
Hải quân Hoa Kỳ thế
kỷ 19 và tàu cướp biển
Cuộc
chiến của hải quân Hoa Kỳ hơn 200 năm
trước
Sóng vỗ dập dềnh trên mặt biển Địa
Trung Hải xanh ngắt.
Một đoàn chiến hạm hùng hậu của phương
xa được trang bị nhiều khẩu pháo
lớn chạy băng băng ngoài khơi Cape Gata - Tây
Ban Nha. Thời tiết đẹp, sóng êm, gió
lặng… song các thủy thủ trên boong đều nín
thở như thợ săn ŕnh mồi.
Chạy trốn phía trước là một soái hạm
to lớn mang tên Mashouda mang cờ Algeria, trang bị
tới tận 46 khẩu pháo. Nhưng bị áp đảo
về số lượng, và đă bị thiệt
hại, nó chạy trối chết từ vịnh Alger
mà không thoát.
9 chiếc tàu bao gồm 3 tàu khu trục, 2 tàu xà lúp, 2
thuyền buồm, 2 tàu hộ tống… theo hiệu
lệnh của vị đô đốc, tản ra
nhiều hướng, rồi bất ngờ vây lấy
tàu đối phương. Tàu Mashouda phải dùng
đến cách đáp trả bằng hỏa lực
của súng hỏa mai ở cự ly gần, nhưng
khu trục hạm đối phương là Epervier ngay
lập tức nă 9 phát đại bác vào mạn tàu
Mashouda gây ra hậu quả thảm khốc. Thủ
thủ đoàn Mashouda ḿnh mẩy đẫm máu giơ
tay xin hàng. Trận chiến kết thúc.

Cảnh hạm đội
Mỹ đánh soái hạm Mashouda của Algeria.
Đó là ngày 17/6/1815, Hải quân Hoa Kỳ non trẻ
đă giành chiến thắng quyết định trước
lực lượng cướp biển Bắc Phi trong
cuộc chiến Barbary lần thứ 2. Ai mà ngờ
được, lư do ra đời của Hải quân
Hoa Kỳ chính là để đối phó với
những tên cướp biển này.
Cây muốn lặng mà gió
chẳng đừng: nước Mỹ mới sinh
đă gặp nạn cướp biển
Hải quân Mỹ công nhận ngày 13 tháng 10 năm 1775
là ngày thành lập lực lượng của họ,
nhưng lúc đó nó chỉ được gọi là
Hải quân lục địa. Sau cuộc chiến giành
độc lập của 13 bang thuộc địa và
từ đó có Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào năm
1783, lực lượng này được giải
trừ quân bị. Thực ra họ cũng chẳng c̣n
lại ǵ nhiều, bởi lực lượng chính
đă bị tổn thất gần hết sau những
cuộc hải chiến với Hải quân Anh mạnh
hơn họ gấp bội.
Sau cuộc chiến hao người tốn của, nước
Mỹ chẳng muốn duy tŕ lực lượng
hải quân cho tốn kém, và họ tập trung vào
lợi ích trong nước hơn là hải ngoại.
Nhưng ở đời mấy ai học được
chữ ngờ.
Ngân khố trống rỗng dẫn đến nhu
cầu thực thi luật thuế quan để tăng
thêm nguồn thu, nhất là với hàng hóa nhập
khẩu, v́ việc thực thi mạnh mẽ luật
thuế quan có thể ngăn chặn t́nh trạng buôn
lậu tràn lan. Do vậy, vào ngày 4 tháng 8 năm 1790,
Quốc hội Mỹ đă thành lập Cơ quan
Thuế - Hải quân, sau đó được đổi
tên thành Cơ quan Cắt giảm Doanh thu theo đạo
luật ngày 31 tháng 7 năm 1894.
Cơ quan này có khoảng 10 chiếc tàu buồm cỡ
nhỏ hoặc vừa, chạy với tốc độ
nhanh và có mớn nước nông, tuần tra loanh quanh
gần bờ biển nước Mỹ.
Nhưng nếu muốn đẩy mạnh ngoại thương,
th́ chừng ấy là không đủ, v́ mậu
dịch đường dài th́ rủi ro an ninh sẽ
cao hơn, nhất là khi tàu hàng phải di chuyển qua
khu vực của bọn cướp biển Barbary khét
tiếng.
