VĂN MINH THẾ GIỚI Chương IV |
IV/1.- KHÁI
NIỆM VỀ VĂN MINH THẾ GIỚI Văn
minh là kết quả của văn hóa, văn hóa là
gốc của con người. Do đó, nói về văn
minh tức là bàn về người. Bàn về người
phải xét đến gốc ngọn của người.
Vậy xin mời quư độc giả cùng chúng tôi lược
qua một vài suy nghĩ của loài người trên
thế giới khi họ nói về con người. Từ
các nhà hiền triết Ấn Độ thời
cổ khi soạn kinh Upanishad đến các thần
học gia Thiên chúa giáo hoặc giới nghiên cứu
thuật luyện đan… đă nêu lên một số
biểu tượng về con người khá giống
nhau về sự tương ứng giữa con người
và vũ trụ. Họ đồng thuận với nhau
rằng sự vận động của con người
có tác động tích cực lên các nguyên lư chi
phối vạn vật trong thiên nhiên, nói chung là vũ
trụ. Họ
cho rằng: xương bởi đá, bộ phận tiêu
hóa bởi đất, máu và sự tuần hoàn
bởi nước, phổi và hơi thở từ không
khí, đầu và hệ thần kinh từ lửa. Con
người tiếp xúc với vũ trụ qua ba
cấp độ: mặt đất với đôi chân,
không khí với nửa thân trên, trời với cái
đầu. Người tham dự vào ba giới: khoáng
vật, thực vật và động vật; bằng
trí tuệ, bằng tinh thần và bằng thần linh.
Cứ như thế, con người có vô tận
những thế kết hợp. Tuy nhiên, đôi khi không
tránh khỏi những kết hợp mang tính huyền
hoặc hơn là biểu tượng của giới bùa
ngải, bói toán hoặc phong thủy… Đó
là vài nét thực cô đọng chúng tôi xin tạm
diễn đạt dựa vào sách vở đă
được một số hiền triết Đông,
Tây định nghĩa vào khoảng giữa thiên niên
kỷ thứ II sau Công nguyên (Roberto Fludd Utriusque Cosmi
Historia, Oppenheim, 1619) Chúng
ta thử về gần hơn với giải thích
của một trí thức Việt Nam ngày nay: ông Lê Văn
Đức trong Việt Nam Tự Điển gồm 2
cuốn lớn, tổng cộng hơn 3000 trang, đă
định nghĩa về người như sau: “Loài
động vật hai chân, ḿnh đứng thẳng,
biết nói để tỏ ư muốn, dùng hai tay để
làm mọi việc cần ích cho đời sống và
tinh khôn hơn mọi loài khác trên trái đất”. Theo
ông Nguyễn Văn Đức, con người chỉ
mới tinh khôn hơn loài vật theo kiểu con
ngựa tinh khôn hơn con ḅ, con chó tinh khôn hơn con
ngựa, con người tinh khôn hơn con chó! Cách
đây 2500 năm, ông Aristote c̣n nói được
một câu văn minh hơn câu của ông Đức
nhiều! Ông ấy nói: “Người là sinh vật
biết suy lư” Có
điều, tại sao cả hai ông Đức và ông
Aristote đều quên rằng ngoài cái tinh khôn, ngoài cái
suy lư ra, con người c̣n có Lương tri, Tâm Linh,
Tiềm thức cộng với Đạo đức,
Luân lư và nhất là một lư tưởng cao đẹp
để làm cho đời người đáng
sống hơn! Chân thiện mỹ hơn? Từ
cổ chí kim, từ Đông qua Tây, thiên hạ bàn
về Người kể có hàng vạn cuốn sách.
Chúng tôi xin tóm lược vài nét chính để quư
độc giả có khái niệm trước khi đi
vào chủ đề. Lịch
sử văn hóa Tây phương cho thấy quan
niệm về vũ trụ và con người thay đổi
từng giai đoạn. Khởi đầu, từ
rất lâu đời, là tin tưởng tuyệt đối
vào thần minh và cho rằng, con người là nô
lệ của thần minh: Quan
niệm duy thiên = duy thần Kế
đó, cách đây khoảng 2.500 năm, bắt đầu
có những ư kiến chối bỏ thần minh và
đề cao nhân bản, đặt con người
nằm trong sự vận hành của vũ trụ: Quan
niệm duy địa = duy lư Tuy
nhiên, quan niệm duy địa chỉ mới khởi
xướng đă bị dập tắt suốt
một thời gian dài gần 2300 năm mới
được hậu thế phục hoạt trở
lại. Triết
gia Kim Định bàn về vấn đề này như
sau: “…Cho nên thần thoại là một tấm gương
phản chiếu khá trung thực tư tưởng
của loài người khi chưa bị ngoại
cảnh chi phối của mỗi nền văn hóa nguyên
thủy. Nó chính là nhân sinh quan và vũ trụ quan
của mỗi dân tộc”. Căn
bản của nền văn minh thế giới ngày nay
xuất phát từ một số các nước sau
đây: nước Ai Cập cổ đại, Mésopotamie,
(vùng đất nằm giữa hai hai con sông Tigris và
Euphrate c̣n gọi là Lưỡng Hà địa),
Babilon, Hy Lạp, Do Thái, Ấn Độ và Đông Á
(gồm các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật
Bản, Triều Tiên…). Vậy trong phần mở
đầu, xin mời quư độc giả điểm
qua một số thần thoại đặc trưng. (Chúng
tôi cố gắng tóm lược thật rơ ràng,
ngắn gọn hi vọng không làm rối trí và gây
sự nhàm chán trước một số độc
giả ít quan tâm về vấn đề này) IV/2 .- VĂN MINH
MIỀN MÉSOPOTAMIE VÀ THẦN THOẠI BABYLON IV/2A
.- Mésopotamie Vùng
đất Mésopotamie rất ph́ nhiêu, nằm giữa
hai con sông nổi danh Tigris và Euphrate chảy song song
từ bắc tây-bắc xuống nam đông-nam và
đổ ra vịnh Persian (vịnh Ba Tư). Thời thượng
cổ người ta gọi vùng đất này là
địa đàng. Khu đông-nam gọi là Chaldée, khu
tây-bắc gọi là Assyrie. Vùng này là chỗ gặp
nhau của nhiều con đường giao thông đông,
tây, nam, bắc nên nhiều dân tộc tranh nhau
chiếm đoạt và nó trở thành nơi thị
tứ văn minh khá rực rở thời cổ đại. Khoảng
2500 tr.CN, dân tộc Sémite cường thịnh lên
ở miền Chaldée, họ lập đô tại
Babylon. Luật Babylon xử rất nghiêm với quư
tộc nhưng lại thường khoan dung cho giới
b́nh dân và nô lệ. Khoảng
1000 năm sau, dân Assyrie diệt Chaldée, dày xéo Ai
Cập rồi định đô ở Ninive. Họ
đă có chiến xa bọc đồng, đặt
trạm thông tin cho nhau… Chẳng
bao lâu sau đó họ lại bị người Babylon
dưới sự lănh đạo của vua Nabuchodonosor
nổi lên tàn phá thành Ninive lạp lại đế
quốc Babylon. Nhưng rồi Babylon lại bị vua
Cyrus nước Ba Tư tàn phá… Hai xă hội Chaldée và
Assyrie tuy cường thịnh không lâu dài nhưng
họ rất văn minh và có nhiều đóng góp cho
nhân loại. Luật
miền Mésopotamie khắc trên đá, xă hội có ba
giai cấp: quư tộc, b́nh dân và nô lệ. Phụ
nữ b́nh đẳng với nam giới và được
tham gia công việc xă hội… Lâu đài, thành quách xây
bằng gạch, cửa bằng đồng. Babylon có vườn
treo, cung điện cực kỳ rực rỡ…
Họ khá giỏi về khoa thiên văn. Thư
viện có nhiều sách văn học, triết
học, lịch sử, khoa học. Tuy nhiên, chữ
viết của họ rất khó học và nhiều
bất tiện nên không phổ cập trong dân chúng… IV/2B
.- Thần thoại Babylon: Khi
đó chưa có trời cũng chưa có đất nên
gọi là Thái hoang (Tiamat). Thần Apsu pha nước vào
Thái hoang Tiamat để sinh ra các thần tử, tôn,
cháu, chắt… Dần dần các vật lớn lên và
thành h́nh vũ trụ. Đột nhiên Thái hoang Tiamat
giết hết các thần khác để độc
chiếm vũ trụ. Nhưng Thái hoang vốn vô
trật tự nên không cai trị được,
khiến vũ trụ đảo lộn. Bấy
giờ có thần Marduk thổi một luồng gió
cực mạnh làm băo rồi dùng vũ khí đẩy
cơn băo vào miệng Thái hoang đang há ra chực
nuốt Marduk. Bụng Thái hoang Tiamat phồng lên, Marduk
liền đâm một nhát dao vào bụng, Thái hoang
nổ tan tành. Marduk xẻo Tiamat làm hai mảnh, một
miếng treo lên làm trời, một miếng trải ra
làm đất. Kế
đó Marduk lấy đất sét nhào với huyết
của ḿnh mà tạo ra loài người với
mục đích để phục vụ các thần. Lúc
đó con người dốt nát như thú vật.
