài từ cao nguyên Korat, dọc lưu
vực sông Chi, sông Mun, theo dăy Dangrek về phía đông
đến vùng cao nguyên Champassak của Lào. Như
vậy, lănh thổ của Chân Lạp chỉ ở vùng
trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển
Hồ trong khi nước Phù Nam cũ c̣n kéo dài
xuống Nam Bộ đến Vịnh Thái Lan. 2- Về văn hoá Phù Nam Những
cuộc khai quật ở Óc Eo, Núi Sam, Ḷ Mo (An Giang);
Nền Chùa, Cạnh Đền, Mốp Văn (Kiên
Giang); G̣ Tháp (Đồng Tháp) v.v.… đă t́m thấy
khoảng 20 000 di vật gồm đủ các loại:
ŕu đá, đồ gốm, các tượng bằng
gỗ, đá hay đồng; những hột lúa
cổ; di cốt người, động vật;
ngoải ra c̣n t́m thấy những dấu vết
kiến trúc cổ, mộ táng cổ, đặc
biệt các đồng tiền La Mă có h́nh hoàng đế
Antonious Pious và hoàng đế Marcus Aurelus, các đồng
tiền h́nh vua Ba Tư, đồ trang sức bằng
thủy tinh, đá quư…Tất cả các cổ
vật nầy chứng tỏ văn hóa Óc Eo có
một nền kinh tế rất phát triển, có quan
hệ thương mại và văn hóa với vùng
Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư và
vùng Địa Trung Hải. Điều nầy
chứng minh Phù Nam là một quốc gia có truyền
thống hàng hải và thương nghiệp trong khi Chân
Lạp chỉ phát triển ở vùng Biển Hồ
lấy nông nghiệp làm chính yếu. Ngoài ra, về nhân
chủng và tôn giáo, người Phù Nam là người
gốc Nam đảo (Austronesian) và theo Ấn giáo
(Hindu) trong khi người Chân Lạp là người
gốc Nam Á (Austroasiatic) và theo Phật giáo. 3- Về sinh hoạt và quần cư
của người Miên ở vùng Thủy Chân
Lạp sau thời kỳ Phù Nam tan ră (sau thế kỷ
thứ 7) Các
sách sử Việt Nam, ngay cho sử Miên trong Chroniques
royales du Cambodge không hề nhắc đến. Chỉ có
sứ thần nhà Nguyên tên Chu Đạt Quan đến
viếng Vương quốc Angkor - Khmer trong 3 năm
(1295-1297), và trong hồi kư "Chân Lạp phong thổ
kư" đoạn mô tả vùng hạ lưu sông Mékong,
ông viết như sau: "Sau khi qua khỏi biên
giới ở Chân Bồ (Chen Pu, tức Vũng Tàu hay Bà
Rịa) ta thấy mọi nơi um tùm các cây đan
chen nhau trong khu rừng thấp, những cửa sông
rộng lớn của con sông (tức Mékong) chạy dài
hàng trăm lí (1 lí = 77 m), bóng mát um tùm của
những gốc cổ thụ và cây mây leo quanh dài
tạo thành nhiều chỗ trú ẩn xum xê. Tiếng
chim hót và tiếng thú vật kêu vang liên tục
khắp nơi. Ở khoảng nửa đường
trong chuyến đi vào từ cửa sông, th́nh ĺnh ta
mới thấy vùng đất mở ra với
những cánh đồng hoang, không thấy có một
gốc cây nào... Hàng trăm, hàng ngàn trâu rừng
tụ họp đầy bầy ăn cỏ trong vùng
nầy… Có
hai loại người thổ dân ở rải rác:
loại đầu là những người hiểu ngôn
ngữ của xứ Chân Lạp, loại hai là
những người sống hoang dă từ chối
nền văn minh và không hiểu ngôn ngữ xứ
sở Chân Lạp. Họ không có nhà cửa, dẫn
gia đ́nh đi lang thang đội các b́nh thực
phẩm bằng đất sét trên đầu…" (Lê
Hương. Chân Lạp phong thổ kư- Saigon, 1973 tr. 60,
