Trước
nỗi đau mất nước gần kề…
MƯỜNG GIANG |
Trước
nỗi đau mất nước gần kề…
lại tưởng tiếc một thời oanh liệt
của Phật giáo VN Các
nhà nghiên cứu xưa nay, qua hai từ ngữ ”
BỤT và PHẬT”, nên kết luận rằng
Phật giáo đă truyền vào VN từ đầu tây
lịch, bằng hai con đường qua Ấn Độ
và Trung Hoa. Do
giáo lư nhà Phật về “luân hồi, nhân quả,
nghiệp chướng”, rất gần gũi với
tâm t́nh của tầng lớp người b́nh dân nông
thôn, miền biển và lao động.. nên đă nhanh
chóng đi vào đời sống của dân tộc.
Ngoài ra những kinh điển của Phật giáo
bằng chữ Hán từ Trung Hoa truyền sang, lại
đáp ứng được nhu cầu đ̣i hỏi
của tầng lớp quan lại trí thức trong nước
thời đó, vốn được đào tạo
bằng Nho học. Chính sự ḥa hợp này, đă
tạo thành Phật giáo VN với những sắc thái
đặc thù phổ quát, thường trực và luôn
đồng hành với lịch sử Việt, bằng
tất cả tinh hoa, hùng tâm, thần trí và đại
lực.
Đặc
tính huyền diệu cao thâm của Phật giáo VN là
“cứu khổ cứu nạn cuộc đời”,
cho nên người Phật tử VN lúc nào cũng
vững ḷng bền chí trong mọi hoàn cảnh, v́ bên
cạnh luôn luôn có sự hiện diện của “Đức
Thế Tôn”, đầu trần chân đất,
lặn lội khắp nhân gian để mà phổ
độ chúng sinh. Đây chính là lư tưởng của
Phật Như Lai ngay khi c̣n là Tất Đạt Đa, luôn
nhập thế ở giữa cuộc đời,
chứ không bao giờ xuất thế, nên nói
“Phật tại tâm” là thế đó.. Tóm lại tôn
chỉ của Phật giáo VN là nhập thế và sinh
phong vào đời, để phụng sự dân
tộc trong mọi hoàn cảnh, phát triển đất
nước và khai phóng mọi người, đến
cơi chân thiện mỹ, mà nhân gian quen gọi là
chốn cực lạc. Bởi
vậy nên khắp hang cùng ngơ hẹp, qua mọi
nẻo đường đất nước, không có
nơi nào không có bóng dáng ngôi chùa, cho dù ở thành
thị náo nhiệt hay chốn thôn ổ đ́u hiu, ngôi
chùa vẫn trầm mặc hương khói, ḥa
quyện cùng tiếng chuông mơ niệm kinh, để
rồi theo gió, trải ra mênh mông như muốn xóa nḥa
tất cả những phiền muộn của cuộc
đời, mang lại niềm thanh thản, hạnh phúc,
trong ḷng mọi người.
Sử
đă viết “đời
Lư lấy đạo Phật làm quốc giáo”,
nên đă đạt được nhiều thành
tựu hiển hách, xây dựng Đại Việt thành
một quốc gia văn hiến bề thế, tạo
điều kiện để cho nhà Trần, qua các
vị vua anh minh Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn.. có đủ
sức mạnh đánh đuổi được
giặc Nguyên-Mông ba lần xâm lăng nước ta.
Ngoài ra đời Lư cũng là triều dại đầu
tiên trong gịng Sử Việt, đă phục hưng
lại truyền thống và tập tính của dân
tộc, đă bị người Tàu nhồi sọ qua
mười thế kỷ đô hộ. Qua ư thức phát
xuất bằng từ tâm của người Phật
tử, các vị vua nhà Lư đă dấn thân nhập
thế, cấm chỉ việc tra tấn ngược
đăi tù nhân, cung cấp đầy đủ cơm
áo cho , với tấm ḷng ‘ thương người
như thể thương thân. Trong
lănh vực văn hóa, đời Lư qua các kỳ thi
tuyển chọn nhần tài phục vụ cho dất nước,
nội dung thi cử vẫn là đề tài từ các
học thuyết của Tam giáo (Phật, Nho, Lăo) .
Với các vị Thiền sư thời Lư-Trần,
đă trị nước bằng những ứng
dụng tâm thức tu hành theo giáo lư của Đức
Phật. Đó chính là những khải thị về không
gian mà Đức Phật đă nhập pháp giới trong
kinh Hoa Nghiêm ‘Mười phương thế giới
đồng nhất thể‘ hay mở bày ư niệm
về thời gian, trong kinh Kim Cang ‘Quá khứ tâm
bất khả đắc, hiện tại tâm bất
khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc‘. Mới
đây, người ta đă t́m thấy một pho Kinh
Phật bằng đồng,
được xem là cổ nhất, tại chân tháp Viên
Quang, chùa Phật Tích, thuộc Huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh (Bắc phần). Pho kinh là hai lá
đồng mỏng 1,5mm, khổ 11cm x 17cm, trên khắc
chữ Hán, được khâu dính lại bằng
một sợi dây đồng.. Đây là bộ Ba
La Mật Tâm Kinh,
một bộ kinh rất quan trọng của Phật giáo.