Một thời gian sau có thần người cá
dạy cho nghệ thuật, khoa học, xây thành,
luật lệ… và cũng v́ đó mà loài người
phạm tội với các thần khiến các thần
tức giận làm lụt hồng thủy để tiêu
diệt nhân loại. Có
một thần tên là Ea thương loài người
muốn duy tŕ loài người bèn giúp một ḍng
tộc đạo đức là gia đ́nh ông bà
Sahamashnapisthim. Thần dạy cho ông này đóng một
tàu lớn. Khi hồng thủy dâng lên giết hết
nhân loại th́ ông Sahamashnapisthim đem cả gia đ́nh
lên tàu. Nhờ vậy gia đ́nh ông khỏi chết và
trở thành thủy tổ của nhân loại. Sau
đại hồng thủy, các thần tưởng
rằng loài người đă hoàn toàn bị hủy
diệt nên hối hận và căi nhau v́ từ nay không
c̣n người phục vụ họ nữa. Khi
nước hồng thủy rút th́ tàu của gia đ́nh
ông Sahamashnapisthim mắc cạn trên đỉnh núi
Nisir. Ông liền thả một con chim câu đi dọ
thám t́nh h́nh. Khi biết nước đă rút, ông
liền đem gia đ́nh ra khỏi tàu và dâng lễ
vật tạ ơn lên các thần. Các thần vô cùng
kinh ngạc thấy loài người vẫn c̣n
sống sót. Họ sung sướng nhận lễ
vật của ông Sahamashnapisthim với ḷng biết
ơn và xúm xít bu lại quanh của lễ đông như
đàn ruồi. Từ
thần thoại Babilon cũng gọi là văn minh Mésopotamie,
chúng ta thấy con người vẫn do thần linh
(Marduk) sinh ra để phục vụ họ và hầu
hết các thần này đều là ác thần, vô
đạo. Những
xă hội theo truyền thống thần minh này có
những lễ, tục lệ cực kỳ dă man : –
Dân Mo-ap giết con trưởng nam để tế
thần khi sắp ra trận. Sau khi thắng trận
họ lại giết hàng ngàn kẻ địch để
cảm tạ thần. –
Dân Assyrie săn bắt các dân tộc khác hoặc
kẻ địch để tế thần Ashur
(thần mặt trời). –
Dân Phénicien và dân Carthage mỗi năm thiêu sống hàng
trăm trẻ em để tế thần Moloch. –
Người Trung Hoa thời quân chủ cũng có
tục lệ giết người để tế
cờ trước khi ra trận hoặc trả thù cho
cha mẹ bằng cách giết kẻ địch và moi
tim* trước bàn thờ. *
Tục moi tim kẻ địch để trả thù
cho cha mẹ vẫn được tả trong các
tiểu thuyết dă sử và kiếm hiệp Trung Hoa.
Người Việt cũng bị ảnh hưởng,
tuy nhiên thường chỉ tế cờ bằng trâu,
ḅ trước khi tham chiến mà thôi. Thảng
hoặc lắm mới có chuyện giết người
trước bàn thờ tổ tiên như vua Gia Long
đă giết các con của vua Quang Trung trước Thái
Miếu, đào mả vua Quang Trung, cắt đầu
để vào buồng xí c̣n xác th́ giả nhỏ,
trộn với thuốc súng bắn ra Biển Đông
sau khi diệt được Nhà Tây Sơn. Chế
độ cai trị và luật pháp của triều
Thanh đă ảnh hưởng rất nặng lên
triều Nguyễn. IV/3 .- AI CẬP
CỔ ĐẠI Khởi
đầu họ sống từng tiểu bang có
dạng như tự trị, đại đa số
tập trung vào hạ nguồn sông Nil. Vùng này gần
biển, khí hậu mát mẻ, đất đai ph́ nhiêu.
Đời sống dân chúng thoải mái. Cho
đến cách đây 5000 năm (chú ư: thời gian
này ở Đông Á, Hiên Viên lănh đạo các
Hậu du mục Hoa tộc xâm lăng đất đai
người Miêu) vua Ménès dùng sức mạnh
quân sự thống nhất các tiểu bang và lập nước
Ai Cập. Xă hội Ai Cập thịnh lên, chia thành
nhiều cấp: quí tộc, giáo sĩ, công thương
và nông dân. Giới nông dân bị đối xữ
khắc nghiệt nhất, hầu như họ phải
gánh vác tất cả mọi công việc của đất
nước: đi lính, làm phu, xây dựng lâu đài,
thành quách, đền thờ, Kim tự tháp, phục
dịch giai cấp quư tộc và giáo sĩ… Họ
thờ nhiều thần, tin linh hồn bất diệt
nên có tục ướp xác khi chôn cất hoặc xây
Kim tự tháp. Đủ loại thần: thần
thiện, thần ác, thần mặt trời, thần
mặt trăng, thần ḅ, thần cá sấu… hai vi
thần lớn nhất là thần sông Nil và thần
Mặt Trời. Vua cũng là thần và được
tôn thờ ngang hàng với thần sông Nil. Họ
biết dùng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy
tinh, dệt vải rất mịn và đào kinh
đưa nước vào ruộng. Kiến trúc, toán
học (kư hiệu Pi:3.141605), làm lịch (365 ngày), tính
giờ và chữ viết. Chữ viết, chữ
số và toán học… của họ đă giúp
rất nhiều cho sự tiến bộ của nhân
loại ngày nay. V́
thờ quá nhiều thần linh và thường xuyên
bị áp bức, đày đọa liên tục của
giới vua chúa, quư tộc, tăng sĩ… nên đại
đa số nông dân nghèo đói, yếu đuối
khiến dân tộc Ai Cập nói chung có tinh thần
yếu hèn, chấp nhận thiệt tḥi, dễ bị
khuất phục. Do vậy Ai Cập thường xuyên
bị nạn ngoại xâm tàn phá, đô hộ… đến
độ về sau họ trở thành nhu nhược,
quên đi gần hết văn hóa cha ông. Họ không
đọc được chữ viết, không
biết đến lịch sử, thơ văn, toán
học… đă được tổ tiên họ ghi chép
trong các đền thờ, hầm mộ, cung điện
và những Kim tự tháp! Vào
thế kỷ 18, người Âu châu t́m được
cách đọc chữ Ai Cập mà học được
toán h́nh học và đại số học, lịch
sử, văn chương, khoa học thiên văn…
trong các Kim tự tháp, phần mộ, đền đài
Ai Cập cổ đại… Có thể nói rằng,
thế giới Tây phương văn minh lên mau chóng
một phần nhờ sự phát hiện và tiếp
thu kịp thời nền văn minh Ai Cập cổ
đại cũng không phải là không đúng. Người
Ai Cập mưu cầu hạnh phúc bằng cách
tựa hẳn vào thần linh là tự đặt ḿnh
vào vị thế vong thân vậy. IV/4 .- HI LẠP
CỔ Cách
đây khoảng 4000 năm, giống Hélène (Hi-Lạp)
du mục, rất dă man, dơ dáy, tàn bạo… rời
châu thổ sông Danuble (Đông Âu) di dân về phía Nam
t́m đất sống. Họ chiếm bán đảo
Grèce (xin đừng lộn với đảo Crète) và
học được văn minh Grèce và Phénie mà
trở nên văn minh, hùng cường hơn hẳn
cha ông họ thủa trước. Tuy nhiên từ
nhiều lư do, dân Hi Lạp cổ không thống
nhất được mà lập ra nhiều thành
phố tự quản và thường chống phá nhau. Họ
thờ rất nhiều thần : thần mưa,
thần gió, thần núi, thần biển, thần tài,
thần thể thao, thần văn chương,
thần khoa học… cao nhất là thần Zéus (thượng
đế) nắm quyền lănh đạo các thần
khác. Những vị thần Hi Lạp có nhiều đức,
nhiều tật xấu y như loài người.
Thần Zeus, cũng được gọi là thượng
đế nhưng tính t́nh cũng đầy tham sân si
y hệt con người. Hầu
như tất cả mọi người, khi có vấn
đề đều tới các đền thờ,
điển h́nh là đền Delphes, để xin ư
kiến của thần linh như người Việt
đến chùa, miểu xin xăm… Giai cấp quí
tộc, tư tế, chiến sĩ, thương
nghiệp… dành hết mọi quyền lợi và
được nhiều ưu đăi trên giới b́nh
dân và nô lệ. Tuy nhiên so với các dân tộc khác,
đời sống dân Hi Lạp được coi là
thoải mái. Bởi v́ mọi việc gian khổ
họ đều giao cho nô lệ quán xuyến cho đến
cả những việc quan trọng như quản gia,
chăm sóc đồng ruộng, dạy học, buôn bán,
thư kư các văn pḥng… Thần
thoại Hi-Lạp cho đến ngày nay vẫn c̣n
ảnh hưởng rất mạnh trên thế
giới, nhất là Âu châu và Mỹ châu. Câu chuyện
như sau: Thượng
đế Uranos lấy Ga-Ea (thần đất) sinh ra các
thần gọi là Titans. Các Titans tranh quyền cai
trị với cha là thượng đế Uranos, nên
Uranos tức giận giam các Titans vào Tartare (âm phủ).
Mẹ Ga-Ea phản đối hành động tàn ác
của cha Uranos bèn âm mưu với các Titans t́m cách
giết cha. Một Titan tên là Kronos (thần Thời
Gian) đứng ra đảm nhiệm việc này.