80; dịch từ Chou Ta-Quan. Notes on The Customs of Cambodia). Những
thổ dân mà Chu Đạt Quan mô tả là những người
Chân Lạp trốn chạy các cuộc ruồng
bắt nô lệ trong thời kỳ xây đền
Anglor, c̣n người sống hoang dă là người Phù
Nam cổ c̣n sống sót ở lại. Sau khi người
Việt, người Minh Hương đến khai
khẩn lập làng xóm vào đầu thế kỷ 17,
một số người Miên chạy trốn
những cuộc nôi chiến ở vương
triều và sát hại của quân Xiêm, họ theo sông
Mékong và sông Vàm Cỏ đến vùng hạ lưu Mékong
để sinh sống. Người Miên sinh hoạt theo
lối da beo, tập trung trên các giồng đất
cao để trồng lúa rẫy, tránh xa người
Việt và người Minh Hương ở vùng đồng
bằng trồng lúa nước. Đó là lư do
giải thích sự có mặt của người Miên
tại những vùng đất kém ph́ nhiêu, xa trục
giao thông tại Nam Kỳ như Trà Vinh, Sốc Trăng,
Bạc Liêu hay vùng biên giới như Châu Đốc,
Tây Ninh. Tranh
chấp ranh giới Sau
khi Pháp chiếm Cao Miên biến thành xứ bảo
hộ (1863) và Nam Kỳ thành xứ thuộc địa
(1867), Pháp xúc tiến việc ấn định
đường ranh giới Miên Việt nhằm
bảo vệ quyền lợi của Pháp tại 3
quốc gia trong Liên Bang Đông Dương (Việt, Miên,
Lào) để ngăn chận sự xâm nhập
của Xiêm do nước Anh chỉ huy từ xa. Việc
thành lập đường biên giới Việt-Miên
bắt đầu bởi một Thỏa ước sơ
khởi (1870) và Thỏa ước thực thụ kư
ngày 15-7-1873 giữa vua Miên Norodom I (trị v́ 1860-1904) và
Thống đốc Nam Kỳ Dupré. "…Biên
giới giữa xứ Nam kỳ thuộc Pháp và Vương
quốc Cao Miên sẽ được đánh dấu
bằng các cột mốc, có đánh số ghi chú công
dụng của cột. Tổng số cột mốc là
124. Cột số 1 sẽ được đặt
ở điểm cực Đông của đường
biên giới và các cột kế tiếp sẽ
tiến dần về hướng Tây theo thứ
tự của các con số đến 124. Điểm
bắt đầu là cột số 1 đặt trên
bờ con sông nhỏ Tonle-Tru, hướng chung của
đường biên giới là đi về hướng
Tây-Nam và đi ngang qua các làng Sroc-Tun…." "Arrangement
conclu entre Sa Majesté le roi du Cambodge et le Contre-Amiral Gouverneur
et Commandant en Chef en Cochinchine déterminant définitivement la
frontière entre le royaume du Cambodge et la Cochinchine française… …La
frontière entre la Cochinchine française et le royaume du Cambodge sera
marquée par des poteaux numérotés et portant une inscription indiquant
leur objet. Le numéro 1 sera placé à l’extrémité Est de la frontière
et la gradation sera continuée vers l’Ouest dans l’ordre naturel des
chiffres jusqu’au poteau 124. Le point de départ est la le poteau no.1
planté sur le bord de la petite rivière de Tonle-Tru, la direction générale
de la frontière est ensuite le Sud-Ouest et passée par les villages de
Sroc-Tun…" (Source:
Bibliothèque nationale de France. Bulletin officiel de l’Annam et du
Tonkin, 1873.- p.435 (https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k1261881t/f3.