Ngoài ra cuối bản đồng, c̣n ghi rơ là cùng
khắc chung, c̣n có nhiều bộ kinh khác như
Pháp Hoa, Lương Hoàng, Địa Tạng, Kim Cương
Dược Sư, Di Đà, Quan Âm.. tất cả các
bộ kinh kể trên không t́m thấy. Theo
các nhà sử học và biên khảo trong nước,
th́ Bộ Kinh Phật bằng đồng trên, là
một quốc bảo, có từ thời nhà Lư khi
thực hiện khắc kinh trên đồng, với tâm
nguyện mong cho quốc đạo trường
tồn vĩnh cửu. Theo sử liệu, Phật tích,
Chùa Dậu (Kinh đô Phật giáo Lủy Lâu, xây
dựng từ thế lỷ thứ II sau TL ) và Chùa Bút
Tháp, được xem là Trung tâm Phật giáo đời
Lư. Nói
chung các đời Ngô,
Đinh, Lư, Trần..
đều mộ đạo Phật nên đă xây
dựng rất nhiều chùa chiền khắp nước.
Nhiều vị cao tăng như Khuông Việt, Vạn
Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Không Lộ, Măn Giác..
được triều đ́nh phong chức quốc sư,
nên đă góp phần rất lớn với quốc
gia, trong việc đánh bại quân xâm lăng Tàu và Mông
Cổ, khi chúng tấn công nước ta. Sau
khi Lê Lợi b́nh định được giặc
Minh, thành lập nhà Hậu Lê, chọn Nho học làm
quốc giáo, coi thường đạo Phật nhưng
ảnh hưởng của tôn giáo này vẫn không
hề sút giảm chút nào, trái lại tín đồ
Phật giáo càng lúc càng đông, v́ từ xa xưa người
dân trong nước đă có quan niệm, nơi nào có
chùa là có Phật. Cho
nên chỉ cần đi lễ chùa, học giáo lư và
tu niệm theo nhà Phật, đă là Phật tử
của Phật môn. Thời
Pháp thuộc, thực dân Pháp áp chế nhà Nguyễn,
mượn lệnh triều đ́nh Huế để
ban hành sắc lệnh, qui định Phật giáo là
một tôn giáo phụ. Tuy nhiên điều này,
chẳng những không làm sút giảm uy thế ngàn
đời của đạo, mà c̣n tạo cơ
hội để Phật giáo bành trướng
mạnh mẽ thêm khắp mọi nẻo đường
đất Việt.
Đặc
điểm của Phật giáo VN, là từ lúc du
nhập vào VN cho tới đầu thế kỷ
thứ XIX, đă không có một hệ thống lănh
đạo thống nhất, dù lúc đó Phật giáo
vẫn là một tôn giáo lớn và có nhiều tín
đồ nhất tại VN. Năm
1931 một đại hội Phật giáo đầu tiên,
do Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, nhóm
họp tại Sài G̣n. Kế tiếp là các đại
hội khác cũng được tổ chức
tại Trung Việt năm 1932 và Bắc Việt năm
1934. Cả ba đại hội đều chung một
mục đích “Chỉnh đốn Thiền Môn, Văn
hồi quy giới, giáo dục tăng ni và phổ thông
đạo pháp” bằng tiếng Việt. –
Ngày 6/5/1951, nhóm họp Phật giáo toàn quốc
tại Huế. Hiện
nay tại VN, Phật giáo có nhiều hệ phái đang
hoạt động : Từ
sau ngày 1-5-1975, Cộng
Sản Hà Nội dùng đạn súng hợp nhất
Phật giáo cả nước thành Giáo Hội
Quốc Doanh, đặt tượng Hồ ngang hàng
với Chư Vị Bồ Tát, do cán bộ tôn giáo
của Đảng lănh đạo. Năm 1981, Giáo Hội
PG.VN
Thống nhất, bị VC xóa sổ khi ra lệnh sáp
nhập vào Phật giáo nhà nước. Tuy nhiên đó
chỉ là lệnh và tuyên truyền, v́ từ năm
đó cho tới ngày nay, Giáo Hội Phật Giáo VNTN
(GHPGVNTN) , chưa hề tham gia vào bất cứ một
cơ cấu tôn giáo nào của đảng CSVN, nên
đă bị VC đàn áp dă man và đặt ra ngoài ṿng
pháp luật. Mới đây, trong kỳ Đại Hội
Đảng lần X, lần nữa VC lại to tiếng
phủ nhận sự hiện hữu của Giáo
Hội PG.VNTN trong nước. Tuy nhiên đó là lời
đảng , c̣n dân chúng VN bao đời đă
trải qua không biết bao nhiêu lần pháp nạn, cho
nên đâu có ai thèm để ư làm ǵ những
nghị quyết này nọ, trong lúc cuộc sống cơm
áo thêm phần khó khăn, trước thảm
trạng tham nhũng từ trên xuống dưới
của VC . Tại
B́nh Thuận, theo tài liệu của Tâm Quang viết
trong ‘Giai Phẩm B́nh Thuận Xuân Canh Th́n’ th́
khoảng năm Đinh Tỵ (1677) ở Đàng Trong,
Thiền sư Nguyễn Triều Siêu Bạch, thuộc