Mẹ Ga-Ea liền trao cho Kronos một vũ khí có
dạng lưỡi răng cưa. Khi
thượng đế Uranos đến thăm Ga-Ea có
thần Trèbe hộ vệ, lúc hai thần đang âu
yếm nhau th́ thần Kronos xông đến đâm
chết cha và dùng vũ khí có lưỡi răng cưa
cắt thịt cha ra từng mảnh vất xuống
đại dương. Máu Uranos chảy ra khắp nơi
biến thành những thần Furies (thần Giận
dữ). Những miếng thịt nổi lềnh
bềnh trên đại dương bị sóng đánh
nổi bọt biến ra các nữ thần Vénus
(Aphrodite, thần Vệ nữ). Hạ
sát cha xong, thần Kronos cứu các Titans ra khỏi
Tartare và kéo nhau lên núi Olympe chiếm ngôi Uranos (núi
Olympe là ngọn núi cao nhất ở Hi-Lạp, kinh
đô của thượng đế Uranos). Các Titans bèn
tôn Kronos lên ngôi thượng đế. Kronos lấy
chị Rhe-Ea làm vợ. Theo lời nguyền của
Uranos trước khi chết, th́ Kronos sẽ bị
một trong các con chiếm mất ngôi, nên hễ nàng
Rhe-Ea sinh đứa nào th́ Kronos ăn thịt liền
đứa đó. Tuy nhiên mẹ Rhe-Ea cũng dấu
được một đứa tên là Zeus (Jupiter) trên
đảo Crète. Quả
nhiên, khi lớn lên, Zeus truất quyền cha Kronos và
bắt phải nhả các anh em ḿnh ra, đồng
thời Zeus đầy các Titans (chú, bác, cô, d́)
xuống đất. Nhờ vậy mà trái đất
bắt đầu có loài người. Từ
đó, thần Zeus làm chủ trời đất, đặt
bản doanh trên núi Olympe. Thượng đế Zeus
vốn hoang dâm, đêm nào cũng ṃ xuống vùng
bờ biển Địa Trung Hải (Méditerranien) t́m gái
trần gian. Cũng v́ vậy mà trần gian có
nhiều người có họ máu với thần minh,
nhất là… người Hi-Lạp quư tộc. Các
thần đều qui phục Zeus ngoại trừ bà
vợ Zeus là bà Junon th́ nhất định không
phục. Bà Junon vốn là một nữ thần
rất chua ngoa, đanh đá. Có lần Zeus giận
bắt bà treo lơ lửng giữa trời, hai chân
buộc hai núi đá cho nặng. Junon trả đũa
cũng dữ dội không kém. Bà bắt trói cổ
Zeus giam vào xó tối, may nhờ có thần Briarée lén vào
mở trói cứu thoát. Trong
số các Titans bị đày xuống trần gian làm
người, có người tên làTitan Japet sinh
được một con trai là Prométhée. Một hôm
thần Minerve xuống chơi trần gian th́ gặp chàng
Prométhée, thấy chàng thông minh, tuấn tú th́ đem ḷng
thương mến. Khi trở về, Minereve liền
đem chàng theo cho biết sự giàu sang của kinh
đô Thượng đế Zeus trên núi Olympe. Lợi
dụng cơ hội đó, Prométhée liền ăn
cắp lửa đem về giúp trần gian bớt tăm
tối. Chẳng may Thượng đế Zeus biết
được, bắt Prométhée treo lên núi Caucase cho
chim kên kên ăn gan. Sau 13 thế hệ, Prométhée
được thả ra nhưng Zeus lại đeo vào
tay chàng một chiếc ṿng có miếng đá núi
Caucase và gọi là ṿng định mệnh (có nghĩa
con người là nô lệ của thần minh và
phải chết). Theo bản viết của Dies th́
Prométhée có nghĩa là “tư tưởng nh́n xa” là
một vị thần có khuynh hướng nổi
loạn… Dân
Hi-Lạp mừng lễ Zeus rất long trọng, dâng
cho ông ngày thứ Năm (Jeudi) c̣n kính Junon vào tháng Sáu
(Juin). Thần Vệ nữ được kính vào
thứ sáu (Vendredi). Mars vốn là thần chiến tranh
được La-Mă chọn làm tháng Ba (Mars)… Ở
Academie th́ người ta thờ Prométhée và để
nhớ ơn chàng đă mang lửa về cho trần
gian nên đă có tục chạy đuốc từ núi
Olympe đến nơi thi đấu thể thao. Ngày
nay thế giới vẫn c̣n truyền tụng cảnh
rước đuốc và châm lửa trong các lễ
khai mạc Thế vận hội … Thần
minh Hi-Lạp đưa ra hai mẫu người mang hai
vị thế khác nhau trong xă hội: Khởi đầu
con người được sinh ra từ các Titans
bị đầy. Kế đến là một mẫu
người cao cấp hơn tức là dân tộc Hi
Lạp và sau này là dân La Mă, được sinh ra do thượng
đế Zeus và gái Địa Trung Hải. Hai dân
tộc Hi Lạp và La Mă cho rằng ḿnh có họ máu
với thần minh, tự nhận là người
tự do, có nhiều uy quyền trên các dân tộc khác
gọi là người nô lệ. Tuy nhiên, cả người
tự do lẫn nô lệ đều phải lệ
thuộc thần minh, phải tế lễ, phụng
sự thần minh. Con
người của văn hóa Hi Lạp và La Mă vong thân
từ khởi điểm của thần thoại này. IV/5.- THIÊN CHÚA YÉHOVA
VÀ DÂN TỘC ISRAEL Dân
Israel, Do Thái, có tên cổ là Hébreux và thiên chúa Israel có
tên là Yéhova cũng gọi là Yahvé. Yéhova có tự vô
cùng và tồn tại đến vô cùng, thông minh sáng
láng, biết trước mọi việc, quyết
định mọi sự trên trời dưới đất…
Jéhova sáng tạo và cai quản vũ trụ với
nhiều thiên thần hầu hạ. Thiên
thần tổng thủ lănh là Luciphe cấu kết
với một số thiên thần nổi lên làm
loạn, dành ngôi thiên chúa. Các thiên thần trung thành,
đứng đầu là Michael chống lại Luciphe,
tạo thành một cuộc đại chiến làm
chấn động các tầng trời. Cuối cùng nhóm
Luciphe thảm bại, bị loại ra khỏi thiên
đường. Tuy nhiên, chúng vốn là thiên thần
có nhiều quyền năng, sự hiểu biết và
có đời sống bất diệt nên Yéhova không
thể hủy diệt hay bỏ tù chúng được.
Từ đó chúng trở thành quỷ dữ luôn luôn t́m
cách chống đối thiên chúa Kế
đó, Yéhova dựng lên trời đất, tinh tú,
biển rộng, cây cối và muôn thú trong năm ngày.
Ngày thứ sáu ngài lấy đất sét nắn thành
h́nh tượng giống ḿnh rồi hà hơi vào,
tạo ra ông Adam, lại lấy xương sườn
Adam đắp đất tạo ra Eve, đó là hai
thủy tổ nhân loại. Thiên chúa Yéhova cho hai người
ở vườn Địa đàng (khoảng giữa
hai ḍng sông Euphrate và Tigris vùng đất này ngày nay
thuộc nước I-Raq). Đó là một khu vườn
tuyệt diệu đầy đủ cây trái và muôn
thú. Thiên chúa Yéhova cho hai ông bà xử dụng tất
cả nhưng lại cấm hai người không
được ăn trái của hai cây rất đặc
biệt ở giữa vườn, gọi là trái
cấm. Một cây có tên “Biết lành biết
dữ” có nghĩa là hiểu biết và thông
suốt mọi việc thiện ác. Một cây có tên “Sống
muôn đời” có nghĩa ăn trái cây ấy
sẽ sống măi, bất diệt (thiên chúa và các thiên
thần lẫn quỷ dữ đều đạt
được hai yếu tố: Biết lành biết
dữ và sống muôn đời cộng thêm bản năng
sẵn có) Một
hôm, Eve bị quỷ (thần Luciphe) lấy h́nh
một con rắn dụ dỗ ăn trái cấm cây
“biết lành biết dữ” sẽ thông minh, thông
suốt mọi vấn đề y như thiên chúa. Eve
nghe bùi tai, ăn và đưa cho Adam cùng ăn.
Liền khi đó, họ trở nên thông suốt
mọi vấn đề. Thiên chúa biết được,
giận dữ đuổi hai ông bà ra khỏi vườn
Địa đàng. Chẳng những thế, họ
bị phạt sẽ phải khổ sở để
kiếm sống và phải chết. Eve phải chịu
thêm nỗi đau đớn lúc sinh đẻ. H́nh
phạt này con cháu muôn đời phải gánh, gọi
là tội tổ tông. Thiên chúa lại đặt
một thiên thần tên là Chérubim cầm gươm
lửa canh giữ vườn địa đàng v́
sợ hai ông bà có thể trở lui ăn trái cây
sống muôn đời : “E chúng nó sẽ bằng
ta chăng”. Nhiều
ngàn năm sau, loài người sinh sôi đông đảo,
không c̣n nhớ tới Yéhova và gây nhiều điều
tội lỗi liền bị thiên chúa làm lụt
hồng thủy, hủy diệt toàn thể nhân
loại, chỉ chừa gia đ́nh ông Noe là được
cứu sống (chuyện ông Noe đóng tàu tị
nạn hồng thủy gần giống chuyện
Sahamashnapisthim đóng tàu của thần thoại
Babilon). Từ gia đ́nh ông Noe nhân loại lại
sinh sôi nẩy nở lan tràn khắp mặt đất. Nhiều
chục ngàn năm sau nữa (khoảng năm 1500 tr.
CN), thiên chúa Yéhova lập giao ước với
một người tên Abram ở Chaldé như sau: con cháu
Abram sẽ sinh đẻ đông đúc như sao trên
trời, như cát dưới biển; Abram và con cháu
đời đời được thiên chúa phù
trợ để trở nên giàu có, được
hứa ban cho toàn vùng đất Ả Rập từ sông
Euphrate đến biển Địa Trung Hải và
từ Biển Đỏ đến núi Liban. Đổi
lại, Abram và con cháu phải đời đời
phụng thờ Yéhova với những lề luật do
Jéhova ấn định, phải thi hành mọi ư
muốn của Yéhova qua các ngôn sứ c̣n gọi là tiên
tri và không được thờ bất cứ một
thần nào khác. Sau khi giao ước, thiên chúa Yéhova
liền đổi tên của Abram thành Abraham, có nghĩa
người đă giao ước. Dân
Do Thái là con ḍng vợ chính của Abraham nên được
tách riêng để thi hành giao ước. Một
số rất đông các dân tộc Ả Rập khác
cũng thuộc máu mủ của Abraham nhưng là ḍng
phụ nên không tính. Dân Do Thái vốn hiếu
chiến, ăn gian nói dối, xử sự cực
kỳ tàn độc nên bị chính các dân tộc bà
con của họ căm ghét, hận thù hầu như
muôn đời. Khi
dân Do Thái thịnh vượng th́ thường quên
giao ước, cưới vợ ngoại giáo và
thờ lạy các thần linh của các dân tộc lân
cận nên bị Yéhova hành phạt vô cùng nặng
nề. Khi họ khổ quá, cầu xin tha tội và làm
những lễ toàn thiêu chiên, ḅ cực kỳ tốn
kém th́ được thiên chúa tha thứ và cứu giúp.