item). Thỏa
ước năm 1873 nầy sau đó được
sửa đổi, điều chỉnh bởi
nhiều nghị định của Toàn Quyền Đông
Dương năm 1898, 1899,1914, 1935, 1936. Đường
biên giới nầy, từ khi h́nh thành đến nay
đă gặp nhiều tranh căi, tranh chấp của Cao
Miên về vấn đề chủ quyền của
Việt Nam trên vùng đất Nam Kỳ. Trước
hết phải khẳng định rằng luật pháp
quốc gia (Việt, Miên) và quốc tế đă
thừa nhận đất Nam Kỳ đă là lănh
thổ của Việt Nam, nhưng thỉnh thoảng chính
quyền Cao Miên vẫn đặt lại vấn đề
đ̣i lănh thổ và phủ nhận cơ sở pháp
lư các thỏa ước biên giới kư kết trong
thời thuộc địa. Năm 1959, đại
diện Cao Miên tại Liên Hiệp Quốc đă cho lưu
hành một tài liệu tựa là: "Nam Kỳ, lănh
thổ của người Khmer" trong đó Cao Miên
nêu lên "không có bất cứ một vùng lănh
thổ Nam Kỳ nào là phần thưởng được
trao cho người Annam bởi một quyết định
mang tính quốc gia tối cao, cũng như không có
cộng đồng quốc gia, hội quốc liên,
hoặc một tổ chức pháp lư quốc tế nào
thực hiện hành động như vậy".
(Nguyễn Sĩ Tuấn. Các hiệp định biên
giới VN-Campuchia). Rơ
ràng là Cao Miên ăn ngược nói ngạo, nhưng
chính phủ Pháp, quốc gia đại diện cho
Triều đ́nh Huế đă phản bác luận
điệu gian trá nầy với những dẫn
chứng như sau (tóm tắt) -
Cao Miên đă mặc nhiên công nhận chủ quyền
của VN trên đất Nam Kỳ khi kư kết các
hiệp ước song phương và đa phương -
Hiệp ước Việt – Xiêm - Cao Miên (1845) Tháng
12-1845, ba quốc gia Việt, Xiêm và Cao Miên kư một
hiệp ước thừa nhận về mặt pháp lư
Nam Kỳ thuộc về Việt Nam. Sau đó, hiệp
ước 1846 giữa Việt và Xiêm, với sự có
mặt của Miên tái xác nhận vấn đề
nầy. Raoul Marc Jennar, trong luận văn tiến sĩ
Les frontières du Cambodge contemporain đă xác định hai
văn kiện nầy có giá trị pháp lư quốc
tế về chủ quyền của Việt Nam trên
đất Nam Kỳ trước khi người Pháp
đến xâm chiếm. -
Hiệp ước Việt – Xiêm (1847) Năm
1847, hai nước Việt và Xiêm đă kư một
hiệp ước với sự chứng kiến
của vua Cao Miên là Ang Dương. Đây cũng là
một văn bản mang tính pháp lư quốc tế
khẳng định vùng đất Nam Kỳ thuộc
chủ quyền Việt Nam trước khi Pháp sang xâm
chiếm và đô hộ. Nội dung hiệp ước,
theo các sử gia th́ hiệp ước đă công
nhận Ang Dương là vua Cao Miên, nhưng Cao Miên
nhận là chư hầu của hai nước Việt
và Xiêm; triều đ́nh Huế phong vua Ang Dương
làm Cao Miên Quốc vương, trả lại cho Cao Miên
các quận chúa và hoàng tộc hay đại thần
đă bị đem sang giữ ở Việt Nam và ngược
lại, Cao Miên xác nhận các đất Nam Kỳ
thuộc về Việt Nam. -
Hiệp ước Pháp – Tây Ban Nha – Việt Nam Hiệp
ước Pháp -Tây Ban Nha-Việt Nam (kư tại Sài G̣n
ngày 5-6-1862 tức là Ḥa ước Nhâm Tuất) đă
khẳng định chủ quyền của Việt Nam
trên lănh thổ Nam Kỳ. Điều 3 của bản
hiệp ước quy định "chủ quyền
đối với ba tỉnh Biên Ḥa, Gia Định và
Định Tường cũng như Côn Đảo