thiền phái Lâm Tế ở Trung Quốc, hệ
truyền thừa Vạn Phong Thời Uy (đời 21)
và Đạo Mân (đời 31), cùng các đệ tử
lập các ngôi chùa Phật giáo Lâm Tế tại Qui Nhơn,
Phú Xuân. Tiếp nối đệ tử, đồ tôn
như Minh Hải Pháp Bảo lập chi phái Chúc Thánh Lâm
Tế tại Quảng Nam, c̣n Thiệt Diệu Liễu
Quán th́ khai sinh chi phái Liễu Quán Lâm Tế ở
Huế. Ngoài ra c̣n một hệ của Trí Thắng Bích
Dung trực thuộc Lâm Tế đời thứ 25. Tóm
lại theo lịch sử Phật giáo Việt Nam th́
Khai Tổ Thiền phái Lâm Tế ở Đàng Trong là
Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch. Tại B́nh
Thuận, chùa Linh Sơn Trường Thọ (Chùa Núi Cú),
theo chi phái Lâm Tế Trí Thắng Bích Dung, do Kim Tiên
Tịch Ni khai đạo. Theo
Phật sử, th́ sự h́nh thành Phật giáo tại
B́nh Thuận có lẽ phát xuất từ lúc dân Đại
Việt vào lập nghiệp tại Thuận Trấn
từ năm 1693, do dân chúng và các ni sư trong
đoàn người di cư. Lúc đầu chỉ
mới có Đ́nh – Chùa, do dân tạo lập vừa
thờ Phật, thờ Thành Hoàng cũng là nơi sinh
hoạt chung của người dân lưu xứ. Riêng
các ni sư, nếu có điều kiện th́ tự
lập các thảo am rồi theo thời gian, đ́nh,
chùa, thiền viện phát triển và được xây
dựng quy mô đẹp đẽ như ngày nay. Tóm
lại qua ba trăm năm xây dựng, Phật giáo B́nh
Thuận chịu ảnh hưởng từ Phật giáo
Phú Yên (các tổ Bảo Tạng, Hữu Đức, Thái
B́nh, Hưng Từ, Viên Quang, Tịnh Hạnh..) và Biên
Ḥa – Gia Định (Tế Tín, Chánh Trực, Liễu Thành,
Liễu Đoan..). Năm
1800 Ḥa Thượng Đạo Chơn Quang Huy (Phú Yên)
lập chùa Liên Tŕ (Phan Thiết) và Đạo Chơn Thường
Trung chùa Phật Quang (Chùa Cát), hai vị trên đều
thuộc phái Lâm Tế Liễu Quán. Thật ra các chùa
Cát, Liên Tŕ, Long Quan.. được lập từ năm
1736 nhưng chưa có trụ tŕ. Riêng bản
gỗ khắc bộ kinh Đại Thừa Diệu Pháp
Liên Hoa, hiện c̣n nguyên vẹn tại chùa
Phật Quang, cũng được khởi công
khắc từ năm 1736
và măi 28 năm sau mới hoàn thành.
Tổ sư chùa Bửu Lâm (Phước Thiện Xuân)
là Tánh Giác Trí Chất. Riêng cao tăng danh tiếng
của B́nh Thuận là Ḥa Thượng Thông Ân
Hữu Đức xuất gia với Tổ Trí Chất và
Phổ Quang. Hầu hết các tăng, ni tại B́nh
Thuận, phần lớn là truyền thừa của
Tổ Hữu Đức, tổ sư chùa Kim Quang (Bầu
Trâm), Kỳ Viên và Linh Sơn Trường Thọ (Chùa
Cú), ngài viên tịch ngày 5-10-1887 tại chùa Cú.
Khoảng 1838-1839, Thiền sư Hải B́nh Bảo
Tạng khai sinh chùa Linh Sơn Vĩnh Hảo và chùa
Cổ Thạch (Tuy Phong). Năm 1850 Đại Sư
Như Thành Nhất Bổn, đúc chuông và trùng tu chùa
Long Quang (Phan Rí). Năm 1930, Ḥa Thượng
Phật Huệ khai sinh chuà Pháp Bảo. Năm 1936 Ni Trưởng
Diệu Tịnh, đệ tử chùa Chí Thiện Châu
Đốc, đến trụ tŕ B́nh Quang Ni Tự ở
B́nh Hưng, chùa này được vua Bảo Đại
sắc tứ và là tổ đ́nh của chư ni B́nh
Thuận. Năm
1938 An Nam Phật Học Hội B́nh Thuận thành
lập do Đoàn Tá, Ấm Cương, Thừa Tiêu,
Thừa Châm.. và hội trưởng đầu tiên là
Đoàn Tá. Năm 1940 chùa Phật Học được
xây dựng và là trụ sở tỉnh hội B́nh
Thuận, nhiều chi nhánh được phát triển
tại Mũi Né, Phan Rí.. Năm 1948 giáo hội tăng
già B́nh Thuận thành lập, trụ sở tại chuà
Linh Thắng, Lạc Đạo. Năm 1950 gia đ́nh
phật tử B́nh Thuận thành lập. Năm 1958
lập Ṭng Lâm Vạn Thiện, đồng thời Ḥa
Thượng Thích Giác An lập hệ phái khất sĩ
B́nh Thuận, trụ sở là Tịnh xá Ngọc Cát
trên động Làng Thiềng. Tại Núi Cú, trụ tŕ
Ḥa Thượng Thục Châu Vĩnh Thọ đúc ba tượng
Phật Di Đà cao 7m, Quan thế Âm cao 6m và Phật Thích
Ca nhập niết bàn dài 49m. Đây là tượng
Phật lớn nhất Việt Nam. Năm 1962 hoà
thượng Thích Hưng Từ lập chùa Linh Sơn
Tánh Linh.