Họ đánh bại quân thù, xây dựng lại non nước,
đền thờ. Suốt 3.500 năm (từ năm
1500 tr.CN đến 1946), lịch sử Do Thái là
một thiên bi hùng ca liên tục. Trong
toàn bộ kinh Cựu ước, nhiều lần, chính
thiên chúa Yéhova tự nhận ḿnh là một vị
thần dễ nổi nóng, hay ghen tị, hay thù dai, hay
hờn lẫy, hoặc bỏ mặc không thèm đếm
xỉa đến dân Do Thái nữa… những khi
ấy Yéhova xúi các dân tộc khác “hành” dân Do Thái
chết bỏ. Tuy nhiên Yéhova cũng dễ cảm
động trước những lời cầu xin tha
thứ. Ngài lại ban ơn, giúp đỡ phù trợ
dân Do Thái rất nhiệt t́nh. Nhiều lần ngài
hứa hẹn với dân Do Thái… nghe đă lỗ tai
vô cùng. Khi
thương th́ Yéhova thiên vị Do Thái đến
độ coi các dân tộc khác c̣n tệ hơn
cả con giun con dế. Yéhova kỳ thị và cực
kỳ tàn độc với các dân tộc khác không c̣n
một chút ǵ gọi là nhân đạo. Chẳng
hạn ngài ra lệnh cho Do Thái khi chiếm được
thành nào của dân ngoại th́ phải “tru
hiến” (tàn sát để hiến dâng) nghiă là
giết hết nam, phụ, lăo, ấu kể cả
đàn bà mang thai, cho đến cả dê, ḅ, ngựa,
chó, gà… Phá b́nh địa nhà cửa, thành quách,
đền đài… không được bỏ sót
một thứ ǵ ngoài mặt đất trống trơn,
dù họ có cùng huyết thống và chẳng thù oán ǵ
với dân Do Thái cả! Tuy
nhiên, Do Thái sau gần 1.500 năm lập quốc
(kể từ năm 1500 tr.CN đến năm 70 s.CN)
vẫn kỳ c̣m trong giải đất Palestin tí xíu,
với 2/3 là sa mạc, với nội chiến và
chiến tranh cùng khắp các dân tộc láng giềng
hoặc làm nô lệ hết nước này qua nước
khác hầu như không bao giờ chấm dứt. Và
cuối cùng, năm 70 họ bị người La Mă
đuổi ra khỏi tổ quốc làm kiếp tha hương
gần 2000 năm. Từ đó dân Do Thái lưu vong trên
khắp thế giới, đi tới đâu họ cũng
bị các quốc gia địa phương kỳ
thị, xua đuổi, hạn chế việc làm và
nhất là đổ lên đầu họ đủ
thứ tội: tội giết chúa, tội nguyên nhân gây
ra các bệnh dịch tả, dịch hạch, hạn hán,
lụt lội, giúp nước thù địch, gián
điệp… Họ tràn vào những khu Do Thái cư
ngụ tàn sát, hảm hiếp, cướp bóc, xua
đuổi dân Do Thái cực kỳ dă man! Điển
h́nh, từ năm 1938-45 dân Do Thái bị quốc xă
Đức thủ tiêu trên bốn triệu người
trong các ḷ thiêu. Năm
1946, đế quốc Anh làm ngơ cho nhiều nhóm Do
Thái trở về mua đất lập làng trên quê hương
cũ và cuối cùng hội Quốc liên chấp
nhận cho họ đôc lập 1947. Vừa tuyên
bố độc lập họ bị các nước
Ả Rập trong toàn vùng liên minh tấn công trước
sau 3 cuộc chiến tranh tàn khốc. May mắn họ
được các nước Tây phương trợ
lực vô cùng tích cực. Cả ba cuộc chiến
tranh họ đều chiến thắng lẫy lừng
và bảo vệ được nền đôc lập.
Dù thế, cho đến nay họ vẫn không sống
yên ổn được v́ các dân tộc Ả
Rập không chấp nhận sự hiện diện
của họ trên vùng đất Ả Rập. Đó
là sơ lược sự liên hệ giữa thiên chúa
Yéhova và dân tộc Israel. Phải chăng, dù dựa vào
vị thần minh oai hùng nhất vũ trụ hay cường
quốc hùng mạnh nhất địa cầu mà
bản chất vong thân th́ hạnh phúc dẫu có cũng
chỉ chập chờn như gió thoảng, mây trôi? IV/6 .- NHỮNG TÔN
GIÁO THỜ ĐỘC THẦN Từ
năm thứ 30 sau CN, tại Israel, một người
Do Thái tên là Jésus dựa vào kinh điển Do Thái giáo
cổ rao giảng một giáo lư mới. Đạo
mới cũng thờ thiên chúa Jéhova nhưng cổ vũ
triết lư bác ái và sống thánh thiện để
được hưởng ơn cứu độ. Năm
33, ngài bị bọn tư tế của Do Thái giáo
cấu kết với nhà cầm quyền La Mă giết
chết trên thập tự giá. Theo
Tân ước th́ ba ngày sau ngài sống lại,
tiếp tục giáo huấn môn đồ thêm 40 ngày và
về trời. Các môn đệ của ngài tiếp
tục truyền bá đạo ngài trên toàn đế
quốc La Mă và xưng là đạo Kitô. Đạo
Kitô khởi đầu lan truyền ở Trung Đông,
Bắc Phi châu và các thị trấn trong phạm vi
đế quốc La Mă… Trong giai đoạn này, đạo
chỉ hoạt động trong phạm vi tôn giáo. Các
vua chúa La Mă nhận thấy Kitô giáo chủ trương
con người ngang nhau trước mặt thiên chúa,
nhiều điều trong giáo lư đụng chạm
đến quyền lợi nhà vua và giai cấp quư
tộc nên quyết định cấm đoán và truy
diệt rất dă man. Tuy nhiên, đến thế
kỷ thứ 3, đạo Công giáo được
đế quốc La Mă thừa nhận và giúp đở,
nhờ đó đạo phát triển rất mạnh
khắp Âu châu và thế giới. Đầu
thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mă chia làm
hai đế quốc: đông La Mă và tây La Mă. Đạo
Công giáo cũng bị ảnh hưởng, chia thành
hai: giáo hội phương Đông và giáo hội phương
Tây. Tuy nhiên khi cả hai đế quốc đông, tây
La Mă kế tiếp nhau sụp đổ th́ hai giáo
hội này vẫn liên tục ḱnh chống nhau cho đến
ngày nay. Từ
sau năm 555, chiến tranh giữa các tộc, các
rợ ở Âu châu chống lại đế quốc
La Mă để dành độc lập xẩy ra
triền miên, giáo hoàng Grégoire Le Grand lănh đạo giáo
hội phương Tây (đại giáo hoàng 590-604) dùng
uy thế tôn giáo, thành lập quân đội, xây
dựng nhiều nhà thờ, cung điện và
nhiều tu viện (những tu viện này có giá
trị như những pháo đài), can thiệp thường
xuyên vào phạm vi thế quyền… Từ đó uy
quyền của giáo hội phương Tây vươn
ra khắp châu Âu và gọi là Công giáo La Mă do giáo
quyền Công giáo chọn Vatican (Rome) là thủ đô. Đầu
thế kỷ 7, ở La Mecque và Médine Trung Đông,
Mahomet xưng là tiên tri cuối cùng của thiên chúa Jéhova
(thiên chúa Do Thái) nhưng ông gọi là đấng
Allah, lập đạo Mahomed. Đạo Mahomed lan tràn
mạnh trong người Hồi (Hồ) nên cũng
gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Giáo lư
Mahomed pha trộn giữa hai tôn giáo Do Thái giáo, Kitô giáo
và một số truyền thống đặc thù
của các dân tộc du mục sống trên sa mạc,
khá giản dị. Ông chủ trương vừa
mời gọi vừa hù dọa, khi cần ông cũng
không từ chối chiến tranh gọi là thánh
chiến để áp đặt tôn giáo mới lên các
dân tộc quanh vùng. Trong
suốt các thế kỷ thứ 7, 8, 9 đạo
Mahomed phát triển liên tục. Hầu như toàn
bộ Trung Cận Đông cùng một số nước
ở Âu châu, Á châu và Đông Á quần đảo
nằm trong ảnh hưởng đạo Mahomed.
Nền văn minh Hồi giáo trong nhiều thế
kỷ vươn lên một đỉnh cao tuyệt
vời gồm chính trị, xă hội, văn chương,
nghệ thuật, y học, toán học, thiên văn,
trồng tia, kỹ nghệ… Vào
đầu thế kỷ 11, một dân tộc theo đạo
Mahomed gọi là người Thổ Seljoucides chủ trương
dùng thánh chiến để mở rộng biên cương
Hồi giáo. Từ Tân Cương họ tràn tới tiêu
diệt Ba Tư, chiếm Hi Lạp, Syrie, Jérusalem, sát
hại tín đồ công giáo, hăm dọa
Constantinople. Năm
1095, phía Công giáo La Mă vận động các nước
Âu châu tổ chức nhiều đạo binh Thập
Tự Quân vượt biển Địa Trung Hải
tấn công Hồi giáo. Cuộc thánh chiến này phía
Tây phương dành lại được vài phần
đất, quan trọng nhất là vùng Jérusalem. Tuy nhiên,
phía Hồi giáo cũng chống cự vô cùng dũng
cảm. Hai bên khi được khi thua giằng co măi
đến năm 1270 th́ phía Âu châu kiệt quệ
khiến họ phải bị ngưng lại. Phía
Hồi giáo cũng dần dần phân hóa thành
nhiều hệ phái chống phá nhau. Vào
thế kỷ 16 -17, phía Công giáo La Mă có nhiều phong
trào cải cách khiến đạo này chia thành
nhiều phái: Công giáo, Tân giáo. Tân giáo lại chia làm
hai: phái Luther và phái Calvin. Chia rẽ tôn giáo gây ra chia
rẽ chính trị và tạo thành những cuộc
chiến tranh giữa các nước Âu châu hoặc
nội chiến. Nói
chung, tiếp theo Do Thái giáo với thiên chúa Jéhova
bắt đầu từ thời thượng cổ, là
các tôn giáo mới (từ năm 0033 trở về sau)
thờ độc thần : giáo hội Công giáo, giáo
hội Đông phương, giáo hội Chính thống,
giáo hội Anh Quốc, Hi-Lạp, hàng trăm giáo
hội Tin Lành và các hệ phái Hồi giáo… đang là
một cộng đồng tôn giáo quan trọng trong
đời sống nhân loại ngày nay. Tuy nhiên,
hầu như họ không thể ngồi lại
với nhau được dù thờ cùng một v́ thiên
chúa. Từ
nhân sinh quan thiên chúa giáo của Do Thái cổ, chúng ta
vẫn thấy con người chưa thoát ra được
những hệ lụy của tính vong thân v́ vẫn
phải run sợ, vẫn phải nương tựa,
phải cầu xin sự cứu độ nơi
thần linh… IV/7 .- NGƯỜI
TRONG VĂN HÓA ẤN ĐỘ Trước
năm 1200 tr.CN, các dân tộc bản thổ tại
Ấn Độ đă có nền văn hóa gọi là
văn hóa Dravidian. Sau đó là nền văn hóa
ngoại xâm gọi là Aryian vùi dập Dravidian mà thay
thế. Từ Phật Thích Ca xuất hiện vào
khoảng năm 600 tr.CN cho đến ngày nay th́ văn
minh Ấn Độ chuyển dần thành sự
kết hợp giữa hai nền văn hóa cổ xưa
nói trên. Tuy nhiên, văn hóa ngoại xâm Aryian tại
Ấn Độ luôn luôn làm chủ t́nh thế. Văn
hóa Dravidian hướng về nhân bản tâm linh mang
tầm vóc vũ trụ. Linh hồn gọi là Purusa,
xuất phát từ thần Prajapati cũng gọi là
Brahma tức là chúa tể vũ trụ. Prajapati đă
tự hóa thân thành Purusa đại ngă (nói một cách
khái quát: đại ngă là sự thành đạt
tuyệt đối về thể xác cũng như tinh
thần. Với Phật giáo là thoát khỏi kiếp luân
hồi, với Công giáo là bậc thánh, với Nho th́
là người quân tử…). Cứu cánh của văn
hóa Dravidian là phải đạt được đại
ngă để trở về với Prajapati, chúa tể
vũ trụ và Yoga là phương pháp để đạt
thành đại ngă. Đó là nhân bản toàn diện;
cũng v́ thế mà văn hóa Dravidian bị quan
niệm thần minh của văn hóa Aryian đàn áp. Khoảng
năm 1200 tr.CN, một nhánh thuộc giống Ấn Âu
(Ariyan) từ phía Đông biển Caspienne tiến
về Nam. Một phần lập quốc tại cao nguyên
Iran (Ba Tư). Phần c̣n lại xâm lăng Ấn
Độ của cư dân Dravidian. Họ lập ra
cả ngàn tiểu quốc. Họ đàn áp dân
tộc Dravidian và hủy diệt văn hóa của dân
tộc này. Người Aryian lập đạo Bàlamôn
làm quốc đạo, xă hội chia thành 4 giai
cấp: quư tộc, tu sĩ, chiến sĩ, và nông-thương.