được chuyển nhượng hoàn toàn cho nước
Pháp". Điều nầy mặc nhiên thừa
nhận vùng đất này vốn là của Việt trước
khi bị “chuyển nhượng" v́ theo nguyên
tắc, chỉ có chủ nhân mới có quyền
“chuyển nhượng” cho một đối tượng
khác. Luật
49-733 trả Nam Kỳ cho Việt Nam Ngày
4 tháng 6 năm 1949, tại Toulon (Pháp), Tổng Thống
Pháp Vincent Auriol, Thủ tướng Henri Queuille và
Bộ Trưởng Lănh thổ hải ngoại Paul
Coste-Floret đă kư luật 49-733 trao trả đất
Nam Kỳ lại cho Việt Nam. Trước
khi Pháp chuẩn bị trao trả Nam Kỳ cho Việt
Nam, Sihanouk gởi cho Chủ tịch Liên Hiệp Pháp ngày
2 tháng 4, 1969 bức thơ phản đối ranh
giới Cao Miên với Nam Kỳ cho là do Pháp qui định
dựa theo quyền lợi của Pháp tại Nam
Kỳ. Ngày
8/6/1949, Chánh phủ Pháp đă bác bỏ yêu cầu
nầy của Sihanouk: "Về pháp lư và lịch
sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các
cuộc đàm phán song phương với Cao Miên
để sửa lại các đường biên
giới của Nam Kỳ v́ Nam Kỳ đă được
An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm
1862 và 1874… Chính phủ Pháp cũng khẳng định
rằng chính từ triều đ́nh Huế mà Pháp
nhận được toàn bộ miền Nam Việt
Nam… Về pháp lư, Pháp có đủ cơ sở để
thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại
việc sửa đổi quy chế chính trị
của Nam Kỳ" Ngoài
ra, chính phủ Pháp c̣n lưu ư Cao Miên "nên
thận trọng về luận thuyết cho rằng
miền Tây Nam Kỳ vẫn c̣n phụ thuộc
triều đ́nh Khmer lúc Pháp đến và Hà Tiên
đă được đặt dưới quyền
của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 cũng như
kinh nối Hà Tiên với Châu Đốc được
đào theo lịnh của các quan An Nam từ nửa
thế kỷ trước khi chúng tôi đến…" (Raoul
Marc Jennar. Les frontières du Cambodge contemporain.- Paris : INALCO,
1998. p. 97 (Thèse de doctorat, catalogue Sudoc). Cuộc
phản kháng vẫn tiếp tục dai dẳng Sarin
Chhrak, đồng chí quá khích của Sihanouk, trong
luận án tiến sĩ Les frontières du Cambodge đă nêu
lên một luận thuyết ngang ngược là hai
thỏa ước biên giới năm 1870 và 1873 không có
giá trị pháp lư v́ vua Cao Miên đă bị chánh
quyền bảo hộ Pháp ép kư, và Cao Miên hôm nay
đă độc lập có quyền xét lại các
thỏa ước nầy. Luận thuyết nầy là
một yêu sách mà người Miên thường
viện dẫn để đ̣i đất, đánh phá
VN, nhưng các luật gia quốc tế đều bác
bỏ chiếu theo nguyên tắc giữ nguyên trạng
(Uti posideis). Nếu các quốc gia sau khi độc
lập đ̣i thay đổi biên giới theo ước
muốn của ḿnh th́ thế giới sẽ hổn
loạn. Cũng
dựa vào tài liệu nầy của Chhak, dưới
thời VNCH năm 1967, Sihanouk đă vẽ lại
bản đồ của Miên, tuyên bố là vùng đất
dọc theo biên giới từ tỉnh Darlac xuống
đến khu tả ngạn sông Bé, đến Thủ
Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh chạy
dọc đến tỉnh Tân An và phía Tây của Hà
Tiên là thuộc về đất Miên. Sau
chiên tranh Việt-Miên năm 1979, phong trào Khmer Khom đựợc