Chùa Phật Học, B́nh Thuận Việt
Nam là một quốc gia Phật giáo với 90 % tín
đồ, nên nơi nào cũng đều có đ́nh
chùa thờ cúng Phật nhưng nổi tiếng
nhất vẫn là những ngôi cổ tự ở
miền Bắc, vốn là cái nôi văn hóa của dân
tộc Việt, đă có từ thời lập
quốc. +
CHIM GƠ MƠ – CÁ NGHE KINH: Hội
chùa Hương là một trong những lễ hội
quan trọng của Phật giáo đất Bắc v́
theo truyền thuyết, đây là chốn tu hành và
đắc đạo của Đức Phật Bà Quan Âm.
Chùa Hương cũng là một thắng cảnh
với sông suối núi đèo, nên đă thu hút
nhiều tao nhân mặc khách, lưu lại cho đời
nhiều thi phẩm giá trị của Chu Mạnh Trinh,
Tản Đà, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Phạm Hàm..
trong đó được ưa thích nhất, vẫn là
bài ‘Phong cảnh Hương Sơn‘
của Chu Mạnh Trinh: ‘Thỏ
thẻ rừng mai, chim cúng trái
Trẩy
hội chùa Hương Chim
gơ mơ, cá nghe kinh.. không phải là giai thoại nhà
Phật, mà là chuyện có thật ở đây. Chim
gơ mơ c̣n có tên Đạc Điểu, khi cụp cánh
lại, có h́nh dáng như ếch, da màu xanh, thường
bay vào tận các hang sâu ăn kiến và sâu bọ. Vào
những tháng đầu năm, chim
thường kêu những tiếng cốc, cốc,
cốc.. giống như tiếng gơ mơ tụng kinh. Đặc
biệt chim hay kêu từ giờ Dần trở đi,
tức là khoảng thời gian gần sáng. C̣n cá
nghe kinh, để chỉ loại cá chép , trên đầu
màu đỏ nên cũng được gọi là cá
Anh Vũ, có rất nhiều ở các suối quanh khu
vực Hương Sơn. Thường Phật tử
hay du khách văng cảnh chùa Hương, hay quăng
bỏng rang xuống nước cho cá nổi lên
mặt nước ăn, trong lúc khắp nơi vang
vang tiếng tụng kinh gơ mơ. +
CHÙA DIÊN HỰU NAY C̉N HAY MẤT ? Hà
Nội (Thăng Long), là kinh đô của nhiều
triều đại trong Việt sử, nên đă có
rất nhiều biểu tượng thân thương
trong tâm khảm mọi người . Đó là Hồ Gươm
với Tháp Bút, Cột Cờ Thủ Ngữ, gác Khuê Văn
soi ḿnh xuống giếng Thiên Quang trong Quốc Tử
Giám.. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Chùa
Một Cột, đă có trên ngàn tuổi. Chùa
c̣n có tên là Diên Hựu, theo các nhà biên khảo, th́
hiện nay đă trở nên xa lạ, qua những
chứng tích c̣n lại. Căn cứ vào những ghi
chép từ tài liệu cổ, cho biết ngôi chùa xưa,
được kiến trúc toàn thể rất hoàn
chỉnh, bằng sự kết hợp giữa thiên nhiên
và tôn giáo, xứng đáng là danh lam thắng cảnh
bậc nhất tại Thăng Long Thành, vào đời
Nhà Lư. Do tính chất đặc thù trên, nên tự ngàn
xưa, Chùa Một Cột không những đă khắc
sâu trong tâm khảm của người Hà Nội, mà c̣n
là niềm tự hào chung của nền văn hóa VN.
chùa
Diên Hựu (chùa Một Cột) Tương
truyền Lư Thái Tông (1028-1054) , một đêm nằm
mộng thấy ḿnh được Phật Bà Quan Âm,
từ trên ṭa sen bước xuống, cầm tay
dắt nhà vua cùng lên ngự trên ṭa sen. Tỉnh
mộng, nhà vua cho tuyển tất cả thợ
giỏi tại kinh đô Thăng Long lúc đó,
ứng theo điềm mộng, xây dựng một ngôi
chùa có h́nh dạng giống một đóa sen,
được đặt trên một cột đá
đứng giữa hồ Linh Chiểu trồng toàn
sen. Chùa
thờ Đức Phật Bà Quan Âm, một vị Bồ
Tát chuyên cứu nhân độ thế, rất phù
hợp với mục đích của triều đ́nh:
Cầu mong cho quốc thái dân an, nhà Lư đời
đời bền vững. Bởi vậy ngôi chùa
mới được đặt tên là Diên Hựu.