Thổ dân Dravidian không được kể tới nên
gọi là vô loại (padi). Họ bị tội đổ
ch́ vào lỗ tai nếu bị bắt khi đang nghe lén
tu sĩ Bàlamôn đọc kinh. Các chế độ
tiểu quốc ở Ấn Độ và cách đối
xử cực kỳ dă man với người Dravidian
tồn tại măi cho đến cuối thế kỷ
19 mới được người Anh băi bỏ. Quan
niệm thần minh của người Aryian hướng
về cứu độ, đặt nặng linh hồn
mà khinh bỏ thể xác, ngược lại với
quan niệm tiến hóa toàn diện vừa thân xác
vừa tinh thần của Dravidian. Chính sự mâu
thuẫn này mà văn hóa của kẻ bị mất nước
Dravidian phải ch́m vào bóng tối gọi là “đạo
kín”, họ tu trong rừng sâu ở các hốc núi,
gốc cây… Tuy
nhiên văn hoá Dravidian vẫn được nhiều
người ái mộ, kể cả những quư
tộc Ariyan. Họ tu học “đạo kín”
Dravidian trong rừng sâu. Năm 563 tr.CN, đức Thích
Ca Mâu Ni cỡi bỏ giai cấp quư tộc của ḿnh,
vào rừng tu theo “đạo kín” này. Sau 49 ngày
đêm ngồi thiền định dưới một
gốc cây bồ đề, ngài cải sửa, hoàn
chỉnh tư tưởng và nguyên tắc hành đạo
của đạo này thành một triết lư uyên thâm.
Đạo Phật phát sinh từ đó. Đạo
Phật cũng giống Kitô giáo, không phát triển
được ở quê hương v́ bị giới
tu sĩ đạo Balamôn đang thịnh hành hợp
với chính quyền địa phương chống
phá, tàn sát… Phải phát triển ra các nước láng
giềng. Phải chăng nhờ vậy mà Phật giáo
và Công giáo mang tính cách thế giới? Nếu
so với nền văn minh Trung Hoa ngày nay th́ văn hóa
kẻ xâm lăng là Hoa tộc vốn rất lu mờ
trước văn hóa sáng chói của các dân tộc
bị xâm chiếm (Miêu tức Viêm c̣n gọi là Bách
Việt). Sự kiện trên khiến văn minh Trung Hoa
mang dấu ấn: kẻ xâm lăng đóng dấu
quốc tịch Trung Hoa lên các giá trị tư tưởng
của cư dân bản xứ. Cái dở của Hoa
tộc là không có can đảm nh́n nhận nền văn
hóa mang dấu môc kia là của dân bản địa mà
c̣n lật lọng gọi cư dân bản xứ là
“man di”, “Nam man”. Quả thật, họ thua xa du
mục Aryian Ấn Độ về mặt thành
thật ngoại trừ đức Khổng Phu Tử. Chúng
ta tạm ngưng t́m hiểu các nền văn minh loài
người để xem vào khoảng năm 500 tr.CN phương
Tây và Trung Á nghĩ ǵ về thần minh. IV/8 .- SUY TƯ
CỦA CÁC TRIẾT GIA HI LẠP CỔ Giữa
thế kỷ thứ V trước CN, giới trí
thức trong các đại học Hi Lạp đă có
những suy tư về thân phận con người
đáng cho thế giới ngày nay khâm phục. Họ
cho rằng vạn vật trong thiên nhiên đều do
những nguyên tử kết hợp lại mà thành.
Chẳng những thế, có những người sáng
suốt, nhận ra cái sai lầm của thời đại,
đó là những triết gia tiên khởi của Tây
phương như Socrate và các học tṛ của ông:
Platon, Antisthène, Aristippe. Họ lập ra phép luận lư
được nhiều người trọng vọng.
Từ phép luận lư, họ khai mở nhân bản
bằng khẩu hiệu: “Hăy tự nhận
thức giá trị bản thân ḿnh”. Cũng từ
đó họ suy ra đạo đức học : “Con
người có những hành động xấu xa
chỉ v́ người ta không biết và cũng không
ai tự nguyện làm kẻ độc ác”. Chúng
ta sẽ thấy từ những nhịp cầu tư tưởng
của Socrate và nhóm học tṛ của ông… sẽ giúp
Aristote (học tṛ của Platon) bước mạnh
tới một chủ thuyết: “Người là
một sinh vật biết suy lư” sau này. Socrate
không để lại một tác phẩm nào, phải
chăng khi ông bị ép phải uống thuốc độc
chết, chính quyền và giới tư tế Hi
Lạp đă thủ tiêu sách của ông? Tuy nhiên,
Platon viết cuốn “Chế độ Cộng Ḥa”
để tả một chính thể lư tưởng, th́
vẫn c̣n tồn tại. Học
tṛ của Platon là Aristote (384-322 tr.CN), thầy dạy
của Alexandre Đại đế, tiếp tục
tiến tới sau khi “đi qua chiếc cầu”
của những người đi trước. Ông
đặt vấn đề về giá trị con người
trước thần minh. Ông lư luận sự tồn
tại khách quan của thế giới vật chất
đồng thời coi cảm xúc, tư tưởng và
khái niệm đều xuất phát từ các vật
thể thực tại, mà ông nhận thấy nằm
ngay trong mỗi bản thân. Chủ thuyết “Con người
là một sinh vật biết suy lư” thành h́nh và là
một bước tiến mới của tri thức
con người trước cái mênh mông huyền bí
của vũ trụ. Dù vậy Aristote đă không đả
động ǵ đến chế độ nô lệ
đang là một thực tại thê thảm khác
hiện diện trước mặt ông mỗi ngày.
Phải chăng triết lư nhân bản chỉ dành cho
mẫu người có vũ khí trong tay? Hay ông đă
gặp sự phản ứng từ phía chính quyền
và tôn giáo? Bởi đó, chủ thuyết của
Aristote đă tạo cơ hội cho Tây phương
thế kỷ 17, 18 tiếp tục chối bỏ giá
trị “nhân bản của giới nô lệ” cho
đến thế kỷ 19. Nền
triết học nhân bản Hy-Lạp vừa được
khai sinh chưa được bao lâu th́ bị quật
ngă v́ ba lư do: 1.-
Chính quyền và giai cấp tư tế Hi Lạp xưa
nay vẫn dựa vào nhau để cai trị và hưởng
những đặc quyền, đặc lợi. Nay có
kẻ chống phá có thể nguy hại đến
quyền lợi của ḿnh, lẽ dĩ nhiên họ
phản ứng. Kết quả, Socrate bị ép uống
thuốc độc chết tại trường đại
học và thế hệ sau đó, Aristote, cũng
phải giả điên… 2.-
Giới chủ trương nhân bản hầu như
chỉ hạn hẹp trong thành phần trí thức, trưởng
giả chứ không phổ cập trong đại chúng. 3.-
Sự xuất hiện của một số tôn giáo
mới mang nhiều nhân tính mà hầu hết xuất
phát trong vùng Cận Đông. Giữa
thế kỷ IV tr.CN, nhóm hậu sinh của nhà
triết học cổ Antisthène, người sáng
lập chủ thuyết Cynic mà người nổi danh
nhất là Diogènes. Họ phê phán mạnh mẽ
đường lối của Platon về các tư tưởng
chủ đạo của chủ thuyết duy tâm khách
quan. Họ cho rằng con người chỉ có thể
hạnh phúc và đạo đức khi đoạn
tuyệt với giàu sang, quyền lực và thú vui xác
thịt. Con người cũng không nên lấy làm
trọng các luật lệ của xă hội. Họ
chủ trương từ bỏ mọi h́nh thức
thờ phượng trong lễ nghi tôn giáo. Từ
cuối thế kỷ IV đến III tr.NC, một nhóm
triết gia, đứng đầu là Zénon, lập ra
thuyết khắc kỷ (dằn sự ham muốn)
gọi là chủ thuyết Stoycien. Họ chủ trương
cần phải sống cho phù hợp với tự nhiên
v́ đấy là lư tưởng của kẻ trí
thức, của hiền nhân thực sự. Thoát ly ra
khỏi những dục vọng, là đạt
được thanh thản tâm hồn, là hạnh phúc
của con người… Vào
những năm đầu kỷ nguyên thứ I,
chủ nghĩa khắc kỷ bắt đầu phát
triển trong phạm vi đế quốc La Mă. Chủ
nghĩa được bổ sung thêm, chủ yếu là
những tư tưởng thuộc về đạo
đức và tôn giáo… Trở
lại vấn đề các tôn giáo mới xuất
hiện trong khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN
trở lại: 1
– Nguyên vào thời gian này ở các nước
Cận Đông xuất hiện một số tôn giáo
mới, thích hợp với đa số đại chúng
và nô lệ hơn là các thần thoại cổ, điển
h́nh là của Ai Cập, Hi Lạp, La Mă và Mésopotamie.