phe Sam Rainsy (đối lập với phe thân Việt
Cộng Hun Sen) hỗ trợ phát động chiến
dịch đ̣i toàn bộ đất Nam Kỳ và dùng
các cơ quan truyền thông để chống Việt
Nam trên diễn đàn quốc tế bằng các vu
khống. Họ nhắc lại âm mưu của Pháp
trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam bằng đạo
luật ngày 4 tháng 6 năm 1949 và cứ mỗi năm
vào ngày 4 tháng 6, họ tổ chức biểu t́nh
khắp nơi trong nước và ngoài nước
để đ̣i Việt nam trả đất. Để
tạo hận thù, họ vu cáo những tội ác ghê
rợn của VN như thiêu sống 10 000 người
Miên năm 1945, giết hàng ngàn người Miên ở
Trà Vinh, Vĩnh Long rồi thả xác trôi sông từ
1976 đến 1979, cấm sư sải Miên hành đạo... Cuối
cùng, cũng cần nói thêm là không phải chỉ riêng
VN được Miên tặng đất mà Xiêm cũng
được tặng đất và c̣n được
tặng nhiều hơn. Những tỉnh Chantaburi,
Prachinburi, Xurin, Xixaket... ngày nay của Thái Lan trước
kia là đất của Chân Lạp. V́ khiếp sợ
Thái Lan hay v́ cùng chủng tộc và tôn giáo, Sarin Chhrak
và dân Miên ngậm câm mà chỉ chỉa mũi dùi vào
Việt Nam. Kết
luận Trên
con đường Nam Tiến, dân tộc Việt Nam
đă xóa mất nước Chiêm Thành. Đó là
một hành động thôn tính lănh thổ và diệt
chủng tàn bạo, là một tội ác mà khi nhắc
đến, người Việt không có ǵ vinh quang
để tự hào, mà trái lại phải cúi đầu
nhận tội. Nhưng đối với Cao Miên, người
Việt không hề đánh chiếm đất Cao Miên,
bởi lẽ cuộc khai quật các cổ vật
của nền văn hóa Óc Eo do Louis Malleret thực
hiện năm 1944 tại vùng núi Ba Thê (An Giang) và
của chánh phủ VN tại các địa điểm
khác trên Nam Bộ sau nầy đă chứng minh
miền Châu thổ sông Cửu Long và vùng Đồng
Nai là lănh thổ của vương quốc Phù Nam cũ,
đă hoang phế từ sau khi Phù Nam tan ră, và người
Việt, người Minh Hương cùng với người
bản địa trong đó có người Miên đến
khai khẩn trên vùng đất vô chủ đó. Lẽ
ra, sau năm 1944 là năm khai quật Óc Eo, Cao Miên
đă phải hiểu lịch sử của đất
nước ḿnh để từ bỏ cái mặc
cảm (tự tôn và tự ti) là Việt Nam đă cướp
đất Thủy Chân Lạp, và như vậy không nên
tổ chức cướp bóc, giết hại người
Việt (cáp duồn), đeo đuổi chính sách thù
nghịch với Việt Nam Cộng Ḥa bằng cách
tấn công quấy phá miền biên giới, trợ giúp
Cộng Sản đánh chiếm Miền Nam. Càng
trầm trọng hơn, Cao Miên c̣n tàn sát, kỳ
thị Việt kiều đă là công dân sinh sống trên
đất nước họ từ nhiều thế
hệ và đến nay đă trở thành máu thịt
của họ cũng chỉ v́ cái tâm thức thù
hận truyền kiếp đối với người
Việt. Tưởng
cũng cần biết là chiến dịch "bài
Việt" đă bắt đầu từ năm 1945
với chủ nghĩa dân tộc cực đoan
của vua Norodom Sihanouk, người lănh tụ tối
cao của dân tộc Cao Miên. Là
người quỹ quyệt và cao ngạo, trong 67 năm
trên chính trường (1945-2012), Sihanouk đă đảm
nhiệm không biết bao nhiêu chức vụ đến
đổi Guinness đă liệt kê tên ông vào danh sách