Lần đầu, chùa được dựng lên
cạnh Hồ Tây (Dâm Đàm, tên gọi thời Lư) , và
liên tục được tu bổ mở rộng. Năm
1101, vua Lư Nhân Tôn cho đúc một quả chuông ,
đồng thời với việc xây một giá, cao tám
trượng bằng đá cẩm thạch xanh, để
treo chuông, nhưng không dùng được v́ chuông quá
lớn. Năm
1102, vua lại cho xây thêm một hành lang bao quanh hồ
Linh Chiểu, đồng thời đào thêm Hồ
Khang Bích và bắt nhiều cầu, thông từ khu vườn
của chùa ra hai mặt hồ trên, làm cho diện tích
tăng thêm rất nhiều. Phía sân trước
của cầu dẫn vào chánh điện, vua cho
dựng hai ngọn tháp lớn, với mái lợp
bằng loại ngói sứ trắng, từ xa nh́n
chẳng khác nào hai đoá hoa đại trắng, luôn
tỏa rực ánh sáng mặt trời. Đây
cũng là nơi mà hầu hết các vị vua nhà Lư,
sau buổi chầu thường ngự tại đây,
để có dịp tiếp xúc với thần dân. Đặc
biệt hằng năm, vào ngày Mùng tám tháng tư (Niên
lịch cổ chỉ ngày Đản sinh Phật Tổ),
âm lịch, Đại lễ Phật Đản được
tổ chức tại chùa Một Cột., do chính các
vị vua nhà Lư tới chùa để làm lễ
Tắm Phật. Trong dịp này, chẳng những các
vị tăng ni và dân chúng Thăng Long kéo về tham
dự, mà cả các trấn khác cũng lũ lượt
tới chùa để cúng Phật. Sau đó, nhà vua
đứng trên cao, tay cầm một lồng chim, rút
cửa phóng sinh. Dân chúng tham dự đại lễ,
ai nấy đều vổ tay reo ḥ hoan hô vang dậy và
cũng bắt chước vua, thả chim làm phước.
Tóm lại, Phật giáo VN, từ ngàn năm trước,
qua ngày hội thả chim tại chùa Một Cột,
suốt thời Lư, đă biểu lộ đức
hiếu sinh của dân tộc Việt, lưu truyền
cho con cháu tới ngày nay, vẫn không hề thay đổi. Ngày
nay ngôi chùa cổ xưa và danh tiềng nhất
của Phật giáo VN, chỉ c̣n là huyền thoại,
v́ đă bị thực dân Pháp lẫn cộng sản
Bắc Việt tàn phá thảm thê, lấn chiếm
đất đai, hủy diệt những công tŕnh
tạo dựng có từ ngàn năm trước, để
xây Dinh Toàn Quyền Đông Dương và Lăng Hồ
tại Ba Đ́nh. Điều này cho thấy VC không khác ǵ
bọn đầu sỏ Taliban, khi chiếm được
Afghanistan, năm 1998 đă ra lệnh tàn phá hủy
diệt tất cả những pho tượng Phật
bằng đá, nằm trong thung lủng Bamiyan. Từ
những trang Phật sử, ta thấy việc dời
đổi chùa đ́nh, là chuyện b́nh thường
trên đất Bắc thời trước, v́ mục
đích cũng chỉ muốn làm cho ngôi chùa thêm uy
nghi tráng lệ hơn. Đó là việc nhà Hậu Lê,
đă dời chùa Trấn Quốc, được nhà
Lư xây dựng tại Làng Yên Hoa, ngoài băi sông
Hồng, vào địa điểm ngày nay, v́ tránh
lụt lội. C̣n chùa Quan Thánh thời nhà Lư,
được dựng trong Hoàng Thành, tới nhà
Hậu Lê cũng được dời ra phía nam
Hồ Tây, v́ lư do mở rộng thành phố. Thời
VNCH, đồng bào miền Bắc di cư, đă mô
phỏng ngôi cổ tự danh tiếng nhất nước,
để dựng lên ngôi chùa Một Cột ở
miền Nam, qua danh xưng “Nam Thiên Nhất Trụ”
tại Thủ Đức, do kiến trúc sư Ngô Gia Đức
thiết kế. Chùa hiện là một trong những ngôi
Phật tự nổi tiếng nhất trong nước,
thu hút rất nhiều Phật tử du khách mọi nơi,
tới văng cảnh chùa hay cúng Phật, nhất là vào
những ngày Tết Nguyên Đán hay Lễ Vía . +
ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ MIỀN BẮC: Cách
Hà Nội 100 cây số về hướng đông
bắc, hơn 700 năm trước, vua Trần Nhân Tôn
cũng là Thiền sư Điếu Ngự Giác Ḥang, sau
khi rời ngôi vua nhà Trần, đă tới núi Yên
Tử tu tŕ và sáng lập THIỀN PHÁI TRÚC LÂM: Trung tâm
của Phật Giáo VN. Cũng
từ đó cho tới nay, mặc cho bao đời
biển dâu trầm thống, rừng núi Yên Tử và
những ngôi cổ tự, vẫn im ĺm ẩn hiện
trong mây khói với các huyền thoại và di tích
của Thiền Tông VN. Theo truyền thuyết, mỗi
khi nghe tiếng chuông từ chùa Đồng trên đỉnh
cao nhất của Yên Tử (1.100m), ngân nga vang
vọng, th́ tất cả các loài chim Nhạn, chim
Hạc, đều rời tổ ấm nơi vách núi,
bay bổng lên không trung che kín trời, sau đó tan
biến trong cảnh núi rừng tĩnh lặng. Tên
núi Yên Tử phát xuất bởi sự tích của
một Thiền sư tên Yên Kỳ Sinh, thuộc ḍng
Thiền của Lục Tổ Huệ Năng, ngay đầu
Tây lịch, từ bên Tàu tới đây tu hành và
đắc đạo hóa Phật, biến thành đá
nên được gọi là Yên Tử. Ngoài ra, từ
Dốc Đỏ dưới chân núi, nh́n lên đỉnh
thấy h́nh dáng núi không khác ǵ một con voi đang
phủ phục, nên c̣n có tên là Tựợng Sơn.