Trước hết là đạo Dionisos xuất
hiện Sicily ở phía Nam nước Ư cuối
thế kỷ thứ VI tr.CN được mọi người
xưng tụng là đấng Cứu thế con Thiên chúa
Jupiter (Zeus). 2
– Xứ Capodo có đạo thờ nữ thần Ma,
về sau đạo này tràn qua Ionie, La Mă và một
số các nước khác. Người ta tin rằng,
nếu tự hoạn hoặc hủy hoại một vài
cơ phận trong cơ thể như tai, mắt, tay,
chân… th́ xin ǵ cũng được nữ thần
Ma ban cho. 3
– Nữ thần Isis được tôn xưng là thánh
mẫu Isis của Ai Cập được truyền bá
rất rộng và phát triển nhanh chóng nhiều nơi
ở Châu Âu nhờ đạo này đưa ra h́nh
ảnh bà mẹ đau thương, lân tuất và an
ủi kẻ ưu phiền… đáp ứng trực
tiếp vào niềm hi vọng của con người hơn.
Người ta gọi thánh mẫu Isis là Sao biển,
Nữ vương trên trời, Mẹ Thiên chúa…
Chồng của Isis là Osisris được tổ
chức mừng lễ sống lại vô cùng trọng
thể. Con của họ là Horus mà trong các bức tượng
điêu khắc người ta thường thấy
mẹ Isis bồng trên tay. Đạo
Isis được dân nghèo và dân nô lệ đón
nhận mau chóng nhờ câu chuyện rất cảm
động, lễ nghi tinh luyện, ca nhạc du dương,
không phân biệt quốc tịch, sang hèn, đẳng
cấp. Từ Ai Cập đạo Isis mau chóng tiến
sang Sicile, La Mă, các nước quanh Địa Trung
Hải và Tây Âu như Pháp, Ư, Tây Ban Nha,Hi-Lạp,
Thổ Nhỉ Kỳ, Thụy Điển, Phần Lan,
các nước ở Bắc Phi… rất mạnh, đến
nay vẫn c̣n nhiều cộng đồng dân chúng duy
tŕ thờ phượng … IV/9 .- VĂN MINH
TÂY PHƯƠNG HIỆN ĐẠI Lịch
sử thế giới đến thế kỷ 17-18 th́
mọi di sản của thời trung cổ để
lại ở Tây phương đều bị kích bác,
loại bỏ. Những kẻ bảo tồn, binh
vực các di sản ấy có thể bị khủng
bố, diệt trừ như trước kia tôn giáo
pháp đ́nh* của ṭa thánh La mă đă khủng
bố và diệt trừ những người có tinh
thần khoa học và tư tưởng mới vào
giữa thế kỷ 16 vậy”. *
Tôn giáo pháp đ́nh do giáo hội Công giáo La mă lâp ra
từ lâu nhưng hoạt động rất hạn
chế trong phạm vi tín lư. Năm 1542, giáo hoàng Paul
III cổ vũ dùng tôn giáo pháp đ́nh để bài
trừ tự do tư tưởng. Các giáo sĩ ḍng
Dominicain được bổ nhậm làm pháp quan và
sai đi khắp nơi lập ṭa án luận tội và
kết án những người đề xướng
tư tưởng khác biệt với giáo hội
hoặc giới chủ trương cải cách
hoặc bất tuân lệnh của ṭa thánh… bằng
những tội rất nặng có thể bị xử
tử h́nh, hỏa thiêu, tù đày… Giáo
hoàng Paul IV (1559-1565) ra lịnh khủng bố triệt
để những kẻ t́nh nghi có tư tưởng
tà giáo. Tôn giáo pháp đ́nh c̣n tràn qua lănh vực khoa
học và triết học. Bắt đầu từ năm
1559 tôn giáo pháp đ́nh tổ chức các cuộc
đốt sách, báo, tài liệu… khác biệt với
quan điểm Thiên chúa giáo. Họ buộc tội các
khoa học gia, triết gia, nhà văn không tuân theo
lập luận của tôn giáo là tà giáo, là phù
thủy và thiêu sống họ vô cùng dă man!. Tôn
giáo pháp đ́nh được giai cấp thống
trị tiếp đón nhằm dựa vào thế
lực tôn giáo để đàn áp các nhóm lư
thuyết cách mạng đang làm đảo lộn
trật tự xă hội mà họ đang thống
trị. Thế
lực tôn giáo cấu kết với nhà cầm
quyền đè nặng lên cộng đồng dân chúng
mà sự cách biệt quá lớn tạo thành mâu
thuẩn xă hội vô cùng gay gắt. Những nhà tư
tưởng, học giả xưa nay vẫn là
những người nghiên cứu sách vở Hi-Lạp
cổ với Socrate, Platon, Antisphen, Aristote, Zénon, Diogènes…
tạo thành những phong trào chống đối
mỗi ngày một lan rộng. Những cuộc hội
họp nhỏ kiểu pḥng trà (salon) bàn thảo
những vấn đề tranh đấu cho tự do
con người và gọi là cổ điển nhân văn*
nhưng xây dựng trên nguyên tắc duy nhân** . Đỉnh
cao của giai đoạn chuyển hướng đă
đến vào thế kỷ 17 và18 với những
cuộc cách mạng tại Pháp mới thật sự
chín muồi trong việc xóa bỏ quyền lực tôn
giáo và các sử gia gọi đây là thời kỳ
Phục hưng. *
Nhân
văn (humanities), những luận thuyết, b́nh
luận, triết lư các vấn đề liên quan
tới đời sống và giá trị con người.
Chẳng hạn, tài liệu quư bạn đang đọc
là một chủ đề Nhân văn. **
Duy
nhân (anthropologie), chỉ chú trọng tới người,
tất cả mọi vấn đề trong xă
hội đều phải phụ thuộc vào người.
Người là một thực thể riêng rẽ
cộng thêm lư trí chứ không liên hệ ǵ đến
trời đất. Tín ngưỡng tâm linh, đạo
đức, luân lư, luật pháp, truyền thống…
chỉ là thứ yếu hoặc
không cần đếm xỉa đến. Duy nhân
rất gần với hiện sinh. (xin xem hiện
sinh được đề cập ở phần dưới) Tuy
nhiên, Darwin, Hobbes, Hegel… vẫn cứ biện minh cho
việc chiếm đoạt và bóc lột các dân
tộc nhược tiểu kể cả duy tŕ chế
độ nô lệ. Các cuộc cách mạng tại Pháp
cũng mở màn cho sự chối bỏ quyền
lực của giáo hội Công giáo La Mă trên chính
quyền các nước Âu châu. Kể từ đây,
giáo hội Công giáo chỉ hoạt động trong
phạm vi nhà thờ mà thôi. IV/10 .- KHOA
HỌC VÀ TÔN GIÁO IV/10A
.- Khoa học và tôn giáo ḥa hợp đượckhông? “Khoa
học không có tôn giáo th́ què quặt, Albert
Einstein “Phải
chăng, hiểu cách chính xác nhất, tôn giáo là
bệnh truyền nhiễm của lư trí?” Nhà
sinh vật học Richard Dawkins. Trên
đây là hai lời b́nh luận điển h́nh
của các khoa học gia thuộc hai phe chống đối
nhau trên thế giới ngày nay. Tôn giáo, thể
hiện sắc thái tâm linh, tín ngưỡng. Khoa
học, thể hiện các tính toán của suy lư. Đôi
khi hai giới này được xem là những tử
thù của nhau. Đối với một số người,
hai phạm trù này dường như đă bị khóa
chặt trong một trận chiến một mất
một c̣n. Như vậy, liệu khoa học và tôn giáo
có thể ḥa hợp với nhau được chăng?