Trong lịch sử, những tên cướp biển
Barbary bao gồm đa phần là những tộc nhân
Berber hung dữ, c̣n có người Thổ Nhĩ
Kỳ ham lợi, người Hồi giáo bị đuổi
khỏi Tây Ban Nha. Họ hoạt động dọc
bờ biển Tây Ban Nha và Bắc Phi (ngày nay là Maroc,
Algeria, Tunisia, Libya). Có sự yểm trợ của chính
quyền các nước này, họ kiểm soát giao thông
thương mại đi đến các cảng Địa
Trung Hải theo kiểu tương tự Lương Sơn
Bạc. Hiểu nôm na rằng các chủ hàng đi qua
khu vực này phải nộp phí măi lộ nếu
muốn an toàn. Những ai từ chối làm vậy có
nguy cơ mất tàu, thủy thủ th́ bị bắt
cóc đ̣i chuộc bằng một số tiền
rất lớn, hoặc không th́ bị bán làm nô
lệ.
Cho đến khi có Tuyên ngôn Độc lập của
Mỹ năm 1776, các hiệp ước của Anh
với các quốc gia Bắc Phi đă bảo vệ tàu
Mỹ khỏi cướp biển Barbary. Tuy vậy, sau
khi Hoa Kỳ giành độc lập từ Anh quốc,
th́ tàu của họ bị Maroc chiếm giữ vào năm
1784. Mỹ phải kư “Hiệp ước Hữu
nghị Mỹ - Maroc” vào năm 1786, và sau đó
với các tay chính quyền “anh chị” khác ở
Bắc Phi, thế mà vẫn bị buộc phải
cống nạp để khỏi bị tấn công. Gánh
nặng này rất lớn: từ năm 1795, khoản
cống nạp hàng năm trả cho Nhiếp chính
Algiers lên tới 20% chi tiêu hàng năm của chính
phủ liên bang Hoa Kỳ.
Mục đích ban đầu
của sự tái lập Hải quân Hoa Kỳ: Diệt
cướp biển bảo vệ mậu dịch
Ở Paris, vị đại sứ Thomas Jefferson -
một quốc phụ của Hoa Kỳ, ngày càng
phải nghe nhiều phàn nàn của các thương gia
Mỹ. Nếu cảnh cướp bóc này cứ tái
diễn, th́ họ sẽ không làm ăn ǵ nữa và
ngành ngoại thương của Mỹ sẽ chết
yểu. C̣n việc bỏ tiền ra để trang
bị vũ khí cho chủ tàu, th́ không phải
việc của họ.
Jefferson cố gắng thuyết phục một số
quốc gia như Ư, Bồ Đào Nha và “các cường
quốc hải quân yếu hơn” vào liên minh của
Hoa Kỳ nhằm tiêu diệt cướp biển, nhưng
vô ích.
Ông cũng viết cho John Adams, một bậc quốc
phụ Hoa Kỳ khác, lúc đó là đại sứ
tại Anh, rằng có bốn lư do cơ bản để
đề nghị với tổng thống Washington và
Quốc hội về việc khôi phục lực lượng
Hải quân để bảo vệ doanh nghiệp
Mỹ. Bốn lư do này là: công lư, danh dự, thể
diện toàn cầu và quyền lực của tổng
thống để ép Quốc hội tuyên bố
chiến tranh.
Tháng 3 năm 1786, Thomas Jefferson và John Adams tới London
để đàm phán với sứ thần của
Tripoli (ngày nay là Libya). Khi họ hỏi "về cơ
sở của việc giả vờ gây chiến
với các quốc gia không gây tổn hại ǵ cho
Tripoli", vị đại sứ có tên Sidi Haji
Abdrahaman đă trả lời:
Kinh Koran của họ viết rằng tất cả
các quốc gia không thừa nhận Nhà tiên tri đều
là tội nhân, là người mà người ta có
quyền và nghĩa vụ cướp bóc, bắt làm nô
lệ; và rằng mọi người Hồi giáo
bị giết trong cuộc chiến này chắc
chắn sẽ được lên thiên đường.
Ông ta cũng nói rằng, người đầu tiên lên
tàu được tính thêm một nô lệ vào
với phần của hắn, và khi họ nhảy lên
boong tàu của kẻ thù, mỗi thủy thủ đều
hai tay hai dao găm, thêm một con dao ngậm trong
miệng; thường gây ra nỗi kinh hoàng cho kẻ
thù đến mức chúng kêu lên ngay lập tức.