Rặng núi này muôn đời như bức b́nh phong,
ngăn luồn gió Nam Nồm từ Đông Hải
thổi vào núi, làm cho hơi gió đọng lại
biến thành mây trắng lửng lơ trên đỉnh
núi quanh năm, nên Yên Tử c̣n được
gọi là Phù vân sơn hay núi Bạch Vân. Sau
nhiều thế kỷ Phật giáo du nhập và
truyền bá vào VN, môn phái của Thiền Sư Yên
Kỳ Sinh cũng có rất nhiều đệ tử,
rất được trọng vọng thời nhà
Trần. Một trong những cao tăng trên, là
Quốc Sư Phù Vân, cũng chính là sư phụ
của vua Trần Nhân Tông. Ngài là chiếc cầu
nổi, dẫn dắt nhà vua, rời bỏ vinh hoa phú
quư nơi cung vàng điện ngọc, để lên
chốn rừng núi Yên Tử muôn trùng, tu tŕ và sáng
lập Trúc Lâm Thiền Phái, chủ trương đạo
đời hợp nhất, có ảnh hưởng
rất lớn tại VN.
Do
đó, hệ thống chùa chiền am thất tại Yên
Tử, đều được khởi công xây
cất từ khi vua Trần Nhân Tông tới đây tu
tŕ. Về
sau lại được trùng tu nhiều lần. mà
quan trọng nhất vào thời Vĩnh Thịnh
(1345-1358) và Vĩnh Khánh (1729-1732). Tuy nhiên những chùa
miếu c̣n lại tới nay trên Yên Tử , đều
được xây dựng vào thời Nhà Nguyễn,
dựa vào dấu ấn kiến trúc và điêu
khắc từ các thời Trần-Hậu Lê. Ngoài
những kiến trúc xây dựng, vua Nhân Tông c̣n cho
trồng nhiều cây Tùng , vừa lấy bóng mát
dọc theo những con đường nối liền
hệ thống chùa am từ chân lên đỉnh núi.
Rễ Tùng c̣n được xử dụng như
những bậc thang, giúp khách hành hương lên núi,
khỏi bị rơi xuống vực thẳm. Có ba
loại Tùng được trồng ở đây là
Thủy Tùng (gỗ màu trắng), Thanh Tùng (gỗ màu
xanh) nhưng qúy nhất vẫn là Xích Tùng (Gỗ
đỏ) . Bởi vậy đường lên Yên
Tử xưa nay, vẫn được gọi là Đường
Tùng với sự hiện hữu của 274 cây c̣n xanh
tốt, dù tuổi thọ của chúng đă 700 năm.
Hệ
thống chùa am ở Yên Tử, đều tập trung
ờ sườn núi phía nam, mà ngôi chùa đầu tiên
là Đền Tŕnh, coi như là cửa ngơ lên núi, c̣n Chùa
Đồng là đỉnh cao nhất, từ đó có
thể nh́n thấy Bạch Đằng Giang, biển Đông
và biên giới Hoa Việt.. Chùa Đồng nguyên thủy
được các vua Nhà Trần xây dựng toàn
bằng đồng, được coi như một
biểu tượng của sự đồng nhất,
giữa đạo-đời, con người và vũ
trụ. Nhưng rồi chiến tranh triền miền,
kéo dài từ thời này sang đời khác, nên
chẳng những ngôi chùa nguyên thủy bằng đồng,
mà cả chùa xây dựng sau này bằng đá và xi măng,
cũng bị tàn phá, dột nát hư hại. Năm
1993, một ngôi chùa Đồng mới đă được
xây cất theo h́nh chữ Đinh với h́nh dáng một
Bông Hoa Sen nở . Trong chùa, có tượng Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, ngự trên ṭa sen. Bên dưới
là ba pho tượng của Tam Tổ Trúc Lâm: Trần
Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, cùng ngự trên
đài sen. Phía trước có bốn chuông đồng,
một quả lớn và ba quả nhỏ, lúc nào cũng
như ngân nga trong cơn gió thoảng, lẫn trong mùi
thơm ngát của hương khói và trăm hoa chen
nở .
chùa
Đồng Yên Tử Hiện
c̣n các chùa Vân Tiêu, Bảo Xái, Thanh Long, An Tự, Hoa Yên,
Giải Oan, Cầm Thục.. cùng với nhiều di
vật đặc sắc đầy huyền thoại.