Chúng tôi tin rằng được. Về
phía chúng tôi, những người tự nguyện làm
công việc vận dụng kiến thức và tâm ư
để phóng họa một hướng đi,
chắc chắn chúng tôi không thể bỏ sót vấn
đề vô cùng gai góc này. Bởi v́ tôn giáo và khoa
học vốn là Lưỡng cực trong triết lư
Nhất nguyên. Tách rời hay bỏ một trong hai
vấn đề này ra khỏi đời sống con
người là một sai lầm đầy máu và nước
mắt của nhân loại. Các phát triển khoa
học ngày nay rơ ràng đang lấn lướt tôn giáo,
một giá trị tâm linh cực kỳ quan trọng trên
đường đi của chúng ta. Tuy
nhiên những tin tức khoa học mấy năm qua
đă cho thấy những khám phá mới ngoài trái
đất và con người đang buộc các nhà thiên
văn, các nhà khoa học vật lư xem xét lại quan
điểm của họ về nguồn gốc vũ
trụ và nêu lên những câu hỏi ngàn xưa liên
quan đến sự hiện hữu của loài người:
Vũ trụ và sự sống đă bắt đầu
như thế nào và tại sao? Các
khoa học gia, khi gặp được cái cốt lơi
tận cùng của con người, tức là cái
bản đồ về bộ GEN người vừa
được hoàn thành gần đây, cũng đă
phát sinh nhiều câu hỏi: Vô số h́nh thái khác nhau
của sự sống đă được tạo nên
như thế nào? Và, ai đă sáng tạo ra những cái
GEN đó? Cái
GEN với những phần thiết kế cực
kỳ phức tạp của con người đă
khiến cho một tổng thống Mỹ phát
biểu: “Chúng
ta đang học một thứ ngôn ngữ mà Thượng
đế đă dùng để tạo nên sự
sống!”. Một
trong các nhà khoa học chủ chốt của chương
tŕnh giải mă GEN đă khiêm tốn nhận xét: “Lần
đầu tiên chúng ta được nh́n thấy
tận mắt cẩm nang của chính ḿnh mà trước
đây h́nh như chỉ ông Trời mới
biết”. Nhưng
các câu hỏi vẫn c̣n nằm đó: §
Sự
sống và vũ trụ bắt đầu như
thế nào? §
Sự
sống và vũ trụ là những kiến trúc
cực kỳ phức tạp, vô cùng huyền diệu
không thể là một ngẫu nhiên. §
Tại
sao chúng hiện hữu? Một
số khoa học gia cho rằng mọi vận hành trong
vũ trụ đều có thể được
giải thích bằng phân tích lư luận của toán
học mà không cần đến sự khôn ngoan siêu
phàm nào. Nhưng lại cũng nhiều khoa học gia
khác cảm thấy quan điểm đó không thỏa
đáng. V́ thế họ cố gắng t́m hiểu
sự thực qua cả hai lăng kính: khoa học và tôn
giáo. Họ nghĩ rằng: §
Khoa
học giúp lư giải sự sống và vũ trụ
quanh ta hiện hữu như thế nào. §
Tôn
giáo chủ yếu cho biết tại sao vũ trụ
hiện hữu? Nhà
vật lư học Freeman Dyson nói: “Khoa
học và tôn giáo là hai cánh cửa mà qua đó người
ta cố gắng t́m hiểu vũ trụ bao la bên ngoài”. Tác
giả William Rees-Mogg viết: “Khoa
học nghiên cứu những ǵ đo lường
được, c̣n tôn giáo nghiên cứu những điều
không thể đo lường được.” Ông
cũng nói: “Khoa
học không thể chứng minh hoặc bài bác sự
hiện hữu của Thượng đế, cũng
như nó không thể chứng minh hoặc bài bác
một quan điểm đạo đức hay
thẩm mỹ. Không có một lư do khoa học nào
khiến người ta yêu thương người lân
cận hay tôn trọng sự sống của con người…
Cho rằng không có điều ǵ hiện hữu mà không
thể được chứng minh bằng khoa học
là sai lầm, là ấu trĩ. Những nhận định
ngông cuồng đó có thể dẫn đến
việc phủ nhận hầu hết mọi thứ chúng
ta xem là giá trị trong đời sống nhân
loại, chẳng những trong phạm vi Thượng
đế hay trí tuệ con người mà cả t́nh yêu,
thi văn và âm nhạc…” IV/10B
.- Khoa học mà cũng có đức tin và tín lư hay
sao?! Học
thuyết của một số khoa học gia phản
đối tôn giáo dường như thường
dựa trên các tiền đề đ̣i hỏi
phải có một loại “đức tin” nào đó.
Chẳng hạn, khi nghiên cứu về nguồn
gốc của sự sống, hầu hết những
người chấp nhận thuyết tiến hóa bám
chặt vào các ư kiến đ̣i hỏi người
nghe phải tin vào một số “tín lư” nhập
nhằng các dữ kiện thật trộn lẫn
với giả thuyết. Khi
các khoa học gia đó dùng thẩm quyền của ḿnh
để áp đặt niềm tin mù quáng vào
thuyết tiến hóa, rơ ràng họ muốn nói:
“Bạn không phải chịu trách nhiệm về hành
vi đạo đức của chính ḿnh v́ bạn
chẳng qua là một sản phẩm của sinh
học, hóa học và vật lư”. Nhà
sinh vật học Richard Dawkins phát biểu trong một
đại hội các Khoa học gia: “Trong
vũ trụ không có sự thiết kế, không có
mục đích, không có điều ác, điều
thiện, không có sáng tạo ǵ cả ngoài sự
hờ hững vô nghĩa”. Để
bảo vệ niềm tin đó một số khoa
học gia đă dứt khoát bỏ ngoài tai mọi ư
kiến trái ngược với những giả
thuyết căn bản của họ về nguồn
gốc sự sống. Quả nhiên các Khoa học gia này
đă lập thêm một tôn giáo mới: “Tôn giáo
Khoa Học Chân Giả Tṛng Tréo”. IV/10C
.- Lư do cần phân biệt mỗi phần vụ trong xă
hội Ngày
nay, việc phát giác ra GEN với sự h́nh thành
cực kỳ phức tạp của các phân tử
cần thiết để tạo thành một tế bào
sống là điều không thể có được
trong toán học và suy lư. Bởi thế học
thuyết vơ đoán về nguồn gốc sự
sống và vũ trụ hiện hữu đang
được thế giới soát xét lại. Albert
Einstein thừa nhận: “Trong
giới khoa học gia uyên thâm, không thiếu những
người có một tư duy tôn giáo nào đó
của riêng họ… Tư duy tôn giáo đó thể
hiện qua sự thán phục sâu xa trước sự
hài ḥa của quy luật tự nhiên, cho thấy có
một trí thông minh siêu đẳng mà so với nó,
tất cả sự thành đạt của loài người
chỉ là sự phản chiếu hoàn toàn vô nghĩa.
Tuy nhiên sự thán phục đó không nhất
thiết sẽ khiến các nhà khoa học tin có đấng
Tạo hóa hay một đức Chúa Trời
thật…” Mục
tiêu của khoa học là mô tả các hiện tượng
trong thế giới tự nhiên và giúp giải đáp
câu hỏi các hiện tượng đó được
h́nh thành như thế nào. Khoa học giúp ta hiểu
biết sâu xa hơn vũ trụ vật chất nhưng
khoa học không thể trả lời cho ta tại sao vũ
trụ hiện hữu. Khoa
học gia Allan Sandage đă nói lên một câu rất
hay mà chúng tôi cố t́m cho phần kết luận
đoạn sách này: “Tôi
không đọc sách sinh vật để học cách
sống” Thật
là chí lư! Học làm cách nào để sống th́
cần phải t́m đọc các loại sách nói
về Người hay sách nói về Tôn giáo! IV/11 .- ÂU CHÂU
& CUỘC CÁCH MẠNG XĂ HỘI Khởi
đầu là cuộc cách mạng kỹ nghệ ở
Anh quốc, sau đó truyền qua Pháp và các nước
lân cận. Ở Pháp, sau cách mạng năm1789, giai
cấp phú hào nhờ kỹ nghệ và thương măi
mà thay thế giai cấp địa chủ của quư
tộc và giáo sĩ . Bọn phú hào tham lam ḅn rút
sức lao động của công nhân tạo thành
một giai cấp mới: giai cấp công nhân. Đời
sống thợ thuyền từ đó cực kỳ
khổ cực, làm việc mỗi ngày 13 giờ,
trẻ em cũng phải đi làm mà gia đ́nh lúc nào
cũng đói rách. Đau ốm mà nghĩ việc th́
không được lănh tiền công, rủi bị tai
nạn th́ bị đuổi và không được
bồi thường, cứu trợ, hơi trái
lịnh chủ là bị cúp lương. Nơi làm
việc tối tăm, thiếu an toàn, dơ bẩn và
nạn thất nghiệp lúc nào cũng có thể
xảy ra. Chủ
nhân tha hồ bóc lột công nhân mà chính quyền th́
nhắm mắt làm ngơ. Chỉ v́ họ đeo đuổi
lư thuyết “Kinh tế tự do cạnh tranh là
yếu tố thăng bằng trong xă hội và là
động cơ của sự tiến hóa” nên không
muốn can thiệp, không muốn binh vực cho
giới công nhân và dân nghèo. Bị
bóc lột, bị ngược đăi th́ sự
phản kháng của dân nghèo mỗi ngày một tăng
lên. Năm 1848 thợ thuyền nổi loạn ở Pháp.
Phong trào chống đối chủ nhân bóc lột
dần dần lan tràn qua các nước Trung Âu, Nam Âu
rồi vượt Đại Tây Dương qua
Bắc Mỹ. Cuộc
nội chiến Bắc, Nam của Hoa Kỳ vào
những năm 1861-1865 mà nguyên nhân là các tiểu bang
phương Bắc muốn giải phóng nô lệ da
đen c̣n các tiểu bang phương Nam th́ chống
lại và đ̣i ly khai là ảnh hưởng trực
tiếp từ cuộc nổi dậy của giai
cấp thợ thuyền Pháp (1848). Nhờ tổng
thống Mỹ, Abraham Lincoln, khéo léo lănh đạo, phía
Bắc đă chiến thắng phe Nam Mỹ, từ
đó chế độ nô lệ và kỳ thị
chủng tộc chính thức bị băi bỏ và duy tŕ
được sự thống nhất của nước
Mỹ. Một
thời gian ngắn sau cuộc nổi dậy của
thợ thuyền, với sự trợ lực của các
triết gia, kinh tế gia như Robert Owen, Saint Simon,
Louis Blanc, Fourier… châu Âu dần dần thay đổi
bộ mặt xă hội, cởi mở, đẹp hơn
phần nào so với trước. Số giờ làm
việc của công nhân mỗi ngày một rút ngắn
bớt, trẻ em được bảo vệ,
được đi học, công nhân có quyền
lập nghiệp đoàn. Quyền băi công, quyền khi
đau ốm vẫn được hưởng lương,
tiền phụ cấp vợ con. Tuy
nhiên, sau các cuộc cách mạng kỹ nghệ, cách
mạng thợ thuyền ấy, thế giới vẫn
tiếp tục tràn ngập máu và nước mắt.