Jefferson đă báo cáo cuộc tṛ chuyện với
Bộ trưởng Ngoại giao John Jay, người
đă đệ tŕnh ư kiến của đại
sứ và đề nghị lên Quốc hội. Jefferson
lập luận rằng việc cống nạp sẽ
khuyến khích nhiều cuộc tấn công hơn.
Tuy nhiên, John Adams ban đầu không đồng t́nh
với cách làm này. Ông nói: “Một cuộc
chiến sẽ tốn kém gấp mười lần
việc cống nạp”. Ông cũng nghi ngờ
liệu người nộp thuế hay Quốc hội
có chấp thuận thành lập một lực lượng
hải quân mới chỉ để bảo vệ
lợi nhuận của các doanh nhân ở những vùng
đất xa xôi hay không.
Quốc hội mất hai năm
để hồi sinh Hải quân Hoa Kỳ
Các nghị viên quốc hội Hoa Kỳ tranh luận
mất 2 năm về việc chi một số tiền
tương đương với 45 triệu Mỹ kim
theo thời giá ngày nay để đóng sáu tàu khu
trục 38 khẩu súng và 10 thuyền có mái chèo
nhằm phục hồi Hải quân Hoa Kỳ. Gánh
nặng này sẽ thuộc về các doanh nghiệp
Mỹ muốn được bảo vệ, hay là người
đóng thuế Hoa Kỳ?
Những doanh nghiệp đă có những nỗ lực
lớn để vận động hành lang, đồng
thời đóng góp cho chiến dịch. Không chỉ có
họ, c̣n có các ngân hàng và nhà tài chính, chủ tàu và
thợ xây dựng. Họ hô hào rằng: “Hàng
triệu cho quốc pḥng, không một xu cho cống
nạp”. Thế là quốc hội cũng xiêu ḷng, và
việc thông qua Hiến pháp năm 1789 đă trao cho
Quốc hội quyền trừng phạt cướp
biển, tuyên chiến, xây dựng và hỗ trợ Quân
đội, cung cấp và duy tŕ Hải quân, đồng
thời quản lư cả hai.
Cuối cùng, “lợi ích kinh doanh” đă chiến
thắng. Quốc hội tán thành Đạo luật
Hải quân, và tổng thống Washington đă kư nó vào
ngày 27 tháng 3 năm 1794, cho phép Hải quân Hoa Kỳ
được khôi phục.
Tổng chi phí mà người nộp thuế Hoa Kỳ
phải trả khi tiến hành các cuộc chiến
Barbary từ năm 1785-1815 được ước tính
là 1 triệu USD (tức là khoảng 27 tỷ USD theo
thời giá hiện tại). Nó bao gồm chi phí
bảo vệ tuyến đường thương
mại, các hoạt động hải quân và sự gián
đoạn vận chuyển. Tuy vậy, trừ
khoản vận động hành lang, các doanh nghiệp
Mỹ chưa bao giờ phải hoàn trả chi phí này
cho người nộp thuế. Tổng thống John
Adams khi đó cũng không yêu cầu điều này,
tạo ra một tiền lệ cho các tổng thống
về sau.
Song, kết quả của hoạt động hải
quân Hoa Kỳ tái lập đă khiến cho lực lượng
cướp biển Barbary ở các quốc gia Bắc
Phi bị đập tan. Sức mạnh của Hải
quân Hoa Kỳ từ đó ngày càng tăng tiến,
cuối cùng đă trở thành lực lượng
hải quân mạnh nhất hoàn cầu.

Hạm đội Great
White chứng tỏ được sức mạnh
hoạt động tầm xa của Hải quân Hoa
Kỳ vào năm 1907.
Lịch sử liệu có đang
lặp lại?
Bây giờ chúng ta quay trở lại khu vực Biển
Đỏ với sự quấy rối của lực
lượng Houthi, sẽ có phần ngạc nhiên
tự hỏi rằng lịch sử dường như
đang lặp lại.
Chiến dịch “Người bảo vệ thịnh
vượng” của Hoa Kỳ hiện nay, cũng có
thể đang lặp lại hoạt động đối
phó của Hoa Kỳ với cướp biển Barbary vào
200 năm trước. Và cũng tương tự
với kết quả của Jefferson khi du thuyết Châu
Âu, thái độ của các nước phương Tây
tham gia liên minh, trừ Anh quốc, đều không
mấy tích cực.