Theo các nhà biên khảo xưa nay, th́ nét đẹp
tuyẽt mỹ của Yên Tử, chẳng những là
chùa, am, tùng bách mà c̣n bao gồm cả khu rừng trúc
xanh ngắt, những cụm hoa Trà My, Dành Dành có màu
trắng muốt, đứng chen lẫn khoe sắc hương
với từng khu vườn Cúc, Vạn Thọ màu vàng,
mái chùa đỏ ối.. thấp thoáng ẩn hiện
như sương khói muôn trùng. Hoa
Yên là ngôi chùa lớn và đẹp nhất ở Yên
Tử, nên c̣n được gọi là chùa Cả, chùa
Chính hay chùa Yên Tử, nằm trên cao độ 800m, trên
một dải đất h́nh đài sen, bao quanh sườn
núi, từ chính điện có thể nh́n ra Suối
Giải Oan ở phía dưới, là lượt
chảy giữa rừng núi xanh ngắt, đâu có khác
nào một giải lụa trắng mềm mại. Quanh
chùa có năm cây đại cổ thụ to lớn hơn
700 tuổi. Bên trong có nhiều tượng Phật toàn
bằng đồng nhưng bề thế nguy nga
nhất vẫn là tượng vua Trần Nhân Tông ,
đặt tại Bái đường. Phía dưới
chùa là Kim Tháp, chốn an nghĩ ngàn đời
của các vị Thiền Tăng Tam Tổ và 97 Tháp khác
vây quanh Tháp Tổ, phụng thờ các vị Sư
đă tu hành tại Yên Tử.
chùa Hoa Yên Ngày
nay đường lên rừng núi cheo leo Yên Tử,
phần nào được rút ngắn và bớt nguy
hiểm, nhờ một hệ thống Cáp treo, đă
được thiết kế từ mặt đất
lên tới chùa Hoa Yên. Nhờ vậy khách hành hương
như có cái cảm giác đang bồng bềnh trong sương
khói, trong lúc có thể thưởng thức được
trọn vẹn bức tranh thủy mạc trọn
vẹn của non nước VN, từ rừng núi
Quảng Ninh, biển đảo Hạ Long, khiến cho
ai nấy ḷng trần biến mất theo luồng gió mát
lạnh của vũ trụ miên man. +
HỆ THỐNG CHÙA PHẬT TRÊN NÚI BÀ ĐEN: Theo
các tài liệu c̣n lưu trữ, th́ hệ thống chùa
miếu trên núi Bà Đen (Tây Ninh) , được h́nh
thành đầu tiên, qua tín ngưỡng dân gian.
Giống như những di dân đầu tiên từ
Thuận Quảng vào khẩn hoang lập nghiệp
ở Thuận Trấn, sống bằng nghề
biển, nên đă tin thờ Nam Hải Đại Tướng
Quân(Cá Ông), để cầu xin gia hộ che chở,
trong lúc hành nghề đạm bạc trên sông
biến sóng gió . Tại Tây Ninh cũng vậy,
những người tiều phu, khai rẩy, phá
rừng, cũng cảm thấy ḿnh thật bé nhỏ,
trước thiên nhiên hùng vĩ và chúa sơn lâm, nên
trong vô thức, đă bộc phát những nguyện
cầu tới các đấng thần linh và theo
thời gian trở thành một tín ngưỡng,
được mọi người đồng t́nh
chấp nhận và tồn tại tới ngày nay.
chùa
Bà Đen Khởi
đầu vào thế kỷ XVII sau TL, người
Việt đă bắt đầu tới Lục Chân
Lạp (Nam Phần) để lập nghiệp và
đă dựng trên núi, một ngôi chùa lá không tên,
để làm nơi gởi gấm kư thác về thành
tâm cầu nguyện các đấng thần linh hộ
tŕ giúp đỡ. Năm
1745, có Thiền sư Thiệt Diệu (Liễu Quán),
thuộc đời thứ 35 của Thiền Phái
Tế Thượng Chánh Tông, nhân đi ngang núi Bà Đen,
rung động trước sự tĩnh lặng và
phong cảnh hữu t́nh trong vùng, nên Ngài đă
quyết định ở lại tu tŕ. Cũng từ
đó, chấm dứt thời kỳ tín ngưỡng
dân gian tự phát và một hệ thống chùa
Phật được xây dựng tại đây. Trải
qua 252 năm thành lập, từ Tổ sư thứ 1
của Thiền Phái Tế Thượng, tới nay
đă truyền được 11 đời. (35-46) ,
nối tiếp nhau khai hóa hành đạo tại núi Điện
Bà (Tây Ninh). Năm
1857 , Tỳ Kheo Thanh Thọ (Phước Chi ), xây
dựng Đại Hùng Bửu Điện và Giảng
đường. Năm 1864, Thiền sư Huệ
Mạnh, khai mở Linh Sơn Long Châu tự (Chùa
Hang), cách chùa cũ chừng 300m. Năm 1871, xây
dựng chùa Phước Lâm, trên bờ con sông
nhỏ, chảy ngang Ấp Vĩnh Xuân (Chợ Tây
Ninh), được xem như tiền trạm của
thiện nam tín nử, trên đường lên núi hành
hương cúng Phật, nhất là ngày vía Bà mùng năm
tháng năm hay Tết Nguyên Đán. Từ
1880-1910, Thiền sư Chơn Thoại (Trừng Tùng),
xây thêm chùa Trung, tức Linh Sơn Phước Trung,
để cho khách leo núi có chổ nghỉ ngơi.