Chính sách bành trướng đế quốc của các
nước ở châu Âu điển h́nh là Tây Ban Nha,
Pháp, Anh, Đức, Nga, Bồ Đào Nha, Hoa Kỳ…
Biết bao nhiêu cuộc đàn áp, bóc lột, giết
chóc ghê rợn ở các thuộc địa và
biết bao cuộc cách mạng đẫm máu chống
đế quốc xâm lăng đă xẩy ra? Lịch
sử thế giới trước và sau Công nguyên, nhân
loại luôn luôn sống trong sự hăi hùng của
chiến tranh tàn phá và hỗn loạn. Chiến tranh
địa phương, chiến tranh liên quốc,
chiến tranh tôn giáo, chiến tranh đế
quốc… khiến xă hội loài người hầu
như không bao giờ yên ổn. Thế rồi bước
sang thời kỳ Phục hưng, người ta
cởi bỏ ách tôn giáo mà chưa t́m được
đạo th́ nhân loại đă vội vă bước
sang thế kỷ 19, 20 là thời đại khoa
học cơ khí tiến lên rầm rộ chẳng
những làm át đi giá trị nhân văn vừa
mới phục hưng mà c̣n gây cho nhân loại ba
lần mang trọng bệnh cực kỳ ngặt nghèo
: phát xít*, quốc xă** cộng sản*** đồng
thời đẩy thế giới bước sang
một giai đoạn ngập tràn các biến động
cực kỳ thảm khốc không lường
được. *
Phát xít : Thường là một đảng do quân
nhân cầm quyền. Giới quân nhân, b́nh thường
xong trung học th́ vào trường huấn luyện sĩ
quan học các bộ môn chuyên nghiệp của quân
đội. Truyền thống quân đội là ra
lệnh và tuân lệnh. Do đó họ thiếu các
khả năng lănh đạo đất nước,
nhưng họ lại thích đồng hóa ḿnh với
tổ quốc và dân tộc. Họ trở thành độc
tài, dùng công an, quân đội khủng bố dân chúng
trắng trợn; kiểm duyệt sách, báo chí gắt
gao; kiểm soát chặt chẽ sự đi lại, nhóm
họp của dân chúng. Nguy hiểm nhất là họ
thích gây chiến tranh để lấy cớ đàn
áp dân chúng hoặc hóa giải sự phẫn nộ
của mọi người để giữ vững
quyền lực… **
Quốc Xă: Tập đoàn lănh đạo bị
bệnh đề cao chủng tộc ḿnh một cách
quá đáng và coi rẻ cũng như kỳ thị, tàn
nhẫn hoặc tận diệt những người khác
chủng tộc. Họ cho rằng, chỉ có chủng
tộc của họ mới đủ tài năng lănh
đạo các nước trong vùng hoặc thế
giới. Do vậy họ chủ trương gây
chiến để phân chia lại ranh giới hoặc
độc chiếm thế giới. ***
Cộng sản: Là loại bệnh trầm kha, lây
lan mau và rất khó chữa trị. Chỉ trong
khoảng nửa thế kỷ chủ nghĩa cộng
sản hành hoành gần một nửa địa
cầu và gây dị ứng khắp nơi trên thế
giới. Họ giản lược con người vào
yếu tố kinh tế vật chất, lợi
dụng danh nghĩa chiến tranh giải phóng các dân
tộc nhược tiểu để mong tiến
tới bá chủ hoàn cầu. Tuy
nhiên, cho đến cuối thập niên 90, chủ nghĩa
cộng sản đi vào tàn lụi. Hiện nay chỉ
c̣n vài nước c̣n cố bám vào danh xưng
cộng sản để duy tŕ quyền lực
chứ thực chất th́ đă thay đổi theo con
đường tạm gọi là kinh tế thị trường. Thời
kỳ khoa học cơ khí đă gây ra một giai
đoạn nước mạnh xâm lăng nước
yếu để chiếm đoạt đất đai,
tài sản và cương bức lao động các dân
tộc bị trị. Kinh hoàng nhất là các dân
tộc da đen ở Phi châu, họ bị các nước
Tây phương săn lùng, bắt giết, buôn bán làm
nô lệ. Đă có hàng ngàn bộ tộc da đen
ở Phi châu bị tàn phá, hàng trăm triệu người
đă bị bắt, bị giết vô cùng man rợ.
Hai cuộc chiến tranh thế giới 1916-18 và 1938-45
là những đại họa vô cùng tàn khốc
của nhân loại cũng do hệ lụy của
chủ nghĩa suy lư nhất nguyên (một chiều)
của Tây phương. Năm
1945, tổ chức Liên Hiệp Quốc được
thành lập tại Cựu Kim Sơn, Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền được công bố. Đây
là một bản văn lịch sử vô cùng quan
trọng đề cập tới giá trị của con
người và quyền công dân… Tuy nhiên, các vấn
đề thuộc về tinh thần như lương
tri, đạo đức, tâm linh, tâm thức… th́
vẫn là những h́nh ảnh xa lạ không thấy
đề cập tới. Tại
sao suốt 200 năm (1800-2000), triết lư Nhân bản
Suy lư Tây phương đă không xây dựng được
thanh b́nh, hạnh phúc cho chính họ và cho thế
giới? –
Khi Aristote định nghĩa: “Người là con
vật biết suy lư” (animal raisonable), ông đặt
con người vào phạm trù toán học th́ tất
nhiên nền nhân bản sẽ được dẫn
dắt theo các lộ tŕnh toán học, lư luận và
đ̣n phép. Do đó, trong suốt 25 thế kỷ
kể từ ngày thuyết nhân bản được
Socrate, Aristote đề xướng và được
xem là một hảo ư rất đáng ca ngợi
nhằm giải phóng con người thoát khỏi
thần minh, dành lại quyền làm người. Tuy
nhiên, quán tính đă đưa nó đi quá xa, vô t́nh
đẩy con người rời khỏi những giá
trị tư tưởng mà nhân loại sau gối
đầu lên nhau xây dựng từ nhiều ngàn năm
trước. Quả nhiên, đây là điều
bất hạnh cho loài người trong hai thế
kỷ 19 và 20 vậy. Triết
gia Lương Kim Định đă ghi lại trong sách
Nhân chủ một vài ư kiến của các triết
gia nổi danh phương Tây phê phán về văn minh
Tây phương khiến ai đọc lên cũng không
giật ḿnh: Max
Scheller viết: “Cái lầm chí tử của Tây phương
thế kỷ 18, 19 là đă dẫn nhân loại đi
theo mẫu người như một hữu thể
chỉ biết suy lư…” Schopenhauer:
“Một sai lầm phổ quát có từ lâu đời,
cần phải được tẩy bỏ đi…” Heidegger:
“Đă từ lâu, chúng ta bị một mớ
lộn xộn của những tư tưởng và khái
niệm mượn từ trong các môn đó (ám
chỉ triết lư Nhân bản Hy-Lạp). Mọi
vấn đề của con người đều
được giải quyết trên một câu định
nghĩa sai lầm”. Và,
chính triết gia Lương Kim Định cũng
đă viết: “Nên đó tuy là một cuộc
trở về với con người nhưng chưa
đi đến cùng tột, chưa bàn đến cùng
lư. Chỉ mới đi tới lư trí đă vội
dừng lại, mà lư trí th́ đâu phải là
phần sâu thẳm của con người, bên trong lư
trí c̣n có tiềm thức, lương tri và cơi tâm
linh”. Bàn
thêm về Hiện sinh : Hiện
sinh (hiện đang sống) là trào lưu
triết học hiện đại. Tuy nhiên triết
học hiện sinh c̣n rất rời rạc, chưa có
sự đồng nhất. Họ cho rằng, sự
sống có trước bản thể, nghĩa là
bản thể của con người chỉ được
bắt đầu sau khi xuất hiện sự sống
của người đó. Bản thể đó
tiếp tục được đắp bồi
mỗi ngày một vươn lên cao… Nếu chỉ
giải quyết cho bản thể mà không lưu tâm
tới sự sống th́ không đúng. Cho nên cuộc
sống hiện tại của con người không
thể bị giới hạn bởi một mẫu
bản thể nào cả v́ con người có một
tự do tuyệt đối để sự sống
của họ phát triển trên mọi chiều hướng
mà tôn giáo, truyền thống, luân lư, đạo đức,
pháp luật… không thể xâm phạm hay ngăn
chặn… Hiện
sinh đả kích triết học cổ điển không
biết ǵ đến con người. Con người
Nhân bản của xă hội Tây phương ngày nay là
một thứ mơ mộng, xa xỉ của giai
cấp trưởng giả. Họ tố cáo các tôn giáo,
mọi thứ huyền niệm và những ǵ gọi là
truyền thống xă hội là phi nhân (deshumanisation)… Bù
lại, Hiện sinh duy tŕ và phát triển một
chủ điểm duy nhất: Lấy con người làm
trung tâm điểm và là đối tượng suy tư. Từ
các điểm trên, chúng ta thấy Hiện sinh hướng
về duy nhân, vô thần, chối bỏ phẩm
hạnh cá nhân, truyền thống đạo đức,
luân lư xă hội và tâm linh con người. Về
mặt duy nhân, họ sống buông thả, không cho ai,
không ngày mai. Ở một mức độ nào đó,
họ tỏ ra có quan tâm t́m phương hướng
kiến thiết con người. Tuy nhiên, chủ trương
của họ vô t́nh đă làm họ tách rời
mọi trật tự của cộng đồng nhân
loại hiện nay. Những
triết gia hàng đầu của Hiện sinh như
Husserl, Berdinaeff, Jean Paul Satre, G. Marcel… dù đă t́m
mọi cách vận động cho Hiện sinh vẫn chưa
t́m ra được một lối đi hợp t́nh
hợp lư mà vẫn c̣n rất lúng túng và tiêu
cực. Những tư tưởng này trái lại
đang đi vào thoái hóa. IV/12 .- KẾT
LUẬN IV Nói
chung, triết học Tây phương chưa thành công
trong việc thiết lập một nền nhân bản
hoàn hảo mặc dù nó hiện diện trong văn chương,
trong thi ca do tính phóng khoáng của lương tri con người
chứ chưa đặt được nền
tảng triết học để làm kim chỉ Nam
trong việc dẫn dắt con người đi
tới chân thiện mỹ. Văn
minh thế giới cuối thế kỷ 20 rơ ràng
nhờ vào thành quả của triết lư Nhân bản
Suy lư Tây phương với những thành quả
tiến bộ về Khoa học kỹ thuật mà xă
hội loài người trở nên có tổ chức hơn,
vật chất dư thừa và kiến thức nhân
loại vươn lên rất cao hầu như trong
mọi lănh vực. Có điều ai cũng thấy,
sự ổn định của con người,
của gia đ́nh, của xă hội và ḥa b́nh thế
giới vẫn c̣n đầy bất trắc. Rơ ràng
nền văn minh Tây phương hiện nay chưa hoàn
thiện. |