Trong những nước chịu lộ danh trong liên
minh th́ Pháp ủng hộ đảm bảo tự do hàng
hải nhưng không nói rơ là có tăng cường thêm
hải quân Pháp vào liên minh không, Ư th́ tham gia nhưng
không chịu dưới quyền chỉ huy của
“minh chủ” Hoa Kỳ. Tây Ban Nha quyết định
từ chối tham gia. Australia chỉ cử 11 quân nhân,
trong khi Hy Lạp cam kết điều động
một tàu hộ vệ chưa rơ chủng loại.
Seychelles là quần đảo 100.000 dân đóng góp
phần ḿnh bằng cách quan sát và thông báo v.v.

Vùng biển mà Chiến
dịch “Người bảo vệ thịnh vượng”
do Mỹ dẫn đầu hoạt động bảo
vệ an toàn hàng hải.
Khi hoạt động vận tải hàng hóa qua
Biển Đỏ gặp trở ngại th́ chi phí
vận chuyển tăng vọt, giá dầu và hàng hóa
tăng lên, gián đoạn chuỗi cung ứng v.v.
sẽ là khó khăn chung cho toàn thế giới, trong
đó có cả các nước phương Tây trong và
ngoài liên minh. Song, rất ít quốc gia chia sẻ chi phí
hay gánh vác trách nhiệm với Hoa Kỳ. Điều
này có thể khiến giới quan sát nhớ đến
vai tṛ của Tổng thống Donald Trump khi ông làm cho các
nước trong NATO không thể thoái thác trách
nhiệm san sẻ đóng góp tài chính với nước
Mỹ.
Cách tiếp cận cũ
liệu có thể giải quyết vấn đề
mới nảy sinh?
Vào năm 1786, Tổng thống George Washington đă
viết thư cho hầu tước Lafayette rằng:
“Ước ǵ chúng ta có một lực lượng
hải quân đủ sức cải biến những
kẻ thù đó thành con người, hoặc nếu
không th́ nghiền nát chúng thành hư không”.
Hiện nay, lực lượng hải quân Hoa Kỳ
rất mạnh, có thể nghiền nát nhiều kẻ
địch, song cũng không thể đủ sức dàn
trải trên mọi mặt trận. Nếu đi theo cách
tiếp cận này, biết đâu chẳng có một
vụ sa lầy giống như tại Iraq, hay thậm
chí là một Afghanistan thứ hai. Mặt khác, không như
200 năm trước là chuyện cướp đoạt
tiền bạc, mục đích của việc quấy
rối thương mại trên Biển Đỏ
hiện nay của Houthi là vấn đề chính
trị, tôn giáo và đằng sau nó là mớ ḅng bong
của lịch sử quan hệ giữa phương Tây
và Hồi giáo.
Vậy chi bằng hăy tập trung vào vế thứ
nhất trong lời của Washington, tức là
“cải biến những kẻ thù đó thành con người.”
Con người th́ có lịch sử, có văn hóa và tín
ngưỡng, cần phải hiểu được
những phương diện này mới có cách
tiếp cận đủ nhân đạo, mang tính ḥa
giải, sử dụng vũ lực chỉ là biện
pháp cuối cùng.
Tất nhiên, điều này không dễ dàng, nhưng
khó như quan hệ căng thẳng Israel - UAE mà
cựu tổng thống Donald Trump vẫn có thể hóa
giải bằng hiệp định Abraham mà không
mất một binh một tốt. Và tại sao chỉ
có Trump mới có thể đối thoại với Kim
Jong Un của Bắc Triều Tiên hay Putin nước
Nga? Thậm chí vô hiệu hóa Iran mà Iran không làm ǵ
được Mỹ? Kinh nghiệm này phải chăng
cũng đáng để chính quyền tổng
thống Biden tham khảo?
Vào 2500 năm trước, ông tổ Binh gia của
Trung Hoa là Tôn tử đă từng nói:
“Chiến tranh là một sự kiện quan
trọng của quốc gia và có ảnh hưởng
nghiêm trọng không chỉ về sự sống và cái
chết của con người, mà c̣n là sự
sống c̣n của một quốc gia. V́ vậy,
phải xem xét thận trọng và thích đáng để
bắt đầu một cuộc chiến tranh với
các quốc gia khác.”
Và:
“Trăm trận trăm thắng không phải người
xuất sắc nhất trong những người
xuất sắc. Không đánh mà khuất phục quân
địch, đó mới là người xuất
sắc nhất trong những người xuất
sắc”
Nguyên Vũ |