Từ năm 1910 về sau, núi Bà Đen rộng mở,
thu hút khách thập phương tới cúng Phật
đông đảo. Đây cũng thời gian Ḥa Thượng
Tâm Ḥa, kiến tạo và mở rộng chùa
Trung.Từ 1920-1924, toàn thể khu vực quanh chùa
được mở rộng, qua hệ thống 21 tu
viện chùa am lớn nhỏ . Đồng thời một
con đường, dài 1300m, rộng 6m, cũng
được hoàn thành, từ chân núi lên chùa,
tới nay tất cả vẫn c̣n lưu dấu. Năm
1945 , quân Nhật chiếm núi Bà Đen, thiêu hủy toàn
bộ hệ thống tu viện trên núi. Ngày 2-11-1945
thực dân Pháp thay thế quân Nhật chiếm đóng,
ngoài việc đốt phá chùa chiền, c̣n bắt
giết sát hại nhiều tăng ni. Năm
1954 chia hai đất nước và Tây Ninh thuộc
lănh thổ VNCH, nên Ḥa Thượng Thích Giác Điền,
trở lại núi, tái tạo lại hệ thống chùa
Phật năm xưa, thêm to lớn và đẹp đẽ.
Nhưng Cọng sản Hà Nội lại phát động
cuộc xâm lăng Miền Nam qua cái gọi là MTGPMN công
khai lộ diện từ tháng 12/1960. Tây
Ninh v́ gần biên giới Kampuchia, nên được
Bắc Việt, chọn đặt căn cứ
của Trung ương Cục Miền Nam., gọi
tắt là cục R, cách tỉnh lỵ 64 km. Từ
năm 1960-1975, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, các
tăng ni trên núi Bà Đen, phải theo Ḥa thượng
Thích Huệ Phương về tu tại chùa Phước
Lâm trong thị xă. Trên chùa chỉ c̣n hai Ni cô Thích
Nữ Diệu Châu và Diệu Nghĩa ở lại lo
nhang khói. Núi Bà Đen vắng ngắt mọi người. Sau
năm 1975, đất nước ngưng tiếng súng,
cũng nhờ VC không c̣n phá hoại và trên hết là
tiền vàng cúng dường của Việt kiều muôn
phương, tuôn về giúp xây dựng lại chùa
Phật trên núi Bà Đen, hiện do Ni sư Thích Nữ
Diệu Nghĩa làm Viện chủ. Từ 1992-1997, trùng
tu lại các ngôi chùa Linh Sơn Long Châu tự (Chùa
Hang), Linh Sơn Phuớc Trung tự (Chùa Trung) và
nhiều chùa Phật khác trên núi. Điện Bà lại
mở rộng như từ 300 năm trứơc
với khách thập phương lên núi cúng Phật như
không bao giờ dứt. Tết
vừa qua, trong lúc cả nhân loại kể cả người
Việt tị nạn VC trên mọi nẻo đường
viễn xứ đều rộn rịp hoan hỉ
đón mùng, th́ ngay trên quê hương VN, giặc
vẫn không ngừng đàn áp tôn giáo, quyết tâm
bắt ép cả nước, phải tùng phục cái
gọi là Phật giáo nhà nước, đem tượng
Hồ Chí Minh, ngồi ngang với Đức Phật
Tổ và chư vị Bồ Tát. Bởi vậy cho nên
Uỷ Ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF), đă
yêu cầu bộ ngoại giao Hoa Kỳ phải
đưa VC vào danh sách 10 nước, bị LHQ đánh
giá là gây tổn hại cho tôn giáo, mà Hà Nội lúc nào
cũng to miệng nói rằng ở VN hiện nay
rất có tự do tôn giáo. Như
nhận xét của sử gia Hoàng Xuân Hăn ‘Đời
Lư là đời thuần từ nhất trong lịch
sử nước ta, đó chính là nhờ ảnh hưởng
của Phật giáo’. VN
từ 1975 đến nay, qua chủ thuyết độc
tài của Mác-Lê-Mao-Hồ, đă làm cho xă hội và
con người VN biến đổi, đánh mất
tất cả những cao quư của Dân tộc
Việt có tự ngàn xưa, đưa đến
hậu quả biến thành nô lệ của Tàu, v́ không
c̣n chỗ dựa của tâm linh và lư tưởng ái
quốc. Nhưng linh hồn đất Việt vẩn
c̣n đó, nhất là Phật giáo VN, suốt bao
thế kỷ , luôn đồng hành chia sẻ nỗi
bất hạnh với đất nước, luôn
đặt sự tồn vong của đạo với
sự tồn vong của dân tộc Việt. Bởi
vậy: “Dân
tộc ta không thể nào thua chủ thuyết Cộng
Sản Viết
từ Xóm Cồn Hạ Uy |