các chánh khách có nhiều chức vụ nhứt,
kể cả chức vụ cố vấn cho Khmer Rouge tàn
sát dân Khmer. Sihanouk c̣n là một nhà chánh trị
thời cơ đă theo Pháp rồi chống Pháp,
Mỹ, Việt Cộng, nhưng lại tuyệt đối
trung thành với Trung Cộng và Hàn Cộng, và đặc
biệt thù nghịch VNCH. Để
phát triển chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
từ năm 1945, Sihanouk đă cấp 250 học
bổng cho học sinh, sinh viên, đa số tốt
nghiệp từ Lycée Sisowath sang Pháp du học tại
Montpellier, Lyon… đặc biệt tập trung tại
Paris. Đa số các sinh viên nầy ngưỡng
mộ Robespierre, nhà cách mạng Pháp và được
tiếp cận, học tập chủ nghĩa Marx Lénine,
để khi trở về nước trở thành
những lănh tụ các đảng phái, lănh đạo
guồng máy chính trị của Cao Miên trong nửa
thế kỷ qua. Những tên khát máu trong Đảng
Khmer Rouge đă tàn sát hơn 1.5 triệu người
Cao Miên đều xuất thân từ cái "vườn
ương cây Paris" nầy như Saloth Sar (Pol Pot,
anh cả), Nuon Chea (anh Hai), Ieng Sary (anh Ba), Khieu Samphan (anh
Tư), Ta Mok (anh Năm)... là những tội đồ
diệt chủng của thế giới cận đại.
(Paris, pépinière des Khmers Rouges. – Le Parisien, 18 avril 2015). Truyền
thuyết và huyền thoại sai lầm của cổ
sử, chánh sách chia để trị các thuộc
địa Đông Dương của Pháp, và bản
chất gian tham, thù hận của Cao Miên đă
khiến Cao Miên ch́m đắm trong nhiều tai
biến mà Việt Nam đôi khi cũng bị vạ lây. Đă
đến lúc, tuy muộn màng, sự thật của
lịch sử phải được phơi bày.
Sự thật là nước Chân Lạp không phải
là nước Phù Nam cũ mà chỉ là một
tiểu quốc trong Vương Quốc Phù Nam. Cho dù
Cao Miên mạo nhận vùng đất c̣n lại
của Phù Nam để đặt tên là Thủy Chân
Lạp, nhưng trong suốt hơn 10 thế kỷ, vương
triều Cao Miên không hề đặt chân đến
vùng đất hoang vu nầy. Sự kiện Cao Miên dâng
tặng phần đất mạo nhận nầy cho chúa
Nguyễn là một cử chỉ thần phục hay
tạ ơn chúa Nguyễn đă giúp Cao Miên bảo
vệ lănh thổ của họ thường xuyên
bị Xiêm La đánh chiếm. Ngay đến hai ông
tiến sĩ trong cái "ḷ" của Sihanouk, trong
hai luận án cũng không nói đến chuyện
Việt Nam đánh chiếm đất mà nói là lường
gạt chiếm đất (Mak Phoen. Chroniques
royales du Cambodge. - Paris: EFEO, 1981 và Khin Sok. Le Cambodge entre
le Siam et le VN de 1775 à 1860 - Paris: EFEO, 1991). Hiểu
như vậy, người Việt Nam phải chấm
dứt luận điệu tự tôn sai lệch cũng
như người Cao Miên phải từ bỏ sự
lạm nhận gian trá vùng đất vô chủ để
chấm dứt vu cáo Việt Nam cướp đất
Thủy Chân Lạp. Lịch sử trung thực là như
vậy và phải nói rơ như vậy cho người
Việt Nam và người Cao Miên biết để hai
nước lân bang tập sống chung trong ḥa b́nh.
Vả chăng, cả hai nước hiện nay đă
cùng nằm chung trong cái rọ là chư hầu của
Tàu th́ nếu gây gổ nhau cũng chẳng nên cơm
cháo ǵ chưa kể bị đàn anh trừng phạt
v́ tội gây rối. Lâm Văn Bé |